Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị

Bài báo này giới thiệu kết quả nghiên cứu lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng

kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị. Nghiên cứu xem xét bẩy mô hình mưa thiết kế dạng khối

xen kẽ của Chow với thời lượng mưa là 0,5h, 1h, 2h, 3h, 6h, 12h và 24 giờ được xác định từ tài liệu

mưa tự ghi tại trạm Láng, Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng phương pháp so sánh lưu lượng xác định từ

mô phỏng mưa-dòng chảy trận mưa thiết kế và mô phỏng mưa-dòng chảy toàn liệt mưa quá khứ

trên các lưu vực con khác nhau của một lưu vực thoát nước ở Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy,

thời lượng mưa thiết kế phù hợp phụ thuộc vào diện tích của lưu vực thoát nước, lưu vực càng lớn

thì thời lượng mưa thiết kế phù hợp càng dài. Sơ bộ có thể chọn thời lượng mưa thiết kế là 0,5h đối

với lưu vực có diện tích nhỏ hơn 3ha, chọn thời lượng là 6h đối với lưu vực có diện tích khoảng từ

20 đến 50 ha; chọn thời lượng 24h đối với các lưu vực có diện tích khoảng từ 200ha đến 300ha.

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị trang 1

Trang 1

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị trang 2

Trang 2

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị trang 3

Trang 3

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị trang 4

Trang 4

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị trang 5

Trang 5

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị trang 6

Trang 6

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 17220
Bạn đang xem tài liệu "Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị

Lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 52 (3/2016) 114
BÀI BÁO KHOA HỌC 
LỰA CHỌN THỜI LƯỢNG MƯA THIẾT KẾ 
ĐỂ MÔ PHỎNG KIỂM TRA HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC MƯA ĐÔ THỊ 
Nguyễn Tuấn Anh1, Lê Văn Chín1 
Tóm tắt: Bài báo này giới thiệu kết quả nghiên cứu lựa chọn thời lượng mưa thiết kế để mô phỏng 
kiểm tra hệ thống thoát nước mưa đô thị. Nghiên cứu xem xét bẩy mô hình mưa thiết kế dạng khối 
xen kẽ của Chow với thời lượng mưa là 0,5h, 1h, 2h, 3h, 6h, 12h và 24 giờ được xác định từ tài liệu 
mưa tự ghi tại trạm Láng, Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng phương pháp so sánh lưu lượng xác định từ 
mô phỏng mưa-dòng chảy trận mưa thiết kế và mô phỏng mưa-dòng chảy toàn liệt mưa quá khứ 
trên các lưu vực con khác nhau của một lưu vực thoát nước ở Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
thời lượng mưa thiết kế phù hợp phụ thuộc vào diện tích của lưu vực thoát nước, lưu vực càng lớn 
thì thời lượng mưa thiết kế phù hợp càng dài. Sơ bộ có thể chọn thời lượng mưa thiết kế là 0,5h đối 
với lưu vực có diện tích nhỏ hơn 3ha, chọn thời lượng là 6h đối với lưu vực có diện tích khoảng từ 
20 đến 50 ha; chọn thời lượng 24h đối với các lưu vực có diện tích khoảng từ 200ha đến 300ha. 
Từ khóa: Thời lượng mưa thiết kế, lưu lượng thiết kế, thoát nước mưa đô thị. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1 
Theo Tiêu chuẩn thiết kế hệ thống thoát nước 
đô  thị  hiện  hành  (TCVN  7957,  2008),  khi  tính 
toán  thiết  kế  các  hệ  thống  thoát  nước  mưa  đô 
thị,  người  thiết  kế  cần  thực  hiện  2  bước,  bước 
thứ nhất: tính lưu lượng thiết kế theo công thức 
cường độ  giới  hạn;  bước  thứ  hai:  Sử  dụng  mô 
hình toán để tính toán mưa – dòng chảy và diễn 
toán  thủy  lực  trong  hệ  thống  thoát  nước  nhằm 
kiểm tra lại kết quả sơ bộ ở bước thứ nhất. Khi 
mô phỏng quá  trình mưa – dòng chảy  trong hệ 
thống  thoát  nước  cần  sử  dụng  một  trận  mưa 
thiết kế làm biên vào hệ thống. Tiêu chuẩn thiết 
kế  này  quy  định  thời  lượng  của  trận mưa  thiết 
kế  có  thể  chọn  từ  3h  đến  6h.  Tuy  nhiên  trong 
thực  tế,  nhiều  tác  giả  đã  chọn  thời  lượng  mưa 
thiết  kế  là  12  giờ,  24  giờ  hoặc  dài  hơn  nữa 
(Nguyễn Song Dũng, 2005).  
Theo  các  tác  giả  Cao  (1993),  Despotovic 
(1996), Alfieri (2007),.. các thông số cơ bản của 
trận mưa thiết kế (tổng lượng,  thời  lượng, phân 
bố mưa theo thời gian) hợp lý nhất dùng để xác 
định quy mô, kích thước của các công trình dẫn 
và tháo nước (kênh, cống, trạm bơm,..) trong hệ 
1 Trường Đại học Thủy lợi. 
thống tiêu nước mưa là các thông số mưa tạo ra 
lưu  lượng  đỉnh  có  giá  trị  gần  nhất  với  giá  trị 
lưu lượng đỉnh được xác định từ liệt quan trắc 
dòng chảy hoặc từ mô phỏng toàn liệt quá trình 
mưa  -  dòng  chảy  của  các  trận  mưa  quá  khứ 
tương ứng với  tần  suất  thiết kế. Trong  thực  tế 
thường  không  có  số  liệu  quan  trắc  dòng  chảy 
đô  thị  trong nhiều năm vì  vậy  có  thể  sử  dụng 
phương pháp mô phỏng toàn liệt bằng mô hình 
toán để xác định các  thông số hợp  lý của  trận 
mưa thiết kế.    
Để cung cấp  thêm cơ sở khoa  học  lựa chọn 
thời  lượng mưa  thiết kế, bài báo này giới  thiệu 
kết quả nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của thời 
lượng trận mưa thiết kế đến lưu lượng của dòng 
chảy trong một hệ thống thoát nước mưa đô thị 
ở Hà Nội,  từ đó kiến nghị  lựa chọn  thời  lượng 
mưa  thiết  kế  hợp  lý  khi  tính  toán  thiết  kế  hệ 
thống thoát nước mưa đô thị. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để xác định thời  lượng hợp lý nhất của trận 
mưa  thiết kế,  trong nghiên cứu này các  tác giả 
sử dụng phương pháp  so  sánh kết quả  tính  lưu 
lượng  từ  phương  pháp  mô  phỏng  mưa  –  dòng 
chảy trận mưa thiết kế và mô phỏng toàn liệt các 
trận mưa trong quá khứ (Cao, 1993), (Despotovic, 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 52 (3/2016)  115
1996),  (Alfieri,  2007)  và  (Nguyễn  Tuấn  Anh, 
2015). Phương pháp này bao gồm các bước sau 
đây: 
(1) Xây dựng các mô hình mưa  thiết kế với 
thời lượng mưa khác nhau để lựa chọn.  
Ở đây tài  liệu mưa tự ghi  tại  trạm Láng, Hà 
Nội và mô hình mưa phân bố dạng khối xen kẽ 
(mô hình mưa thiết kế của Chow) được chọn để  
nghiên cứu. Theo các nghiên cứu của các tác giả 
nêu trên, mô hình mưa khối xen kẽ cho kết quả 
tính  toán  lưu  lượng  thiên  về  an  toàn,  đã  được 
nhiều  nước  trên  thế  giới  ứng  dụng  trong  tính 
toán  thoát  nước  đô  thị.  Ở  Việt  Nam,  đã  ứng 
dụng  phương  pháp  này  cho  dự  án  cải  tạo  hệ 
thống thoát nước sông Tô Lịch, Hà Nội. 
(2)  Chọn  một  lưu  vực  thoát  nước  điển  hình 
gần trạm đo mưa để nghiên cứu tính toán.  
Lưu vực thoát nước mưa Quận Thanh Xuân, 
TP  Hà  Nội  (phạm  vi  lưu  vực  sông  Tô  Lịch  – 
xem hình 1) cách trạm mưa Láng 1,5 km được 
lựa  chọn  là  lưu  vực  nghiên  cứu.  Toàn  bộ  lưu 
vực có diện tích tự nhiên 366 ha và không có hồ 
điều  hòa. Cao  trình mặt đất phổ biến  ở cao  độ 
+5,0 ÷ +6,0 m.  
Hình 1. Vị trí hệ thống thoát nước 
Quận Thanh Xuân – Lưu vực sông Tô Lịch 
(3) Lựa chọn mô hình để mô phỏng quá trình 
mưa-dòng chảy trên lưu vực. 
Mô  hình  toán  thủy  văn,  thủy  lực  SWMM 
(Storm Water Management Model) của Cơ quan 
bảo vệ môi trường Hoa Kỳ  được lựa chọn để mô 
phỏng quá trình mưa-dòng chảy cho lưu vực trên. 
(4) Mô phỏng quá trình mưa - dòng chảy cho 
các trận mưa thiết kế đã được xác định ứng với 
tần suất thiết kế P, từ đó xác định được các lưu 
lượng đỉnh tại các vị trí tương ứng với các trận 
mưa thiết kế khác nhau gọi là QTK(P). 
(5) Mô phỏng quá trình mưa - dòng chảy cho 
các trận mưa trong các năm đã đo đạc mưa. Từ 
kết quả mô phỏng xác định được lưu lượng đỉnh 
(Qmax) của từng trận mưa tại các vị  trí xác định 
trước. 
(6) Từ lưu lượng đỉnh của các trận mưa trong 
năm,  xác  định  được  lưu  lượng  đỉnh  lớn  nhất 
(Qmaxmax)  trong  năm  tại  các  vị  trí  đó.  Tính  tần 
suất với liệt Qmaxmax của các năm mô phỏng ứng 
với tần suất thiết kế P  xác định được lưu lượng 
đỉnh tại các vị trí ứng với tần suất thiết kế gọi là 
QTL(P).  
 (7) So sánh kết quả lưu lượng đỉnh tại cùng 
một vị  trí đã xác định ở trên  từ mô phỏng mưa 
toàn  liệt và   mô phỏng mưa thiết kế qua chỉ số 
sai số tương đối ƐQ: 
%100.
Q
QQ
)P(TL
)P(TL)P(TK
Q
   
Thời lượng mưa thiết kế nào cho giá trị tuyệt 
đối sai số |ƐQ| nhỏ nhất thì đó là thời lượng mưa 
thiết kế thích hợp nhất cho vị trí đó. Nghiên cứu 
trên vài vị trí trong hệ thống có thể rút ra được 
kết  luận  về  thời  lượng  mưa  thiết  kế  thích  hợp 
nhất. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
 - Xây dựng các mô hình mưa thiết kế với 
thời lượng khác nhau 
Nghiên  cứu  đã  sử  dụng  phương  pháp  khối 
xen  kẽ  của  Chow  (1988)  để  xây  dựng  07  mô 
hình mưa thiết kế ứng với thời lượng mưa 0,5h, 
1h,  2h,  3h,  6h,  12h  và  24h,  tần  suất  P=10% 
(xem các hình 1÷7). Các mô hình mưa thiết kế 
khối xen kẽ với bước thời gian là 10 phút được 
xây dựng dựa trên đường quan hệ lượng mưa - 
thời lượng mưa - tần suất (DDF) tại trạm Láng, 
Hà Nội được giới thiệu trong bài báo của tác giả 
(Nguyễn Tuấn Anh, 2009). 
(1) 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 52 (3/2016) 116
Hình 2. Mô hình mưa thiết kế với gian mưa 0,5 giờ. 
Hình 3. Mô hình mưa thiết kế với gian mưa 1 giờ. 
Hình 4. Mô hình mưa thiết kế với gian mưa 2 giờ. 
Hình 5. Mô hình mưa thiết kế với gian mưa 3 giờ. 
Hình 6. Mô hình mưa thiết kế với gian mưa 6 giờ. 
Hình 7. Mô hình mưa thiết kế với gian mưa 12 giờ 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 52 (3/2016)  117
Hình 8. Mô hình mưa thiết kế với gian mưa 
24 giờ 
 - Lập sơ đồ tính toán trong mô hình SWMM 
Lưu  vực  thoát  nước  được  mô  phỏng  trong 
SWMM  với  101  nút,  98  đoạn  cống  và  41  tiểu 
lưu  vực  với  tổng  diện  tích  366  ha.  Nước  mưa 
thoát  ra  tại  các  cửa  xả  CX1,  CX2,  CX3,  CX4, 
CX5  trên  sông  Tô  Lịch  và  CX6  sang  lưu  vực 
bên cạnh (xem Hình 9). 
Bảng 1. Diện tích phụ trách của các cửa xả 
Cửa xả 
Diện tích 
phụ trách (ha) 
Ghi chú 
Cửa xả 1  34,1  Đổ ra sông Tô Lịch 
Cửa xả 2  33,4  Đổ ra sông Tô Lịch 
Cửa xả 3  244,0  Đổ ra sông Tô Lịch 
Cửa xả 4  2,89  Đổ ra sông Tô Lịch 
Cửa xả 5  30,9  Đổ ra sông Tô Lịch 
Cửa xả 6  20,6 
Đổ sang lưu vực 
bên cạnh, rồi chảy 
ra sông Tô Lịch 
Hình 9. Sơ đồ hệ thống thoát nước nghiên cứu 
trong SWMM 
Tại  lưu  vực  thoát  nước  này  không  có  trạm 
quan  trắc  lưu  lượng  dòng  chảy,  do  vậy  để  xác 
định  các  tham  số  mô  hình,  chúng  tôi  sử  dụng 
thông  tin  từ  khảo  sát  thực  địa,  các  bảng  tra 
thông  số  trong  tài  liệu  (Dương  Thanh  Lượng, 
2010) và tham khảo kết quả nghiên cứu trên lưu 
vực  thoát  nước  sông  Tô  Lịch  (Nguyễn  Song 
Dũng, 2005). 
- Mô phỏng các trận mưa thiết kế tại các vị 
trí tính toán 
Các  cửa  xả  được  lựa  chọn  là  các  vị  trí  tính 
toán. Sử dụng phần mềm SWMM mô phỏng hệ 
thống thoát nước với biên mưa là các trận mưa 
thiết kế, biên dưới tại các cửa xả (CX) được giả 
thiết chảy tự do; chọn bước thời gian mô phỏng 
là 2,0 giây, bước thời gian biểu thị kết quả là 10 
phút,  thời  gian  mô  phỏng  là  48  giờ;  chọn  mô 
hình Horton để  tính  thấm  trên bề mặt  lưu vực, 
chọn  phương  pháp  mô  phỏng  là  động  lực  học. 
Kết quả thể hiện tại bảng sau đây:  
Bảng 2. Lưu lượng thiết kế tương ứng các mô hình mưa thiết kế 
Vị trí 
tính toán 
Diện tích 
phụ trách 
(ha) 
QTK(P) (m
3/s), P = 10% 
MH 0,5h 
(1) 
MH 1h 
(2) 
MH 2h 
(3) 
MH 3h 
(4) 
MH 6h 
(5) 
MH 12h 
(6) 
MH 24h 
(7) 
Cửa xả 1  34,1  7,07  7,95  8,21  9,935  9,99  10,09  10,21 
Cửa xả 2  33,4  7,31  8,22  8,31  8,422  8,427  8,435  8,44 
Cửa xả 3  244,0  28,78  32,19  34,02  37,32  37,66  37,83  38,04 
Cửa xả 4  2,89  1,243  1,258  1,26  1,280  1,285  1,293  1,301 
Cửa xả 5  30,9  4,82  5,36  5,72  6,676  6,665  6,764  6,899 
Cửa xả 6  20,6  4,71  4,91  4,97  5,254  5,251  5,266  5,279 
Từ  bảng  trên  thấy,  lưu  lượng  thiết  kế  tăng 
dần từ mô hình mưa 0,5h đến mô hình mưa 24h, 
nghĩa là thời gian mưa thiết kế càng dài thì lưu 
lượng càng tăng.  
- Mô phỏng các trận mưa trong quá khứ 
Sử dụng tài liệu mưa tự ghi bước thời gian 10 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 52 (3/2016) 118
phút  tại  trạm  khí  tượng  Láng  trong  các  tháng 
mùa mưa từ năm 1985 đến năm 2004 (đây cũng 
là  tài  liệu  mưa  dùng  để  xây  dựng  các  đường 
DDF  ở  trên)  làm  biên  mưa  trong  mô  hình 
SWMM  để  mô  phỏng  quá  trình  mưa  –  dòng 
chảy của các  trận mưa  trong các năm quá khứ. 
Hình  10  dưới  đây  biểu  thị  đường  quá  trình 
cường độ mưa  theo  thời gian của  trận mưa rào 
ngày 27/7/1985. 
Hình 10. Quá trình mưa theo thời gian 
của trận mưa ngày 27/7/1985 
Từ các  chuỗi  lưu  lượng đỉnh  thu được  sau 
khi  chạy  mô  hình  SWMM  với  các  trận  mưa 
trong quá khứ, mỗi năm chọn một giá  trị  lưu 
lượng đỉnh lớn nhất (Qmaxmax), sau đó tính toán 
tần  suất  liệt  số  liệu  này    xác  định  được  lưu 
lượng  thiết  kế  tương  ứng  tần  suất  P=10% 
(bảng 3). 
Bảng 3. Lưu lượng thiết kế tần suất 10% 
xác định từ mô phỏng các trận mưa quá khứ 
Vị trí  QTL(P) (m
3/s) 
Cửa xả 1  10,01 
Cửa xả 2  8,43 
Cửa xả 3  41,6 
Cửa xả 4  1,15 
Cửa xả 5  6,65 
Cửa xả 6  5,19 
- So sánh kết quả tính lưu lượng thiết kế từ 
mô phỏng mưa toàn liệt và mô phỏng mưa thiết 
kế qua chỉ số sai số ƐQ 
Bảng 4. Kết quả tính sai số |ƐQ| (%) 
Vị trí 
Diện tích 
lưu vực 
(ha) 
Giá trị tuyệt đối của sai số |εQ| (%) 
MH 0,5h 
(1) 
MH 1h 
(2) 
MH 2h 
(3) 
MH 3h 
(4) 
MH 6h 
(5) 
MH 12h 
(6) 
MH 24h 
(7) 
Cửa xả 1  34,1  29,37  20,58  17,98  0,60  0,10 1,05  2,03 
Cửa xả 2  33,4  13,29  2,49  1,42  0,12  0,02 0,13  0,17 
Cửa xả 3  244,0  30,82  22,62  18,22  10,19  9,37  8,96  8,46 
Cửa xả 4  2,89  8,09 9,39  9,57  11,3  11,73  12,43  13,13 
Cửa xả 5  30,9  27,52  19,40  13,98  0,36  0,20 1,69  3,72 
Cửa xả 6  20,6  9,25  5,39  4,24  1,22  1,16 1,45  1,70 
Từ kết quả tính toán trên cho thấy: 
Đối với  các  lưu  vực  tương ứng  với  các  cửa 
xả 1, 2, 5, 6 có diện tích từ 20,6 đến 34,1 ha: sai 
số  |ƐQ|  giảm dần  từ mô hình mưa 0,5h đến mô 
hình mưa 6h và tăng dần từ mô hình mưa 6h đến 
mô  hình  mưa  24h  và  mô  hình  mưa  phù  hợp 
nhất,  tạo  ra sai số nhỏ nhất  là mô hình mưa có 
thời lượng mưa là 6h; 
Đối với lưu vực tương ứng với cửa xả 3, sai 
số giảm dần  từ mô hình mưa  thiết kế 0,5h đến 
mô hình mưa 24h. Mô hình mưa phù hợp nhất là 
mô hình mưa 24h.  
Đối với lưu vực tương ứng với cửa xả 4, sai 
số  tăng  dần  từ  mô  hình  mưa  thiết  kế  0,5h  đến 
mô hình mưa 24h. Mô hình mưa phù hợp nhất là 
mô hình mưa 0,5h. Đây là lưu vực có diện tích 
nhỏ nhất trong 06 lưu vực xem xét và tương ứng 
có thời lượng mưa hợp lý ngắn nhất. 
Kết quả cũng cho thấy  thời  lượng mưa thiết 
kế hợp lý có xu thế tăng theo diện tích lưu vực 
thoát nước. Nếu xem xét thêm các mô hình mưa 
thiết kế có thời lượng trong khoảng từ 3h đến 6h 
và từ 6h đến 12h thì xu thế này có thể rõ rệt hơn 
(xem hình 11). 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 52 (3/2016)  119
Hình 11. Quan hệ giữa thời lượng mưa thiết kế 
hợp lý với diện tích lưu vực thoát nước 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Mô phỏng quá  trình mưa – dòng chảy  trong 
hệ  thống  thoát nước mưa đô  thị  tương ứng với 
trận  mưa  thiết  kế  để  kiểm  tra  quy  mô,  kích 
thước, năng lực của hệ thống thoát nước là việc 
không  thể  thiếu  trong  công  tác  thiết  kế  các  hệ 
thống  thoát  nước  mưa  đô  thị.  Thời  lượng  của 
trận mưa thiết kế có ảnh hưởng tới kết quả tính 
toán hệ thống, vì vậy, việc nghiên cứu lựa chọn 
thời lượng mưa thiết kế phù hợp để nâng cao độ 
chính xác của kết quả tính toán là cần thiết. Bài 
báo này đã nghiên cứu bẩy thời lượng mưa thiết 
kế là 0,5h, 1h, 2h, 3h, 6h, 12h và 24h với cùng 
mô hình mưa khối xen kẽ sử dụng tài liệu mưa 
trạm  Láng,  Hà  Nội.  Kết  quả  cho  thấy,  thời 
lượng mưa thiết kế phù hợp phụ thuộc vào diện 
tích  của  lưu  vực  thoát  nước,  lưu  vực  càng  lớn 
thì thời lượng mưa thiết kế phù hợp càng dài. Sơ 
bộ có  thể chọn thời  lượng mưa  thiết kế  là 0,5h 
đối với lưu vực có diện tích nhỏ hơn 3ha, chọn 
thời  lượng  là  6h  đối  với  lưu  vực  có  diện  tích 
khoảng  từ  20  đến  50  ha;  chọn  thời  lượng  24h 
đối  với  các  lưu  vực  có  diện  tích  khoảng  từ 
200ha đến 300ha.  
Do  hạn  chế  về  thời  gian,  bài  báo  mới  chỉ 
nghiên  cứu  bẩy  thời  lượng  mưa  thiết  kế  khác 
nhau  với  mô  hình  mưa  khối  xen  kẽ  cho  một 
trạm  mưa  và  một  lưu  vực  thoát  nước  đô  thị 
không có hồ  điều  hòa  ở  Hà  Nội.  Để  có  thể đề 
xuất một tiêu chuẩn về thời lượng mưa thiết kế 
dùng để mô phỏng các hệ thống thoát nước mưa 
đô  thị  ở  Việt  Nam  cần  thiết  phải  có  thêm  các 
nghiên cứu cho nhiều thời lượng mưa, nhiều mô 
hình  mưa,  nhiều  lưu  vực  với  đặc  trưng  khác 
nhau và nhiều trạm mưa khác nhau. 
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Alfieri,  L.,  Laio  F.,  Claps  P.  (2007).  A simulation experiment for optimal design hyetograph 
selection, Hydrological  Processes. DOI: 10.1002/hyp.6646. 
Nguyễn Tuấn Anh (2009). Xây dựng mối quan hệ lượng mưa – thời gian mưa – tần suất (DDF) để 
tính toán mưa tiêu thiết kế cho vùng đồng bằng Bắc Bộ, Tạp chí KHKT Thủy lợi và Môi trường, số 
27 (11/2009). 
Nguyen  T.  A.,  G.  Grossi  and  R.  Ranzi  (2015).  Design storm for Mixed urban and agricultural 
drainage systems in the Northern Delta in Vietnam, Journal of Irrigation and Drainage Engineering, 
ASCE, DOI: 10.1061/(ASCE)IR.1943-4774.0000962.  
Cao, C., Piga E., Saba A. (1993). Design storm calibration through continuous simulation. Proc. 6th 
Int. Conf. Urban storm Drainage, Niagara Falls, Vol. I, pp. 318-323. 
Chow, V.T., Maidment D.R. and L.W.  Mays. (1988). Applied hydrology, Mc Graw-Hill. Chapter 14. 
Despotovic, J., Petrovic J., Vukmirovic V. (1996). Some considerations of urban drainage design 
pratice using experimental data, Atmospheric Research 42, 279-292. 
Nguyễn Song Dũng (2005). Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý điều hành hệ thống thoát 
nước sông Tô Lịch, TP Hà Nội, Luận án tiến sĩ, Đại học Thủy Lợi. 
Dương Thanh Lượng (2010). Giáo trình mô phỏng mạng lưới thoát nước bằng SWMM, Nhà xuất 
bản xây dựng, Hà Nội.   
Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 7957: 2008, Thoát nước – Mạng lưới và công trình bên ngoài – Tiêu 
chuẩn thiết kế. 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 52 (3/2016) 120
Abstract: 
SELECTION OF DURATION OF DESIGN STORM TO SIMULATE URBAN STORM 
WATER DRAINAGE SYSTEM 
This paper presents a procedure to select duration of design storm to simulate urban storm water 
drainage systems. The study considered seven durations (0,5h, 1h, 2h, 3h, 6h, 12h and 24h) of the 
alternating block design storms derived from DDFs of Lang raingauge station, Hanoi, Vietnam. 
Using the combination of the design storm method and continuous simulation approach for a 
typical urban drainage basin in Hanoi, the study defined suitable duration of design hyetograph for 
different catchments such as duration of 0,5h for areas less than 3ha, 6h for areas between 20ha 
and 50ha, 24h for areas from 200ha up to 300ha. 
 Keywords: duration of design storm,  design flow rate, urban drainage. 
BBT nhận bài: 20/12/2015 
Phản biện xong: 25/3/2016 

File đính kèm:

  • pdflua_chon_thoi_luong_mua_thiet_ke_de_mo_phong_kiem_tra_he_tho.pdf