Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng

Ung thư buồng trứng là một trong những bệnh lý phụ khoa ác tính phổ biến. Gen RAD51 tham gia vào quá trình tái

tổ hợp tương đồng, sửa chữa đứt gãy sợi đôi DNA, do đó những đa hình và đột biến của gen RAD51 có thể liên quan

đến nguy cơ mắc ung thư. Bằng mô hình phân tích bệnh chứng, nhóm tác giả đã nghiên cứu xem liệu đa hình đơn

nucleotide rs1801321 gen RAD51 có liên quan đến nguy cơ ung thư buồng trứng ở phụ nữ Việt Nam hay không. 380

bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư buồng trứng và 380 người phụ nữ khỏe mạnh đã tham gia vào nghiên cứu.

Các kiểu gen đa hình rs1801321 của các đối tượng nghiên cứu được xác định bằng kỹ thuật PCR-RFLP (Polymerase

Chain Reaction - Restriction Fragment Length Polymorphism). Tỷ lệ các kiểu gen GG, GT, TT được xác định lần

lượt ở nhóm bệnh là 55,3; 29,2; 15,5% và ở nhóm đối chứng là 47,9; 41,8; 10,3%, có sự khác biệt có ý nghĩa thống

kê giữa hai nhóm với p=0,001. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa hình đơn nucleotide rs1801321 gen RAD51 có liên

quan đến nguy cơ mắc ung thư buồng trứng ở phụ nữ Việt Nam.

Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng trang 1

Trang 1

Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng trang 2

Trang 2

Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng trang 3

Trang 3

Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng trang 4

Trang 4

Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 6760
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng

Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng
1Khoa học Y - Dược
63(5) 5.2021
Đặt vấn đề 
Trong số các bệnh lý ác tính ở phụ nữ, ung thư buồng trứng có 
tỷ lệ mắc mới và tử vong cao trên toàn thế giới. Riêng ở Việt Nam, 
năm 2018, số ca ung thư buồng trứng là 1500, với 856 ca tử vong 
[1]. Nguyên nhân ung thư buồng trứng vẫn còn chưa rõ ràng và 
có nhiều yếu tố nguy cơ, trong đó yếu tố di truyền đã được chứng 
minh là đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành ung thư 
buồng trứng. 
Sự đứt gãy sợi đôi DNA (double strand breaks of DNA-DSBs) 
là tổn thương nguy hiểm nhất của DNA. Nếu không được sửa 
chữa, sự tích lũy của chúng làm mất ổn định hệ gen và dẫn đến 
phát triển nhiều bệnh ung thư khác nhau [2]. Gen RAD51 mã hóa 
protein RAD51 tham gia và đóng vai trò quan trọng trong quá 
trình sửa chữa tái tổ hợp tương đồng (Homologous recombination 
repair) nhằm phục hồi những tổn thương DNA [3, 4]. Các dữ liệu 
cho thấy, nồng độ RAD51 không tăng ở các tế bào bình thường. 
Raderschall và cs (2002) [5] chỉ ra rằng nồng độ RAD51 ở các tế 
bào ung thư tăng liên quan đến sự mất ổn định gen và quá trình tái 
tổ hợp tương đồng bất thường, có lẽ là dấu hiệu xuất hiện quá nhiều 
tổn thương DNA. Sự thay đổi trong tổng hợp RAD51 thường bắt 
đầu từ sự thay đổi trong phiên mã mRNA, và đa hình thái gen có 
thể ảnh hưởng sinh tổng hợp protein RAD51.
Đa hình đơn nucleotide (SNP) rs1801321 (G172T) nằm trong 
vùng không mã hóa 5’-UTR trên gen RAD51 là vị trí điều hòa của 
vùng khởi động phiên mã, liên quan đến sự biểu hiện mRNA, do 
đó ảnh hưởng đến nồng độ và chức năng của protein RAD51 [6]. 
Nhiều nghiên cứu nhận định, SNP rs1801321 là một yếu tố nguy 
cơ đối với một số bệnh ung thư khác nhau như ung thư vú, ung thư 
nội mạc tử cung, ung thư đại trực tràng, ung thư biểu mô miệng, 
vòm họng và ung thư buồng trứng [7-12]. Tuy nhiên, các nghiên 
cứu về SNP này chủ yếu trên các cộng đồng người châu Âu và hiện 
nay chưa có nghiên cứu nào về vai trò của SNP rs1801321 đối với 
ung thư buồng trứng ở cộng đồng người Việt Nam. Nghiên cứu 
của chúng tôi nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ đa hình đơn nucleotide 
rs1801321 gen RAD51 ở bệnh nhân ung thư buồng trứng và tìm 
hiểu mối liên quan của nó với nguy cơ mắc ung thư buồng trứng 
ở phụ nữ Việt Nam.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
	 Đối	tượng
 Nghiên cứu được thực hiện trên 380 bệnh nhân ung thư buồng 
trứng điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và 380 phụ nữ 
khỏe mạnh, không mắc ung thư.
Nhóm bệnh:
Tiêu chuẩn lựa chọn: được chẩn đoán xác định ung thư buồng 
trứng bằng kết quả xét nghiệm giải phẫu bệnh, không mắc các ung 
Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 
và nguy cơ mắc ung thư buồng trứng
Lê Nguyễn Trọng Nhân1, 2, Nguyễn Thu Thúy2, Nguyễn Quý Linh2, 
Trần Vân Khánh2*, Trần Huy Thịnh2, Tạ Thành Văn2, Nguyễn Viết Tiến2
1Bệnh viện Sản Nhi Cà Mau
2Trường Đại học Y Hà Nội
Ngày nhận bài 5/11/2020; ngày chuyển phản biện 8/11/2020; ngày nhận phản biện 17/12/2020; ngày chấp nhận đăng 31/12/2020
Tóm	tắt:
Ung thư buồng trứng là một trong những bệnh lý phụ khoa ác tính phổ biến. Gen RAD51 tham gia vào quá trình tái 
tổ hợp tương đồng, sửa chữa đứt gãy sợi đôi DNA, do đó những đa hình và đột biến của gen RAD51 có thể liên quan 
đến nguy cơ mắc ung thư. Bằng mô hình phân tích bệnh chứng, nhóm tác giả đã nghiên cứu xem liệu đa hình đơn 
nucleotide rs1801321 gen RAD51 có liên quan đến nguy cơ ung thư buồng trứng ở phụ nữ Việt Nam hay không. 380 
bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư buồng trứng và 380 người phụ nữ khỏe mạnh đã tham gia vào nghiên cứu. 
Các kiểu gen đa hình rs1801321 của các đối tượng nghiên cứu được xác định bằng kỹ thuật PCR-RFLP (Polymerase 
Chain Reaction - Restriction Fragment Length Polymorphism). Tỷ lệ các kiểu gen GG, GT, TT được xác định lần 
lượt ở nhóm bệnh là 55,3; 29,2; 15,5% và ở nhóm đối chứng là 47,9; 41,8; 10,3%, có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê giữa hai nhóm với p=0,001. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa hình đơn nucleotide rs1801321 gen RAD51 có liên 
quan đến nguy cơ mắc ung thư buồng trứng ở phụ nữ Việt Nam.
Từ	khóa: đa hình đơn nucleotide, G172T, RAD51, rs1801321, ung thư buồng trứng. 
Chỉ	số	phân	loại: 3.1
* Tác giả liên hệ: Email: tranvankhanh@hmu.edu.vn
DOI: 10.31276/VJST.63(5).01-05
2Khoa học Y - Dược
63(5) 5.2021
thư khác, và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: ung thư buồng trứng có kèm các ung thư 
khác, hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu.
 Nhóm đối chứng: những người khỏe mạnh, có tiền sử không 
mắc ung thư buồng trứng hay các bệnh ung thư khác đến khám sức 
khỏe hoặc đến thăm khám điều trị các bệnh lành tính tại Bệnh viện 
Phụ sản Trung ương. Độ tuổi tương đồng với nhóm bệnh.
Thời	gian	và	địa	điểm	nghiên	cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2019 tại 
Trung tâm Nghiên cứu Gen-Protein, Trường Đại học Y Hà Nội.
Phương	pháp	nghiên	cứu
Nghiên cứu bệnh - chứng, có ước tính tỷ số nguy cơ OR với cỡ 
mẫu được tính theo công thức: 
trong đó: p
1
 - tỷ lệ alen T ước lượ ...  
enzyme NgoMVI cắt thành 2 băng có kích thước 110 bp và 21 bp. 
Trong trường hợp allele T, đoạn gen được khuếch đại sẽ không có 
trình tự nhận biết của enzyme NgoMVI nên sẽ không bị cắt. Các 
kiểu gen sẽ có sản phẩm cắt tương ứng như sau:
- Kiểu gen GG: sản phẩm cắt gồm các đoạn 110 bp, 21 bp.
- Kiểu gen TT: sản phẩm cắt gồm đoạn 131 bp. 
- Kiểu gen GT: sản phẩm cắt gồm các đoạn 131 bp, 110 bp, 
21 bp.
Hình 1. Kết quả điện di sản phẩm cắt của đoạn gen chứa SNP rs1801321 
bởi enzyme NgoMVI. M: Marker 100 bp; sản phẩm PCR của đoạn gen chứa 
rs1801321 (1); kiểu gen GG (2-5, 7, 9, 10); kiểu gen TT (6); kiểu gen GT (8, 11).
Hình ảnh điện di trên gel agarose sản phẩm cắt đoạn gen chứa 
SNP rs1801321 bằng enzyme NgoMVI được thể hiện ở hình 1. 
Kết quả điện di sản phẩm của phản ứng cắt enzym cho thấy ở tất 
cả các mẫu băng thu được rõ nét, có kích thước khoảng 131 bp, 110 
bp so trên thang DNA chuẩn tùy thuộc từng kiểu gen. Từ kết quả 
trên ta thấy enzym NgoMVI đã cắt sản phẩm PCR thành các đoạn 
DNA có kích thước đúng như tính toán lý thuyết của nghiên cứu.
 Sản phẩm PCR-RFPL của các kiểu gen GG, GT, TT được 
kiểm tra lại bằng phương pháp giải trình tự gen và so sánh 
với trình tự chuẩn của gen RAD51 trên ngân hàng Genebank 
(NG_012120:c.-61G>T), tín hiệu giải trình tự của các kiểu gen với 
các đỉnh nucleotide rõ ràng, không nhiễu (hình 2). Mẫu PCR của 
kiểu gen TT có một đỉnh nucleotide T duy nhất, kiểu gen GT có 
hai đỉnh nucleotide G và nucleotide T, kiểu gen GG có một đỉnh 
nucleotide G duy nhất. Như vậy, kết quả giải trình tự thu được là 
trùng khớp với kết quả xác định kiểu gen bằng phương pháp PCR-
RFLP. 
Hình 2. Kết quả giải trình tự sản phẩm PCR đoạn gen RAD51 chứa đa hình 
đơn nucleotide rs1801321 của các bệnh nhân mang kiểu gen GG, GT, TT.
 Alen T chiếm tỷ lệ thấp lần lượt ở nhóm bệnh là 30,1% và 
nhóm đối chứng là 31,2%. Tỷ lệ các kiểu gen GG, GT, TT lần lượt 
ở nhóm bệnh là 55,3, 29,2, 15,5% và ở nhóm đối chứng là 47,9, 
41,8, 10,3%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong 
sự phân bố tỷ lệ alen giữa nhóm bệnh và nhóm đối chứng với 
4Khoa học Y - Dược
63(5) 5.2021
p<0,656, tuy nhiên có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các kiểu 
gen hai nhóm nghiên cứu với p=0,001 (bảng 2).
Bảng 2. Mối liên quan giữa đa hình rs1801321 với nguy cơ ung thư buồng 
trứng.
Kiểu gen/allele
Nhóm bệnh Nhóm chứng
OR 95%CI p
n % n %
Kiểu allele
G 531 69,9 523 68,8 1,000
0,656
T 229 30,1 237 31,2 0,952 0,765-1,184
Kiểu gen 
GG 210 55,3 182 47,9
0,001GT 111 29,2 159 41,8
TT 59 15,5 39 10,3
TT và GG
GG 210 78,1 182 82,4 1,000
0,238
TT 59 21,9 39 17,6 1,311 0,836-2,057
GG và GT
GG 210 65,4 182 53,4 1,000
0,002
GT 111 34,6 159 46,6 0,605 0,442-0,828
GT và TT
TT 59 34,7 39 19,7 1,000
0,001
GT 111 65,3 159 80,3 0,461 0,288-0,739
TT và GT+GG
GT+GG 321 84,5 341 89,7 1,000
0,030
TT 59 15,5 39 10,3 1,607 1,043-2,476
GG và TT+GT
GG 210 55,3 182 47,9 1,000
0,042
TT+GT 170 44,7 198 52,1 0,744 0,559-0,990
Nghiên cứu tiếp tục tiến hành so sánh khả năng mắc bệnh của 
các kiểu gen chứa alen T với các kiểu gen khác theo cặp mô hình di 
truyền khác. Đối với mô hình so sánh đồng hợp (TT với GG) cho kết 
quả không khác biệt về sự phân bố của hai kiểu gen giữa hai nhóm 
bệnh và chứng với p=0,238, OR=1,311 (CI 95% [0,836-2,057]). 
Trong khi hai mô hình so sánh dị hợp cho kết quả có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê, với p<0,05 và OR với khoảng tin cậy 95% 
không chứa giá trị 1, trong phân bố hai kiểu gen GG và GT giữa 
hai nhóm bệnh và chứng với p=0,002, OR=0,605 (CI 95% [0,442-
0,828]), và trong phân bố hai kiểu gen TT và GT giữa hai nhóm 
bệnh và chứng với p=0,001, OR=0,461 (CI 95% [0,288-0,739]).
Khi so sánh mô hình di truyền lặn, nhóm kiểu gen TT với 
nhóm kết hợp kiểu gen GG và GT cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu với p=0,030, OR=1,607 (CI 
95% [1,043-2,476]. Và so sánh mô hình di truyền trội, nhóm kiểu 
gen chứa alen T (GT và TT) với nhóm kiểu gen GG, có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu với p=0,042, 
OR=0,744 (CI 95% [0,559-0,990]).
Mối	liên	quan	giữa	đa	hình	rs1801321	với	giai	đoạn	bệnh	và	
mô	bệnh	học	
So sánh sự phân bố kiểu gen trong các nhóm chia theo giai 
đoạn bệnh của FIGO không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống 
kê (p=0,979) (bảng 3). Tương tự, khi so sánh sự phân bố kiểu gen 
trong các nhóm chia theo type mô bệnh học (ung thư biểu mô, ung 
thư tế bào mầm và ung thư tế bào mô đệm - sinh dục) cũng không 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,701) (bảng 3).
Bảng 3. Mối liên quan đa	hình	rs1801321 với giai đoạn bệnh và mô bệnh học. 
GG GT TT
p
n % n % n %
Giai đoạn ung thư
0,979
Giai đoạn I 62 29,5 31 27,9 18 30,5
Giai đoạn II 26 12,4 15 13,5 9 15,3
Giai đoạn III 101 48,1 55 49,5 25 42,4
Giai đoạn IV 21 10,0 10 9,0 7 11,9
Mô bệnh học
0,701
UT biểu mô 170 81,0 88 79,3 50 84,7
UT tế bào mầm 27 12,9 13 11,7 7 11,9
UT mô đệm-sinh dục 13 6,2 10 9,0 2 3,4
Bàn luận
Trong nghiên cứu này, độ tuổi hay gặp nhất của ung thư buồng 
trứng là 40-59. Nhóm tuổi ≥60 có tỷ lệ cao hơn nhóm tuổi ≤39. Sự 
phân bố về nhóm tuổi này cũng tương đồng với kết quả của một 
số nghiên cứu khác tại Việt Nam [13]. Về tình trạng kinh nguyệt 
của nhóm bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân ung thư 
buồng trứng trong nhóm chưa mãn kinh hoặc chưa có kinh là 43,7%, 
thấp hơn nhóm đã mãn kinh (56,3%). Tương đồng với các nhận định 
của các tác giả khác là ung thư buồng trứng đa phần xuất hiện ở các 
bệnh nhân cao tuổi đã mãn kinh [14]. Kết quả giải phẫu bệnh ung 
thư biểu mô buồng trứng chiếm tỷ lệ cao nhất, và nhóm bệnh nhân 
được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển (III và IV) cao hơn nhóm bệnh 
nhân phát hiện bệnh sớm (I và II) là không khác biệt so với nhận 
định của các nghiên cứu trước đây [15].
Tỷ lệ alen T chiếm thấp hơn so với alen G ở trong cả hai nhóm 
nghiên cứu và sự phân bố tỷ lệ alen giữa hai nhóm không có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê. Theo công bố Dữ liệu các biến thể di truyền 
người Việt Nam trên trang genomes.vn, nghiên cứu trên 206 người 
Kinh không có quan hệ huyết thống thì tỷ lệ alen T là 13,63% [16]. 
Tuy nhiên, tỷ lệ phân bố 3 kiểu gen giữa hai nhóm nghiên cứu lại có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,001). Điều này cho thấy có 
mối liên quan giữa đa hình đơn nucleotide rs1801321 với nguy cơ 
mắc ung thư buồng trứng. Phân tích sâu hơn các dữ liệu để so sánh 
khả năng mắc bệnh của các kiểu gen chứa alen T và các kiểu gen còn 
lại, chúng tôi cũng ghi nhận được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
trong hai nhóm nghiên cứu khi so sánh kiểu gen dị hợp GT với các 
kiểu gen đồng hợp GG và TT lần lượt với OR=0,605, CI 95% [0,442-
0,828] (p=0,002) và OR=0,461, CI 95% [0,288-0,739] (p=0,001). 
Nghiên cứu cho thấy kiểu gen dị hợp GT lại mang nguy cơ mắc 
ung thư buồng trứng thấp hơn hai kiểu gen đồng hợp là GG và TT.
Khi so sánh nhóm hai kiểu gen GG và GT với nhóm kiểu gen TT, 
với OR=1,607 (CI 95% [1,043-2,476]) (p=0,030) và so sánh nhóm 
kiểu gen GG với nhóm hai kiểu gen TT và GT, với OR=0,744 (CI 95% 
[0,559-0,990]) (p=0,042) cho thấy nhóm các cặp gen chứa kiểu gen 
GT đều có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn kiểu gen còn lại.
Nhiều nghiên cứu khác trên thế giới được thực hiện và đã công 
bố nhằm mục đích làm sáng tỏ vai trò của đa hình rs1801321 gen 
RAD51 trong nguy cơ ung thư buồng trứng, nhưng kết quả còn gây 
tranh cãi, phụ thuộc vào thiết kế, phương pháp nghiên cứu, và quần 
5Khoa học Y - Dược
63(5) 5.2021
thể người được nghiên cứu. Trong nghiên cứu của Smolarz và cs 
(2013) [12] trên phụ nữ Ba Lan với 210 bệnh nhân ung thư buồng 
trứng và 210 đối chứng, mẫu nghiên cứu là mô buồng trứng (có và 
không có tế bào ung thư), kết quả cho thấy không có sự khác biệt trong 
phân bố các alen (p=0,631) cũng như kiểu gen (p=0,689) giữa hai 
nhóm nghiên cứu, họ nhận định SNP rs1801321 gen RAD51 không 
liên quan đến nguy cơ ung thư buồng trứng ở phụ nữ Ba Lan. Nghiên 
cứu của Auranen và cs (2005) [17] phân tích tổng hợp 4 nghiên cứu 
lớn trên 1644 bệnh nhân ung thư buồng trứng và 2602 đối chứng cho 
kết quả alen T chiếm tỷ lệ 42% ở cả nhóm bệnh và nhóm chứng, và 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong sự phân bố các kiểu 
gen ở hai nhóm nghiên cứu (p=0,39). Nghiên cứu này chưa tìm thấy 
mối liên quan giữa đa hình 1801321 với nguy cơ mắc ung thư buồng 
trứng. Quaye và cs (2009) [18] tổng hợp từ 3 nghiên cứu bệnh chứng 
lớn ở Anh, Mỹ và Đan Mạch với cỡ mẫu gồm 1412 bệnh nhân ung 
thư buồng trứng và 1986 đối chứng đã kết luận rằng, không có mối 
liên quan giữa đa hình rs1801321 gen RAD51 với nguy cơ mắc ung 
thư buồng trứng (p=0,053). Nghiên cứu của Wang và cs (2001) [19] 
trên những người mang đột biến BRCA1/2 cũng chỉ ra SNP 172G>T 
gen RAD51 không liên quan đến nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
Ngoài ra, mối liên quan giữa rs1801321 với một số bệnh ung thư 
khác cũng được nghiên cứu và thu được những kết quả khác nhau. 
Nghiên cứu của Tulbah và cs (2016) [7] cho thấy đa hình 172G>T 
của gen RAD51 có liên quan đến nguy cơ mắc ung thư vú ở phụ nữ 
Ả Rập, alen T có ảnh hưởng bảo vệ khỏi nguy cơ mắc ung thư vú 
cao với OR=0,126 (CI 95%=0,080-0,199), p<0,001. Kết quả nghiên 
cứu của nhóm Romanowicz-Makowska và cs (2012) [9] chỉ ra rằng 
không có mối liên quan giữa rs1801321 với ung thư đại trực tràng ở 
bệnh nhân người Ba Lan. Tuy nhiên, một nghiên cứu của Petrovic-
Sunderic và cs (2018) [10] lại chứng minh được mối liên quan có 
ý nghĩa giữa rs1801321 với ung thư đại trực tràng ở người Serbia. 
Santos và cs (2019) [11] đã chứng minh rs1801321 kết hợp với các 
chất gây ung thư từ môi trường (rượu, thuốc lá) có liên quan đến sự 
tiến triển của ung thư biểu mô miệng và vòm họng. Một nghiên cứu 
của Michalska và cs (2014) [8] cũng trên cộng đồng phụ nữ Ba Lan 
với 630 bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung và 630 đối chứng cũng 
cho kết luận rs1801321 gen RAD51 không liên quan với nguy cơ ung 
thư nội mạc tử cung vì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
trong sự phân bố các alen (p=0,359) và các kiểu gen (p=0,392) giữa 
các nhóm nghiên cứu. 
Phân tích vai trò các alen và kiểu gen đa hình đơn nucleotide 
rs1801321 đối với giai đoạn bệnh theo FIGO và type mô bệnh học 
ung thư buồng trứng nhận thấy, không có sự liên quan giữa đa hình 
đơn nucleotide rs1801321 với giai đoạn bệnh và type mô bệnh học 
của ung thư buồng trứng. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên 
cứu của Smolarz và cs (2013) [12].
Kết luận
Trong nghiên cứu của chúng tôi hiện tại tìm thấy mối liên quan 
giữa đa hình đơn nucleotide rs1801321 gen RAD51 và nguy cơ mắc 
ung thư buồng trứng ở người Việt Nam, cụ thể kiểu gen GT có khả 
năng làm giảm nguy cơ mắc thư buồng trứng. Kết quả xét nghiệm 
đa hình đơn nucleotide rs1801321 gen RAD51 góp phần vào đánh 
giá khả năng mắc ung thư buồng trứng ở phụ nữ Việt Nam. Từ đó 
có những biện pháp tầm soát, dự phòng hợp lý nhằm chẩn đoán, 
phát hiện kịp thời ung thư buồng trứng ở giai đoạn sớm để điều trị 
hiệu quả và ít tốn kém hơn. Ngoài đa hình rs1801321 gen RAD51 
còn nhiều yếu tố nguy cơ di truyền và không di truyền ảnh hưởng 
đến nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Kết quả này đóng góp vào 
cơ sở dữ liệu cho những nghiên cứu phân tích lớn hơn và đa yếu 
tố để đánh giá chính xác hơn nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí của Bộ Y tế 
thông qua đề tài: “Nghiên cứu xây dựng quy trình xác định đột biến 
và đa hình thái đơn nucleotide trên một số gen liên quan đến ung 
thư vú và ung thư buồng trứng”. Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm 
ơn Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Trung tâm Nghiên cứu Gen-
Protein, Trường Đại học Y Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] F. Bray, et al. (2018), “Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of 
incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries”, CA: A Cancer Journal 
for Clinicians, 68(6), pp.394-424.
[2] S.P. Jackson (2002), “Sensing and repairing DNA double-strand breaks”, 
Carcinogenesis, 23(5), pp.687-696.
[3] T. Helleday (2003), “Pathways for mitotic homologous recombination in mammalian 
cells”, Mutation Research, 532(1-2), pp.103-115.
[4] J. Thacker (2005), “The RAD51 gene family, genetic instability and cancer”, Cancer 
Letters, 219(2), pp.125-135.
[5] E. Raderschall, et al. (2002), “Elevated levels of Rad51 recombination protein in 
tumor cells”, Cancer Research, 62(1), pp.219-225.
[6] L. Hasselbach, et al. (2005), “Characterisation of the promoter region of the human 
DNA-repair gene Rad51”, European Journal Gynaecological Oncology, 26(6), pp.589-598.
[7] S. Tulbah, et al. (2016), “Polymorphisms in RAD51 and their relation with breast 
cancer in Saudi females”, Onco Targets and Therapy, 9, pp.269-277.
[8] M.M. Michalska, et al. (2014), “Association of polymorphisms in the 5’ untranslated 
region of RAD51 gene with risk of endometrial cancer in the Polish population”, Archives of 
Gynecology Obstetrics, 290(5), pp.985-991.
[9] H. Romanowicz-Makowska, et al. (2012), “RAD51 gene polymorphisms and 
sporadic colorectal cancer risk in Poland”, Polish Journal of Pathology, 63(3), pp.193-198.
[10] J. Petrovic-Sunderic, et al. (2018), “Polymorphism RAD51 172G>T in Serbian 
patients with colorectal cancer”, Journal of B.U.ON, 23(4), pp.936-940.
[11] E.M. Santos, et al. (2019), “Clinicopathological significance of SNPs in RAD51 and 
XRCC3 in oral and oropharyngeal carcinomas”, Oral Diseases, 25(1), pp.54-63.
[12] B. Smolarz, et al. (2013), “Association between polymorphisms of the DNA repair 
gene RAD51 and ovarian cancer”, Polish Journal of Pathology, 64(4), pp.290-295.
[13] Phạm Thị Diệu Hà, Nguyễn Văn Tuyên (2013), “Nhận xét giá trị HE4 và test 
ROMA trong chẩn đoán ung thư buồng trứng”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 82(2), tr.37-44.
[14] D. Jelovac, and D.K. Armstrong (2011), “Recent progress in the diagnosis and 
treatment of ovarian cancer”, CA: A Cancer Journal for Clinicians, 61(3), pp.183-203.
[15] Vũ Hô, Vi Trần Doanh, Lê Thị Lộc và cộng sự (2010), “Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng - mô bệnh học và điều trị ung thư buồng trứng tại Trung tâm Ung bướu Thái Nguyên từ 
2005 - T8/2010”, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, 14(4), tr.491 -494.
[16] V.S. Le, et al. (2019), “A Vietnamese human genetic variation database”, Human 
Mutation, 40(10), pp.1664-1675.
[17] A. Auranen, et al. (2005), “Polymorphisms in DNA repair genes and epithelial 
ovarian cancer risk”, International Journal of Cancer, 117(4), pp.611-618.
[18] L. Quaye, et al. (2009), “Association between common germline genetic variation 
in 94 candidate genes or regions and risks of invasive epithelial ovarian cancer”, PLoS One, 
4(6), p.e5983.
[19] W.W. Wang, et al. (2001), “A single nucleotide polymorphism in the 5’ untranslated 
region of RAD51 and risk of cancer among BRCA1/2 mutation carriers”, Cancer Epidemioly, 
Biomarkers and Prevention, 10(9), pp.955-960.

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_da_hinh_rs1801321_gen_rad51_va_nguy_co_ma.pdf