Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ
TÓM TẮT
Dân ca quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc bộ (Việt
Nam) với hình thức đối đáp diễn xướng điển hình. Bài viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính (thu thập, phân tích tư liệu; phân loại, miêu tả các kiểu lịch sự, phương thức thể hiện lịch
sự trong dân ca quan họ). Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ được thể hiện trên hai phương
diện: lịch sự quy ước và lịch sự chiến lược. Các loại lịch sự này được thể hiện bằng các phương
thức: phương thức thể hiện lịch sự chiến lược (dùng từ ngữ xưng hô, dùng các từ ngữ tình thái,
lịch sự trong sự vận động chiến lược giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ, lịch sự trong
những lời rào đón, đưa đẩy); phương thức thể hiện lịch sự quy ước (lịch sự trong văn hóa ứng xử
có tính quy thức xã hội). Nghiên cứu lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ đã cho thấy đặc điểm
văn hóa ứng xử của con người Kinh Bắc: ưa sự nhẹ nhàng, tế nhị trong giao tiếp.
Từ khóa: Ngôn ngữ học; lịch sự quy ước; lịch sự chiến lược; các phương thức lịch sự; dân ca quan họ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 201(08): 103 - 108 e-ISSN: 2615-9562 LỊCH SỰ GIAO TIẾP TRONG DÂN CA QUAN HỌ Nguyễn Diệu Thương*, Phạm Quốc Tuấn Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Dân ca quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc bộ (Việt Nam) với hình thức đối đáp diễn xướng điển hình. Bài viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (thu thập, phân tích tư liệu; phân loại, miêu tả các kiểu lịch sự, phương thức thể hiện lịch sự trong dân ca quan họ). Lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ được thể hiện trên hai phương diện: lịch sự quy ước và lịch sự chiến lược. Các loại lịch sự này được thể hiện bằng các phương thức: phương thức thể hiện lịch sự chiến lược (dùng từ ngữ xưng hô, dùng các từ ngữ tình thái, lịch sự trong sự vận động chiến lược giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ, lịch sự trong những lời rào đón, đưa đẩy); phương thức thể hiện lịch sự quy ước (lịch sự trong văn hóa ứng xử có tính quy thức xã hội). Nghiên cứu lịch sự giao tiếp trong dân ca quan họ đã cho thấy đặc điểm văn hóa ứng xử của con người Kinh Bắc: ưa sự nhẹ nhàng, tế nhị trong giao tiếp. Từ khóa: Ngôn ngữ học; lịch sự quy ước; lịch sự chiến lược; các phương thức lịch sự; dân ca quan họ. Ngày nhận bài: 02/5/2019; Ngày hoàn thiện: 20/5/2019; Ngày duyệt đăng: 06/6/2019 COMMUNICATION POLITENESS IN QUAN HO FORK SONGS Nguyen Dieu Thuong*, Pham Quoc Tuan TNU - University of Education ABSTRACT Quan ho folk songs are the typical folk songs of the Northern Delta region (Vietnam) with the typical form of call and respond singing. The paper used qualitative research methods (collecting, analyzing materials, classifying, describing types of politeness, methods of expressing politeness in Quan ho folk songs). The communicate politeness in the folk songs is shown in two aspects: conventionalized politeness and strategic politeness. These types are expressed by the following methods: strategic politeness (using vocative words, modal words, using hedges words, using strategic movement in communication associated speech acts); conventionalized politeness (using standard in social behavioral culture). Studying politeness in Quan ho folk songs has shown the cultural behavior of Kinh Bac people: love of lightness, subterness in communication. Keywords: Linguistics; conventionalized politeness; strategic politeness; methods of expressing politeness; Quan ho folk songs. Received: 02/5/2019; Revised: 20/5/2019; Approved: 06/6/2019 * Corresponding author. Email: dieuthuong2212@gmail.com Email: jst@tnu.edu.vn 103 Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 1. Giới thiệu Lỗ mũi mười tám gánh lông Trong giao tiếp, nói đúng, đủ thông tin chưa Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho hẳn đã đạt được hiệu quả. Người Việt có câu: Đêm nằm thì ngáy o o Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà nói tiếng dịu dàng dễ nghe. “Dễ nghe” ở đây không chỉ đảm bảo quy tắc “đúng, đủ” mà (Ca dao) còn là nói làm sao cho “lọt lỗ tai”, tức người Bài ca dao nói đến vẻ “kém duyên” của người nghe có thể dễ dàng chấp nhận được. Muốn phụ nữ. Đó là hành vi “chê”. “Chê” đối với vậy, cần thiết phải đảm bảo quy tắc lịch sự bất cứ ai thì cũng đã là đe dọa thể diện. Thêm trong hội thoại. nữa, lại là chê hình thức và “ý tứ” của người Theo G.M. Green, lịch sự là những chiến lược phụ nữ thì lại càng là bất lịch sự. Nhưng điều nhằm duy trì hay thay đổi quan hệ liên cá đó được “hóa giải” là: “râu rồng trời cho”, nhân. Điều này được nõi rõ trong định nghĩa “ngáy cho vui nhà”. Cách nói rất hài hước (sử của J. Thomas: “Phép lịch sự được xem như dụng biện pháp tu từ phóng đại) đã là một là một (hay một loạt chiến lược) được người bước giảm nhẹ sự đe dọa thể diện của hành vi nói dùng để hoàn thành một số mục đích như “chê”. Mặt khác, sự “tháo ngòi” khi đẩy đến thiết lập hoặc duy trì những quan hệ hài hòa. đỉnh của hành vi “chê” được lý giải bởi chính Trong khi đó, tác giả Lakoff đã phân loại lịch cái sự “chồng yêu”. Từ đó, cho thấy người sự thành: lịch sự quy thức và phi quy thức, Việt rất coi trọng tình cảm. Tình cảm là yếu lịch sự bạn bè (khuyến khích tình cảm bạn tố có thể quyết định và làm chuyển hóa những bè). G.N. Leech đã xây dựng quy tắc lịch sự điều dù có là vạn “tường thành” trở ngại. Vì dựa trên hai khái niệm tổn thất (cost) và lợi thế mà: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/ Thất ích (benefit). Lý thuyết của Brown và bát sông cũng lội, tam thập lục đèo cũng Levinson được xem là nhất quán và có sự ảnh qua...”, “Yêu nhau cau sáu bổ ba/ Ghét nhau hưởng rộng rãi nhất. Khác với Leech, Brown cau sáu bổ ra làm mười”... Đây chính là một và Levinson đã xây dựng lý thuyết của mình quy luật tâm lý của người Việt. Cũng bởi vậy trên khái niệm thể diện (mượn của Goffman). mà, câu ca dao trên dù có là “chê” như ... tính cách phương pháp nghiên cứu định tính. Để có và văn hóa. Trước hết, bản sắc văn hóa được nguồn tư liệu (là những ngữ liệu thể hiện tính bộc lộ từ chính cách con người thể hiện lịch lịch sự trong giao tiếp), tác giả đã tiến hành sự trong giao tiếp. Chẳng hạn: phân tích tư liệu, phân loại các kiểu, các 104 Email: jst@tnu.edu.vn Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 phương thức thể hiện lịch sự được sử dụng gặp, còn chưa hiểu về đối phương thì người ta (chủ yếu qua các bài hát đối đáp) trong ca từ thường vận dụng cách xưng hô theo quy tắc được thu thập từ các nguồn tài liệu chính: lịch sự: “xưng khiêm - hô tôn”. Sau thời gian website: https://quanhobacninh.vn, Các bài quen biết, cách xưng hô có thể được điều hát đối quan họ, Dân ca quan họ Bắc Ninh, chỉnh cho phù hợp. Cách xưng hô: người - Không gian văn hóa quan họ Bắc sông Cầu. em; anh Hai/ chị Hai - em... trong dân ca Các thủ pháp: miêu tả; đối chiếu, so sánh quan họ đã trở nên phổ biến. Đó là lối đối đáp cũng được tác giả sử dụng trong quá trình thu rất đặc trưng. Các liền anh, liền chị, dù không thập, phân tích và phân loại tư liệu. biết tuổi tác ra sao nhưng đều hô “anh Hai (Ba,...)”, “chị Hai (Ba....)” và xưng “em”. 3. Kết quả và bàn luận Điều đó thể hiện sự tôn kính bằng cách đặt Dựa trên phạm vi chuẩn mực lịch sự, phép đối phương là bề trên. Ngoài ra, cách xưng hô lịch sự có thể phân chia thành hai loại: lịch sự người - em (Người về, em vẫn ngậm ngùi... quy ước (mang tính chất xã hội) và lịch sự [2]; Người về em dặn người rằng/ Đâu hơn chiến lược (mang tính chất cá thể). Lịch sự người lấy, đâu bằng người đợi em... [2]). quy ước có tính chuẩn mực ứng xử gắn liền Người là ai? Là anh? Là chị? Hay là “mình”? với quan niệm văn hóa chung của cộng đồng. Cách gọi như có sự phân thân vừa rất tình tứ Lịch sự chiến lược là lịch sự được xây dựng ngọt ngào, gần gũi, trìu mến vừa cho thấy sự dựa trên những tính toán về các mức độ hiệu tôn trọng nhất mực. Điều này còn được liên lực đe dọa thể diện bởi hành vi ở lời của cá tưởng đến cách xưng hô trong ca dao... Có nhân trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể; từ đó, điều đáng chú ý, nếu “người” được dùng để sẽ vận dụng các biện pháp bù đắp để nhằm hô gọi theo ngôi thứ hai có sắc thái ý nghĩa giảm thiểu mức độ đe dọa. Trong giao tiếp, khác với “người” được dùng ở ngôi thứ ba. Ở các nhân vật giao tiếp phải đồng thời chú ý, ngôi thứ ba, chúng thường được dùng ghép cân nhắc, tạo ra sự hài hòa giữa hai kiểu với các đại từ chỉ định: người đó, bên đó... lại chuẩn mực này. Cũng trong quy luật này, dân tạo khoảng cách xa xôi (Người á đó có nơi ca quan họ đã thể hiện sự vận dụng linh hoạt song bên ả đó có nơi rồi chị rằng Năm ơi bởi các chiến lược lịch sự. Khi các liền anh, người đó có nơi song bên ả đó có nơi rồi... [3, liền chị tham gia giao tiếp, họ không chỉ thực tr. 111]). Đại từ “ai” được dùng để xưng hô hiện các chiến lược giao tiếp gắn với các hành mang ý nghĩa bất định: nào ai... [3, tr. 16], vi ngôn ngữ mà còn rất chú trọng đến những nhớ đến ai... [3, tr. 15], ai làm đến nỗi nhớ chuẩn mực là những phép tắc ứng xử truyền thương thế này... [3, tr. 136], lòng này ai tỏ cho nhau hỡi lòng [3, tr. 137]. Qua đó, nét ý thống của dân tộc. Điều đó được thể hiện cụ nhị, duyên dáng, nhẹ nhàng trong ca từ lại thể như mục 3.1 và 3.2 dưới đây. càng mượt mà, chạm đến được trái tim của 3.1. Lịch sự chiến lược muôn người, muôn đời. 3.1.1. Lịch sự trong cách xưng hô Ngoài ra, dân ca quan họ còn sử dụng các từ Từ xưng hô trong tiếng Việt rất đa dạng. Có xưng hô thường gặp: chàng, thiếp. Điều này, các cặp từ xưng hô có tính hô ứng: cùng/ làm cho không gian diễn xướng quan họ có ngang bậc (tôi, tớ, tao...), không cùng bậc/ thêm âm hưởng trang trọng và thơ mộng. trên, dưới (anh - em, chị - em, chú - cháu...). Cách xưng hô hoán dụ, ẩn dụ cũng được sử Đối với mối quan hệ gia đình, mọi người sẽ dụng để tạo nét ý nhị trong dân ca quan họ: xưng hô theo mối quan hệ họ hàng huyết Xin quan họ đừng quản ngại chúng chê bạn thống. Nếu chỉ có mối quan hệ xã hội thì tuổi cười là tôi nói ra... [4, tr. 20], duyên tình ơi, tác thường được lấy làm tiêu chuẩn để xác Bây giờ rồng lại gặp mây/ Để rồng than thở định cách xưng hô. Trong trường hợp mới với mây đôi lời [5, tr. 403]. Email: jst@tnu.edu.vn 105 Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 Như vậy, cách xưng hô trong quan họ có sự tích cực (Anh Hai, anh Ba nói mà như sấm bên đa dạng nhưng gắn với mục đích và hoàn Đông, chớp động bên Tây, mưa tỉnh Hà Nội mà cảnh giao tiếp đã thể hiện được sự khác nhau đây ướt đường đấy ạ [2]), Chị Hai đứng đấy về sắc thái biểu cảm cũng như mối quan hệ miệng cười như hoa/ Mây tuôn suối tóc tuyết tiệm tiến hay tiệm thoái của nhân vật trữ tình. nhường màu da [3, tr. 53]. Nhìn chung đều cho thấy sự ý nhị, văn hoa..., Quy tắc lịch sự không chỉ là sử dụng những mềm mại, khéo léo, đậm tình người, dịu dàng hành vi làm tăng thể diện của người nghe mà mà đằm thắm ân tình xứ Bắc. còn làm giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện. 3.1.2. Lịch sự thể hiện qua việc sử dụng các Trách là hành vi ngôn ngữ có mức độ đe dọa tình thái từ đến thể diện dương tính của người nghe. Xen giữa các thực từ, loạt các tình thái từ lặp Trong dân ca quan họ, ta thường gặp lối trách đi lặp lại là nét riêng chỉ có trong dân ca quan rất duyên như sau: Anh rằng Năm ơi chứ mấy họ (... ối a, tính ta, ư hừ... ạ) có tác dụng làm em ngồi rồi trách là phận i má ơ má a đào... mềm hóa, đồng thời như nhịp tả sự dùng [2], tơ hồng là tơ hồng đa đoan... trách ông dằng, nhẹ nhàng mà kín đáo, e ấp... Bên cạnh Thiên... đưa đẩy là đưa đẩy cái tơ hồng... đó, việc sử dụng nhiều từ ạ còn cho thấy sự Người là người ngoan sao mà khéo i i la ơi kính trọng trong giao tiếp giữa các liền anh, hư ơi hừ là hời hư la hới hời hư phụ lòng là liền chị. Đồng thời, nó còn tạo ra sự xa cách, phụ lòng với nhau... chốn sông sâu sao đưa đẩy đưa đẩy cái tơ ơ hồng...” [4, tr. 11]. nhiệt thành nhưng không vồn vã, mà rất thanh Chuyện tình dang dở, không đến được với nhã: đường đấy ạ [4, tr. 7]. nhau, thay vì trách người lại là trách tơ hồng, 3.1.3. Lịch sự trong sự vận động chiến lược ông Thiên, phận má đào. Ở đây, ta thấy quan giao tiếp gắn liền với các hành vi ngôn ngữ điểm triết lý đạo Phật về duyên phận được lấy Quy tắc khiêm - tôn không chỉ thể hiện trong làm cái cớ rất duyên đã tránh được sự tổn hại cách xưng hô mà còn thấy ngay trong cách thể diện dương tính và giảm bớt sự tổn thất ứng xử gắn liền với các hành vi ngôn ngữ. Đó thể diện âm tính cả người nói và người nghe. vừa là chiến lược giao tiếp mềm dẻo linh hoạt Duyên tình lỡ làng, nhân vật trữ tình nhiều của các nhân vật giao tiếp (cụ thể là các liền khi không trách mà chỉ than (phận em là anh, liền chị) vừa là quy tắc ứng xử của xã phận trái duyên, duyên em nhỡ...). Nhân vật hội Việt Nam. trữ tình đã mượn chữ “duyên” gắn với thuyết Trước hết, khen là hành vi ngôn ngữ có tác duyên khởi, duyên sinh, nhân duyên của triết dụng làm tăng thể diện của người nghe. Tuy lý Phật giáo. Không phải do tại anh, ko phải nhiên, có những trường hợp, hình thức của phát tại em... Từ đó, lời than đã giảm đáng kể mức ngôn là lời khen nhưng lại làm đe dọa thể diện độ tổn hại thể diện của người than mà cũng của người nghe nếu thiếu đi điều kiện chân không làm ảnh hưởng đến thể diện của đối thành. Tuy nhiên, xét trong các bài dân ca quan phương. Vẫn giãi bày được tâm sự thở than họ, không có trường hợp nào như vậy. Trong nhưng không hề bi lụy. các bài hát dân ca quan họ, sử dụng hành vi Dân ca quan họ là các câu hát giao duyên. khen là một chiến lược tạo ra tính lịch sự cho Nói đến dân ca quan họ không thể không nói phát ngôn. Hành vi khen được tạo ra bằng cách đến hành vi tỏ tình. Hành vi tỏ tình được gợi sử dụng các tính từ chỉ tính chất, phẩm chất tích đến từ những cái cớ rất duyên, rất ý tứ; được cực (Người ngoan tôi hỏi nhời này có nên [3, tr. dẫn dắt từ sự việc này, đến sự việc khác một 21]. Bên cạnh đó, nhiều hơn là phương thức cách tự nhiên (Bạn tình ơi... duyên tình cách khen gián tiếp bởi cấu trúc so sánh với đặc điểm mấy con sông nên tôi phải lụy đò. Bởi chưng của yếu tố so sánh mang tính chất, phẩm chất trời tối nên tôi phải lụy cô bán hàng trống 106 Email: jst@tnu.edu.vn Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 cơm. Khen ai là khen khéo vỗ,... khéo gảy... đưa đẩy (Gấm đây là đôi tay i vừa thêu là nên tôi trót say huê... nên tôi phải đi tìm thêu em vừa dệt gấm hoa đôi em dệt ơ đôi ba huê Xin quan họ đừng quản ngại chúng chê người ... Em thêu này chăn loan tay em cùng bạn cười là tôi nói ra... [4, tr. 20]. Như vậy, là thêu như gối phượng cùng màn chăn... đưa hành vi tỏ tình được thực hiện bằng cách nói về tới bạn tri âm...tìm không là không thấy vòng, rào đón đưa đẩy. Đây là chiến lược làm bạn ơ đôi ba người ơi ấy trên con đường trên tăng thể diện dương tính của người nghe đường luốn những ngẩn ngơ ... nhớ ai nay em (được yêu thích) và giảm mức độ đe dọa thể chờ là mai như em đợi... [4, tr. 74]. diện dương tính của người nói (phòng ngừa Bên cạnh đó, sự rào đón còn thể hiện ở việc trường hợp bị cười chê)... Ngoài việc tỏ tình sử dụng lập luận dự báo về kết quả... để bằng hành vi ngôn ngữ trực tiếp, hành vi ngôn thuyết phục: Người về tính toán làm chi/ Yêu ngữ gián tiếp cũng là một phương thức được nhau trò chuyện vân vi/ Kẻo mai khiếm khuyết sử dụng thể hiện lịch sự chiến lược (Khách điều gì lại bảo tại tôi/ Người về tính toán làm đến í đến chơi hự hừ nhà là chơi hự hừ nhà/ chi/ Yêu nhau người quyết ngay đi/ Kẻo mai Đốt than ớ ơ dậu mà quạt i nước mấy pha trà tiếng bấc tiếng chì lại bảo tại tôi/ Người về mời người xơi i là chén có a trà này, quý i vậy tính toán làm chi/ Yêu nhau sớm quyết duyên í ơ ớ ở o sông i cạn í ơ đất liền Gần chùa là đi/ Kẻo mai quá lứa đỗi thì lại bảo tại tôi chùa chả i bén mấy duyên hương í i chút nào [3, tr. 102]. là sáng có ả trăng xuống, sáng i cả í ơ ớ ở o sáng i cả í ơ vườn đào [2]). Trong chuyện 3.2. Lịch sự quy ước tình cảm, các nhân vật khẳng định tình cảm Lịch sự quy ước là loại lịch sự được thực hiện dành cho nhau một cách gián tiếp bởi các dựa trên những lễ nghĩa, phong tục, văn hóa hình ảnh có tính chất biểu trưng qua hành vi ứng xử có tính quy thức xã hội. Người Việt kể, trần thuật (Lên thác i i là em lại a bên nay Nam có câu: Miếng trầu là đầu câu chuyện. a xuống ghềnh... em có quản bao nhọc nhằn Miếng trầu trong tâm thức người Việt Nam là [4, tr. 8]). Đây là hành vi tôn vinh thể diện biểu tượng của tình cảm chân thành, sâu sắc. dương tính đối với người nghe. Người nghe Vậy nên, người quan họ đã thể hiện sự hiếu được đề cao vì nhân vật trữ tình em đã không khách bằng những câu hát mời trầu: Gặp đây quản ngại khó khăn, gian khổ để có được ăn một miếng trầu. Không ăn cầm lấy, không “tình yêu”. Đồng thời, thể diện của nhân vật ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng. Miếng trầu trữ tình cũng được tăng lên (khẳng định ý chí không chỉ là đầu câu chuyện, mà còn gợi ra nét và mong muốn được thừa nhận, thấu hiểu). ý tứ về một câu chuyện khác- câu chuyện 3.1.4. Lịch sự trong những lời rào đón, đưa đẩy “chung một nhà”: Trầu này trầu tính trầu tình. Song song với việc sử dụng các hành vi ngôn Trầu này trầu tính trầu tình. Ăn vào cho đỏ, ăn ngữ, để giảm thiểu sự đe dọa thể diện, cần vào cho đỏ môi mình môi ta Anh còn son. thiết phải sử dụng các phương thức lịch sự. Em còn son. Ước gì ta được làm con một nhà Trong đó có những lời rào đón, đưa đẩy. [2]. Cơ sở của sự liên tưởng từ chuyện mời Đó là những lời nói tỏ tình trực tiếp nhưng lại trầu gợi chuyện “một nhà” là bởi văn hóa được đưa đẩy, rào đón bằng những lời lẽ “nghĩa cau trầu” (miếng cau, lá trầu là vật đính “phòng thủ”: nào đâu dám, thực đâu có ước hôn lễ theo phong tục cưới xin người dám dỗ dành..., tiện đây, xin Quan họ đừng Việt). Cùng với mời trầu, người quan họ còn quản ngại chúng chê ấy chê bạn cười là tôi thể hiện lòng hiếu khách của mình bằng hành nói ra[2]. Ngoài ra, việc sử dụng lối nói động mời trà: Khách đến í đến chơi hự hừ nhà vòng dựa trên các trường liên tưởng (dùng cái là chơi hự hừ nhà/ Đốt than ớ ơ dậu mà quạt i cớ để nói xa, nói gần) cũng là một cách nói nước mấy pha trà mời người xơi i là chén có a Email: jst@tnu.edu.vn 107 Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 103 - 108 trà này, quý i vậy í ơ ớ ở o sông i cạn í ơ đất miệng của nhân dân qua nhiều thế hệ. Qua các liền [2]. Ngoài sự lịch sự được thể hiện bằng làn điệu dân ca, chúng ta thấy được những nét văn hóa hiếu khách “mời nước, mời trầu” thì văn hóa coi trọng “lễ nghĩa” và cách ứng xử ý lịch sự quy ước còn được thấy trong lời ăn ý ở, nhị, mềm mại, khéo léo của người dân Kinh tập tục nói năng, đi đứng,... Đó là những giá trị Bắc. Bài viết tập trung miêu tả các phương thức văn hóa truyền thống rất cốt lõi trong cách ứng thể hiện phép lịch sự trong giao tiếp qua các làn xử của người Việt “người nói phải có người điệu dân ca quan họ. Nhìn chung, có thể nhận nghe”: Anh rằng Tư ơi chứ em lắng tai nghe thấy rằng lịch sự chiến lược (mang tính chất cá lời anh Tư nói i ai ơi bên hữu a tình là anh thể hóa gắn liền với tình huống giao tiếp) trong rằng Tư ơi chứ em lắng tai nghe lời anh Tư nói dân ca quan họ luôn chịu ảnh hưởng của phông i ai ơi ...[4, tr. 26]. Đó là sự lễ phép trong cách văn hóa vùng đất kinh Bắc. Chính vì thế; quan ứng xử với mẹ cha: Anh về thưa với mẹ cha. niệm, hành động của cá nhân cũng là những Em về thưa với mẹ cha [2]. Ngoài ra, tình chuẩn mực ứng xử chung của cộng đồng. Điều nghĩa thủy chung son sắt luôn được đề cao và này có thể lý giải bởi dân ca quan họ là những là một thước đo trong giao tiếp quan họ. Chính sáng tác tập thể có tính diễn xướng của quần vì vậy, chúng ta gặp rất nhiều lời hát ân tình: chúng nhân dân. Anh biết rồi nên vì người giữ lời hứa rằng năm TÀI LIỆU THAM KHẢO xưa ơ chúng mình, yêu i ơ nhau là trước sau [1]. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Đại cương ngôn tình đừng phai dù rằng ai xin chớ đứng ngồi ngữ học (Tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996. [2]/ Đừng làm rồng ngược mây xuôi. Nhớ khi [2]. Web: https://quanhobacninh.vn/, truy cập hò hẹn, nhớ lời thủy chung [5, tr. 403] ngày 20 tháng 03 năm 2019. [3]. Trung tâm văn hóa Tỉnh Bắc Giang, Các bài 4. Kết luận hát đối quan họ, Bắc Giang, 2010. Ca hát quan họ là một hình thức sinh hoạt văn [4]. Lâm Minh Đức (ký âm và tuyển chọn), Dân hóa độc đáo của người dân vùng Kinh Bắc xưa- ca quan họ Bắc Ninh, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2005. Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Đó là một [5]. Trung tâm văn hóa Tỉnh Bắc Giang, Không tổng thể những giá trị văn hóa, văn nghệ dân gian văn hóa quan họ Bắc sông Cầu, Bắc gian hợp thành, là kiệt tác sáng tạo truyền Giang, 2014. 108 Email: jst@tnu.edu.vn
File đính kèm:
- lich_su_giao_tiep_trong_dan_ca_quan_ho.pdf