Mở rộng dịch vụ công trực tuyến nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt ở Nghệ An
Thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là chỉ
các nghiệp vụ chi trả tiền hàng, dịch vụ và các khoản
thanh toán khác trong nền kinh tế - xã hội được thực
hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống
của các chủ thể tham gia liên quan đến số tiền phải
thanh toán mà không sử dụng đến tiền mặt.
TTKDTM được sử dụng rộng rãi trong mọi tầng lớp
dân cư, ở nhiều quốc gia là một tất yếu khách quan do
tính hiệu quả và thiết thực của nó. Quá trình TTKDTM
đối với các DVCTT không chỉ mang lại lợi ích cho nền
kinh tế nói chung, cho Nhà nước, các đơn
vị cung ứng dịch vụ công, các ngân hàng,
khách hàng mà còn ý nghĩa tích cực đối
với toàn cộng đồng xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Mở rộng dịch vụ công trực tuyến nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt ở Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mở rộng dịch vụ công trực tuyến nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt ở Nghệ An
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2020 [19] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. Dịch vụ công trực tuyến và thanh toán không dùng tiền mặt 1.1. Dịch vụ công trực tuyến Theo Nghị định 43/2011/ NĐ-CP của Chính phủ, ngày 13/6/2011, Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước thì “Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan Nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng”. DVCTT là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của Nhà nước được thực hiện trên môi trường mạng máy tính. Vì vậy, nó luôn gắn với công việc quản lý Nhà nước, cung cấp các “hàng hóa” dịch vụ về hành chính, tư pháp, dịch vụ thiết yếu cho người dân... Khi sử dụng DVCTT, các n ThS. Phạm Thị Mai Hương Trường Đại học Kinh tế Nghệ An Cùng với việc đẩy mạnh thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, Chính phủ cùng các đơn vị cung ứng dịch vụ công trực tuyến đang tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, mở rộng triển khai dịch vụ công trực tuyến (DVCTT), nhằm nâng cao quá trình tổ chức điều hành, quản lý các hoạt động của Nhà nước và nền kinh tế phát triển có hiệu quả hơn. Theo đó, tại tỉnh Nghệ An cũng trong chủ trương chung của Chính phủ đã và đang triển khai mở rộng DVCTT nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần đưa tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trong cả nước tăng lên. MỞ RỘNG DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN NHẰM THÚC ĐẨY THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở NGHỆ AN Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2020 [20] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đơn vị đảm bảo được một số điều kiện về hệ thống thiết bị máy móc và nguồn nhân lực đầy đủ như: máy vi tính có kết nối mạng internet, biết sử dụng các phần mềm chuyên dụng hoặc trên website của cơ quan Nhà nước, có chữ kí số (một số dịch vụ); có nhân lực xử lý DVCTT, nhân lực quản trị kỹ thuật; Phải đầu tư và thực hiện bảo trì, bảo dưỡng, duy trì hoạt động, nâng cấp, chỉnh sửa cổng thông tin điện tử, các phần mềm chuyên dụng; Bảo đảm đường truyền, máy móc, trang thiết bị phục vụ việc thu thập, xử lý thông tin; Bảo đảm an toàn thông tin và dữ liệu trên môi trường mạng Theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông (Thông tư số 26/2009/TT-BTTTT ngày 31/07/2009 về việc cung cấp thông tin và đảm bảo khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước), DVCTT chia thành 4 mức độ: mức độ 1, mức độ 2, mức độ 3 và mức độ 4. Sử dụng mức độ càng cao đòi hỏi điều kiện về sử dụng DVCTT cũng cao hơn, đồng thời lợi ích mang lại cho các chủ thể cũng tăng lên nhiều hơn. 1.2. Thanh toán không dùng tiền mặt Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế - xã hội được thực hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống của các chủ thể tham gia liên quan đến số tiền phải thanh toán mà không sử dụng đến tiền mặt. TTKDTM được sử dụng rộng rãi trong mọi tầng lớp dân cư, ở nhiều quốc gia là một tất yếu khách quan do tính hiệu quả và thiết thực của nó. Quá trình TTKDTM đối với các DVCTT không chỉ mang lại lợi ích cho nền kinh tế nói chung, cho Nhà nước, các đơn vị cung ứng dịch vụ công, các ngân hàng, khách hàng mà còn ý nghĩa tích cực đối với toàn cộng đồng xã hội. 1.3. Các loại dịch vụ công trực tuyến thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt Việc sử dụng các DVCTT qua TTKDTM đòi hỏi có nhiều bên tham gia cùng một lúc, bao gồm Nhà nước (tham gia với tư cách quản lý Nhà nước về các hoạt động của dịch vụ công và TTKDTM, đại diện là các cơ quan chủ yếu như Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước... ban hành các văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện các DVCTT); các cơ quan, đơn vị cung cấp DVCTT như bảo hiểm, kho bạc, thuế, hải quan, xăng dầu, bệnh viện, bưu điện, truyền hình...; các tổ chức cung cấp dịch vụ TTKDTM như ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính - tín dụng; các cá nhân, tổ chức sử dụng DVCTT thanh toán không dùng tiền mặt. Theo đó, các loại DVCTT thường do các cơ quan của Nhà nước cung cấp như cơ quan bảo hiểm xã hội; thuế, hải quan, kho bạc, bệnh viện, trường học, giao thông vận tải, xăng dầu, bưu điện, điện lực, truyền hình... Các loại DVCTT không dùng thanh toán bằng tiền mặt do các cơ quan đơn vị này cung cấp như: chi trả bảo hiểm xã hội (chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội); thu, chi ngân sách nhà nước; thanh toán tiền điện, nước; thu phí tự động không dừng trong giao thông đường bộ; thanh toán cước viễn thông; thanh toán viện phí, phí bảo hiểm y tế tại các cơ sở y tế; thanh toán xăng dầu và hàng hóa, dịch vụ xăng dầu; thu nộp học phí tại các trường học; nộp cước dịch vụ viễn thông, truyền hình, ... cho những khách hàng đăng ký, sử dụng dịch vụ TTKDTM. Các DVCTT có thể được áp dụng trong TTKDTM như chi trả qua tài khoản Thanh toán không tiền mặt trong dịch vụ công ngày càng phổ biến Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2020 [ ... ác DVCTT mức độ 3, 4 với Cổng DVC quốc gia trong năm 2020. Tính đến hết năm 2020, sẽ có 139/500 (chiếm khoảng 28%) DVCTT mức độ 3, 4 được tích hợp, kết nối với Cổng DVC Quốc gia trên cả nước và tại địa bàn tỉnh Nghệ An. 2.2. Đối với sử dụng dịch vụ công trực tuyến Trên cơ sở việc quy định và cung cấp DVCTT của Nhà nước và các đơn vị cung cấp, DVCTT đã được triển khai rộng rãi trong nền kinh tế - xã hội. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, kế hoạch của ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại Việt Nam và các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính đang tích cực triển khai các giải pháp TTKDTM tại Nghệ An một cách đồng bộ và tổng thể. Việc đẩy nhanh triển khai một cách hiệu quả các DVCTT như hệ thống thuế điện tử, kho bạc điện tử, hải quan điện tử không chỉ mang lại lợi ích hỗ trợ công tác quản lý tài chính của ngành mà còn mang lại hiệu quả rõ rệt cho toàn xã hội. Kết quả cụ thể ATM; máy chấp nhận thẻ (POS); dịch vụ internet banking; mobile banking; Viet- telPay; AutoPay; Ví điện tử; thanh toán qua kết nối mã QR... Đây là những hình thức được áp dụng và khuyến khích các đơn vị cung ứng dịch vụ công và khách hàng lựa chọn thanh toán không dùng tiền mặt khi sử dụng DVCTT. 2. Thực trạng việc cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến qua thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian qua tại Nghệ An 2.1. Đối với cung cấp dịch vụ công trực tuyến Thời gian qua, kể từ khi có sử dụng các DVCTT cho đến nay, đã có rất nhiều văn bản của Nhà nước được ban hành để ứng dụng và phát triển nó. Chính phủ và các cơ quan chủ quản như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Thông tin - Truyền thông... ban hành các văn bản như: Thông tư số 32/2017/TT-BTTT ngày 01/6/2017 về Quy định về việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến và bảo đảm khả năng và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước; Nghị định 101/2012/NĐ - CP về thanh toán không dùng tiền mặt; Chỉ thị 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN; Thông tư 13/2017/TT-BTC ngày 15/02/2017 và Thông tư 136/2018/TT- BTC của Bộ Tài chính quy định về quản lý thu, chi bằng tiền mặt qua hệ thống Kho bạc; Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/2/2018 của Thủ tướng phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công như thu thuế, điện, nước sinh hoạt, học phí, viện phí, chi trả các chương trình an sinh xã hội... Từ hệ thống các văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện của Nhà nước, Bộ Tài chính đã tiến hành triển khai cung cấp các DVCTT đến các tỉnh thành và đơn vị Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2020 [22] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI kho bạc nhà nước đã tập trung triển khai DVCTT cấp độ 4 đến hầu hết các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước có giao dịch với kho bạc nhà nước cấp dưới. Nhờ vậy, các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước không trực tiếp đến kho bạc nhà nước để giao dịch mà gửi hồ sơ, chứng từ qua cổng thông tin DVC của kho bạc nhà nước vào bất cứ thời điểm nào (24h/7). Đến nay, tỷ lệ đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước đăng ký tham gia DVC tại địa bàn Tỉnh tương đối cao. Tuy nhiên, số lượng hồ sơ thực hiện trên DVCTT còn tương đối thấp và chỉ tập trung vào các khoản chi thường xuyên như chi lương, điện nước, văn phòng phẩm có giá trị thấp, do quy trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ còn nhiều bước dẫn đến mất nhiều thời gian; đường truyền ứng dụng nhiều lúc còn chậm nhất là vào những giờ cao điểm, nên chưa thuận tiện cho đơn vị giao dịch và các công chức làm khi làm nhiệm vụ. Đối với hoạt động thu tiền điện của ngành Điện lực, trong các năm qua cũng hết sức đẩy mạnh dịch vụ TTKDTM. Theo số liệu từ Công ty Điện lực Nghệ An, hiện đã có 11 ngân hàng phối hợp với Điện lực Nghệ An và Điện lực tại các huyện, thành phố, thị xã; tổng thu tiền điện qua ngân hàng phát sinh 951.745 món, tổng số tiền là 2.286 tỷ đồng. Dịch vụ thu tiền nước qua ngân hàng phát sinh 6.807 món, tổng số tiền là 7 tỷ đồng. Khu vực có tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện theo hình thức TTKDTM cao nhất là tại thành phố Vinh. Đối với lĩnh vực Y tế trong Tỉnh, hiện nay Sở Y tế Nghệ An đã phối hợp với các ngân hàng thương mại để phát hành thẻ khám bệnh, thanh toán tiền viện phí qua thẻ. Đến nay, đã phát hành được 8.027 thẻ khám bệnh thông minh và có áp dụng thanh toán viện phí qua thẻ được áp dụng tại bệnh viện đa khoa thành phố Vinh (phối hợp với Vietinbank Vinh). Đây là đơn vị đầu tiên trong khu vực tiên phong ứng dụng khám bệnh bằng thẻ thông minh, một trong những bước đột phá lớn trong giai đoạn đổi mới toàn diện của ở một số lĩnh vực được thể hiện như sau: Trong lĩnh vực Thuế và Hải quan, theo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Nghệ An, hiện nay đã có 10.188 doanh nghiệp đăng ký tài khoản thực hiện nộp thuế điện tử (đạt 100%); giao dịch phát sinh thu thuế tại các ngân hàng là 3.500.031 món, với số tiền là 151.272 tỷ đồng; hơn 99,98% doanh nghiệp tham gia thực hiện thủ tục hải quan bằng phương thức điện tử.. Trong lĩnh vực chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng đã được mở rộng trên địa bàn toàn Tỉnh. Đến nay, đã có nhiều cơ quan, đơn vị thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và quản lý người hưởng theo 2 hình thức: Chi bằng tiền mặt và chi qua ATM. Theo đó, bảo hiểm xã hội tỉnh Nghệ An đã thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng qua ATM với số tiền 693 tỷ đồng, chiếm 11,8% tổng số tiền chi trả hàng tháng; đã thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp qua ATM với số tiền 107 tỷ đồng, chiếm 99,9% tổng số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp hàng tháng. Bảo hiểm xã hội tỉnh Nghệ An cũng đã giải quyết và chi trả chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe với số tiền 5,7 tỷ đồng, chiếm 15,1% tổng số tiền chi trả; chi trả an sinh xã hội phát sinh qua ngân hàng là 119.953 món với tổng số tiền là 3.961 tỷ đồng. Hình thức này được nhận định là còn một số nhược điểm khi chỉ triển khai được ở địa bàn thành phố là chủ yếu, điểm chi trả chủ yếu là đi thuê, nhân viên chi trả chưa nắm kỹ và cập nhật kịp thời các quy định về chính sách, chế độ BHXH, bảo hiểm thất nghiệp nên giải thích thắc mắc của người hưởng chưa đầy đủ, kịp thời. Đối với Kho bạc Nhà nước tỉnh, các năm qua đã tổ chức công tác phối hợp thu ngân sách nhà nước với các ngân hàng thương mại nhằm tập trung nhanh, đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Đa dạng hóa các phương thức thanh toán trong thu nộp ngân sách nhà nước như in- ternet banking, ATM, POS. Nhiều kho bạc nhà nước tại các địa bàn địa phương đã thường xuyên tuyên truyền, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp và các đơn vị giao dịch sử dụng các phương thức TTKDTM trong thu, chi ngân sách nhà nước. Cùng với việc đẩy mạnh TTKDTM, Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2020 [23] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI thông tin, cơ sở dữ liệu, nhân lực phục vụ cho các hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Theo đó, các hoạt động, trao đổi thông tin giữa các cơ quan Nhà nước với cá nhân, tổ chức hoạt động phục vụ vì lợi ích cho cộng đồng sẽ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật. - UBND tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, theo đó các đơn vị thực hiện đúng lộ trình triển khai DVCTT theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định thủ tục hành chính thuộc các lĩnh vực công. - Các đơn vị, cơ quan Nhà nước tại địa bàn tỉnh phải tập trung đẩy mạnh, đổi mới ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, nhất là trong việc giải quyết các thủ tục hành chính, cung cấp các DVCTT đối với những lĩnh vực có liên quan đến người dân và doanh nghiệp trong và ngoài Tỉnh. - Nâng cấp, bổ sung và tích hợp kịp thời các DVCTT của các Bộ, ngành cung cấp cùng các đơn vị trực thuộc lên cổng thông tin điện tử của các Bộ, ngành đó tại Tỉnh theo đúng kế hoạch và cam kết của Bộ Tài chính và của Tỉnh. Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ triển khai DVCTT cấp 3 và cấp 4 rộng rãi hơn nữa đến các cơ quan, đơn vị trong Tỉnh nhằm hoàn thành chỉ tiêu theo cam kết (hàng năm tích hợp đạt tỷ lệ 30% trong tổng DVCTT đưa ra của Bộ Tài chính). - Tăng cường sự đảm bảo về an toàn và bí mật thông tin của các cá nhân khi sử dụng DVCTT. Với các dịch vụ điện tử thì sự thuận tiện, dễ sử dụng sẽ đối ngược với vấn đề bảo mật an ninh. Việc cung cấp nhiều dịch vụ với quy trình đơn giản, thuận tiện cho người sử dụng thì độ an toàn sẽ thấp. Vì vậy, các công ty xây dựng phần mềm DVCTT cần phải có một phương pháp để cân bằng cả hai yếu tố bảo mật và dễ sử dụng. - Đối với các đơn vị cung cấp và thực hiện DVCTT: + Cần đầu tư thêm và nâng cấp hạ tầng kỹ thuật trong cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán đối với DVCTT. Các ngân hàng thương mại cần triển khai thêm các dịch vụ thanh toán mới, hiện đại dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông, bảo đảm an toàn, tiện lợi hơn nhu cầu thanh toán của khách hàng, cung cấp dịch vụ tài chính với chi phí rẻ và thân thiện, tạo điều kiện cho người thu nhập thấp và khách hàng ở khu vực vùng sâu, vùng xa cũng có thể tiếp cận các DVCTT. bệnh viện, góp phần đẩy mạnh TTKDTM đối với DVCTT. Tuy nhiên, nhìn chung người dân vẫn đang chủ yếu thanh toán bằng tiền mặt cho các bệnh viện và cơ sở y tế. Do đó, Sở Y tế Tỉnh có vai trò rất lớn trong chỉ đạo, tổ chức triển khai sử dụng DVCTT thông qua TTKDTM, thực hiện chủ trương của Chính phủ và của Tỉnh điều hành. Ngoài các lĩnh vực trên, TTKDTM còn được sử dụng trong các lĩnh vực như Giáo dục và Đào tạo trong thu học phí, lĩnh vực Giao thông vận tải trong thu phí cầu đường, lĩnh vực Truyền thông, thông tin, Truyền hình, .... Những lĩnh vực này đã và đang áp dụng TTKDTM khi cung cấp DVCTT. Tuy nhiên, mức độ khai thác chưa triệt để do còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy, cần có các giải pháp để mở rộng DVCTT để thúc đẩy TTKDTM trong thời gian tới tại địa bàn tỉnh Nghệ An. 3. Giải pháp mở rộng dịch vụ công trực tuyến nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong giai đoạn hiện nay tại tỉnh Nghệ An Mở rộng và nâng cao chất lượng DVCTT là việc đưa các DVCTT đến nhiều hơn với các cá nhân, tổ chức, đồng thời giúp cho Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đạt được các mục đích, lợi ích của mình cao hơn, thông qua đó thúc đẩy TTKDTM trong nền kinh tế - xã hội tại địa bàn tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, Chính phủ nói chung và cấp lãnh đạo cùng các cơ quan ban ngành có liên quan của tỉnh Nghệ An cần phải có những giải pháp để mở rộng DVCTT trong thời gian tới như sau: - Cần xây dựng một môi trường pháp lý được nhiều người quan tâm, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện các chứng từ, hồ sơ điện tử, các quy định về việc cung cấp DVCTT. Đồng thời, triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2020 [24] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Tài liệu tham khảo: 1. Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư số 32/2017/TT-BTTT ngày 01/6/2017 về Quy định về việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước. 2. Chính phủ, Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/2/2018 về Phê duyệt “Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công”. 3. Chính phủ, Nghị định 101/2012/NĐ-CP về Thanh toán không dùng tiền mặt và Nghị định 80/2016/NĐ-CP về Sửa đổi, bổ sung một số điều của NĐ số 101/2012/NĐ-CP. 4. Chính phủ, Chỉ thị 20/2007/CT-TTg về Trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 5. UBND Tỉnh Nghệ An, Quyết định số 2996/QĐ- UBND ngày 13/07/2018, về việc Ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/2/2018 về Phê duyệt “Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công” trên địa bàn Tỉnh Nghệ An. 6. www.laodong.vn, Thanh toán dịch vụ công không dùng tiền mặt thúc đẩy bằng cách nào? 4. Kết luận Trong thời gian qua, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, cùng với các Bộ ngành trên cả nước, UBND Tỉnh Nghệ An đã chỉ đạo thực hiện triển khai đồng bộ, hiệu quả việc cung cấp các DVCTT đến các cá nhân, tổ chức trong địa bàn Tỉnh. Thông qua việc đẩy mạnh cải cách hành chính trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước, đồng thời thiết lập hệ thống hạ tầng kỹ thuật thông tin hiện đại, tiếp cận các kỹ thuật và phương thức tiên tiến trong TTKDTM, giúp cho người dân, các tổ chức, các doanh nghiệp... trên địa bàn Tỉnh được sử dụng các DVCTT của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ sử dụng DVCTT tại địa bàn Tỉnh cần phải mở rộng và phát triển hơn nữa, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình TTKDTM trong xã hội càng nhiều hơn nữa thì lợi ích các chủ thể đạt được sẽ cao hơn, tạo đà cho nền kinh tế - xã hội đất nước nói chung và ở Nghệ An nói riêng phát triển mạnh hơn. Để đạt được điều đó, đòi hỏi cần có sự phối hợp của tất cả các chủ thể, từ Chính phủ, UBND Tỉnh, các Bộ, ngành, doanh nghiệp, người dân cùng nâng cao ý thức, vai trò trách nhiệm thực hiện các giải pháp để cùng đạt được các mục tiêu đã đề ra./. + Thường xuyên triển khai khảo sát, đánh giá mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với chất lượng phục vụ của từng đơn vị hơn nữa; tổ chức công khai, cập nhật, niêm yết kịp thời các DVCTT thuộc lĩnh vực của đơn vị mình đã được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới; tăng cường hướng dẫn, giải thích, cung cấp các thông tin về DVCTT cho tổ chức, cá nhân giao dịch với đơn vị mình đề đảm bảo việc thực hiện DVCTT được thuận lợi. + Mở rộng hợp tác giữa các đơn vị cung ứng DVC với các ngân hàng, tổ chức cung ứng giải pháp thanh toán; đẩy nhanh khả năng kết nối, trao đổi thông tin dữ liệu giữa đơn vị cung ứng DVCTT với ngân hàng. Tăng cường sự chỉ đạo của các Bộ, ban, ngành và UBND Tỉnh trong việc triển khai thanh toán qua ngân hàng đối với DVCTT. + Các đơn vị cung cấp DVCTT và đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông cần phát triển mạnh các phương thức TTKDTM rộng rãi hơn nữa như qua các ngân hàng trực tuyến, qua điện thoại di động, thanh toán không tiếp xúc và chấp nhận thanh toán không tiếp xúc, thanh toán không tiếp xúc trên các thiết bị di động khác, thanh toán qua QR Code, Tok- enization...; áp dụng các biện pháp an ninh, tiêu chuẩn bảo mật mới, tiên tiến phù hợp với xu hướng thanh toán trên thế giới, đảm bảo thanh toán nhanh chóng, an ninh an toàn, tiện lợi và có chi phí hợp lý. - Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể tham gia DVCTT, đặc biệt cần quy định cụ thể ràng buộc hành chính đối với các đơn vị cung cấp DVCTT và người dân về thực hiện giao dịch TTKDTM, cần có chế tài đối với các cơ sở kinh doanh, dịch vụ né tránh các hoạt động TTKDTM để trốn thuế, thu thêm phí sử dụng DVCTT của khách hàng. - Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng bằng nhiều hình thức và nhóm đối tượng khác nhau nhằm nâng cao khả năng tiếp cận DVCTT trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy các hình thức TTKDTM trong nền kinh tế - xã hội tại địa bàn tỉnh Nghệ An phát triển hơn.
File đính kèm:
- mo_rong_dich_vu_cong_truc_tuyen_nham_thuc_day_thanh_toan_kho.pdf