Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa

Đặt vấn đề: Trong hoàn cảnh lão hóa của dân số toàn cầu, tỷ lệ suy yếu trong dân số ngày càng tăng

và suy yếu dự báo nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như: tình trạng té ngã, khuyết tật, sống phụ thuộc,

tăng số lần nhập viện, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, suy yếu chưa được quan tâm đúng mức trong thực

hành lâm sàngLão khoa.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo thang điểm đánh giá suy yếu lâm sàng CFS (Clinical Frailty Scale).

Mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại khoa Nội

Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão học Bệnh viện Bà Rịa.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, tiến hành trên 370 người bệnh cao

tuổi (≥ 65 tuổi) điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa, trong

thời gian 6 tháng, từ tháng 10/2017 đến 3/2018. Dùng thang suy yếu lâm sàng CFS để đánh giá suy yếu.

Kết quả: Tỷ lệ suy yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2% (suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ

suy yếu nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn: thời gian

nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo mức độ suy y

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa trang 1

Trang 1

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa trang 2

Trang 2

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa trang 3

Trang 3

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa trang 4

Trang 4

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa trang 5

Trang 5

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 16900
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 9 
KHẢO SÁT TỶ LỆ SUY YẾU VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA SUY YẾU 
VỚI KẾT CỤC LÂM SÀNG NGẮN HẠN Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI 
ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA 
Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Thị An** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trong hoàn cảnh lão hóa của dân số toàn cầu, tỷ lệ suy yếu trong dân số ngày càng tăng 
và suy yếu dự báo nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như: tình trạng té ngã, khuyết tật, sống phụ thuộc, 
tăng số lần nhập viện, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, suy yếu chưa được quan tâm đúng mức trong thực 
hành lâm sàngLão khoa. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo thang điểm đánh giá suy yếu lâm sàng CFS (Clinical Frailty Scale). 
Mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại khoa Nội 
Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão học Bệnh viện Bà Rịa. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, tiến hành trên 370 người bệnh cao 
tuổi (≥ 65 tuổi) điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa, trong 
thời gian 6 tháng, từ tháng 10/2017 đến 3/2018. Dùng thang suy yếu lâm sàng CFS để đánh giá suy yếu. 
Kết quả: Tỷ lệ suy yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2% (suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ 
suy yếu nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn: thời gian 
nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo mức độ suy yếu. 
Kết luận: CFS đơn giản, dễ thực hiện, tiên đoán được kết cục lâm sàng Lão khoa. 
Từ Khóa: Clinical Frailty Scale, Suy yếu, người bệnh cao tuổi 
ABSTRACT 
ASSESSMENT OF PREVALENCE OF FRAILTY AND SHORT-TERM CLINICAL OUTCOME OF 
FRAILTY IN THE OLDER INPATIENTS AT BA RIA HOSPITAL 
Nguyen Ngoc Hoanh My Tien, Than Ha Ngoc The, Nguyen Thi An 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 9-14 
Background: In the context of global population aging, the rate of frailty in the population is increasing and 
frailty predicts high-risk health disabilities such as falls, disabilities, dependence, number of hospitalizations, even 
death. However, frailty has not been properly addressed in Geriatric clinical practice. 
Objectives: To investigate the prevalence of frailty and factors associated with frailty. 
Methods: Descriptive, cross-sectional, and longitudinal follow-up of 370 elderly patients (≥ 65 years-old), 
treated inpatient at the department of General Medicine and Cardiology Department at Ba Ria hospital, from 
October 2017 to March 2018. Using the CFS to assess frailty. 
Results: The prevalence of frailty elderly patients assessed by the CFS was 66.2%. In which, mild – average 
frailty was 53.2%, severe - very severe frailty was 13%. There was a correlation between severity and short-term 
clinical outcomes: duration of hospitalization, re-hospitalization at 3 months post-discharge and general mortality 
increased with decreasing levels. 
Conclusions: CFS is simple, easy to practice, predicts clinical gerontological outcomes. 
Keywords: clinical frailty scale, frailty, elderly patient 
*Bộ môn Lão khoa, Khoa Y, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Bà Rịa 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị An ĐT: 0988862005 Email: nguyenan0574@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 10
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Có hơn 20 công cụ chẩn đoán suy yếu khác 
nhau, việc chọn một công cụ giúp chẩn đoán 
nhanh suy yếu và có khả năng dự báo các kết 
quả bất lợi về sức khỏe của người cao tuổi (NCT) 
là rất cần thiết trong thực hành lâm sàng. 
Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về 
suy yếu ở người bệnh cao tuổi nằm viện. Các 
nghiên cứu này hoặc sử dụng công cụ chẩn 
đoán suy yếu tương đối phức tạp, tốn nhiều 
thời gian như Fried, đánh giá lão khoa toàn 
diện (CGA) hoặc sử dụng công cụ tầm soát 
suy yếu khá đơn giản và chủ quan như 
chương trình nghiên cứu triển khai các dịch vụ 
duy trì tính tự chủ của người cao tuổi 
PRISMA-7, GFI (Groningen Frailty Indicator) 
trong khi công cụ thang suy yếu lâm sàng CFS 
(Clinical Frailty Scale) chưa được sử dụng 
trong nghiên cứu nào mặc dù thường được các 
bác sĩ lâm sàng sử dụng(1,3). Do đó, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu này để tìm hiểu tình 
hình suy yếu của người bệnh cao tuổi điều trị 
nội trú như thế nào và suy yếu có liên quan ra 
sao với kết cục lâm sàng ở người bệnh cao tuổi 
với công cụ chẩn đoán suy yếu là CFS. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Dân số mục tiêu 
NCT (≥ 65 tuổi) điều trị tại các khoa Nội: 
Tổng Hợp, Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa, 
từ tháng 10/2017 đến 03/2018. 
Đối tượng chọn mẫu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Người cao tuổi có khả năng giao tiếp hoặc có 
thân nhân nắm rõ tình trạng bệnh. 
Đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Hôn mê, ra viện còn hôn mê và không có 
hoặc thân nhân không biết rõ về tình trạng bệnh 
Bệnh nhân cụt hai tay hoặc cụt hai chân hoặc 
mù hai mắt. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, 
chọn mẫu thuận tiện. 
Các biến số 
Suy yếu 
biến định tính, 2 giá trị: Không suy yếu, CFS 
1 – 4, Có suy yếu, CFS 5 – 8. 
Mức độ suy yếu 
Phân thành 3 nhóm(4): Nhóm 1: không suy 
yếu, CFS từ mức 1-4. Nhóm 2: suy yếu nhẹ đến 
trung bình, CFS từ mức 5-6 . Nhóm 3: suy yếu 
nặng đến rất nặng, CFS từ mức 7-8. 
CFS 9 điểm loại khỏi nghiên cứu vì đây là 
bệnh giai đoạn cuối hơn là suy yếu. 
Tái nhập viện 
Biến nhị giá có/không. 
Bệnh nhân nhập viện ở bất cứ bệnh viện nào 
sau xuất viện và lưu lại bệnh viện ít nhất một 
đêm do mọi nguyên nhân. Theo CMS (Centers 
for Medicare and Medicaid Services) ngoại trừ 
các trường hợp sau(3): 
Ngày nhập viện lại cùng ngày với ngày xuất 
viện và lý do nhập viện cũng là lý do nhập viện 
của lần trước. 
Nhập vào để điều trị phục hồi chức năng. 
Được chẩn đoán tâm thần lần đầu. 
Nhập vào để điều trị bệnh ung thư hoặc theo 
lịch hẹn để tiến hành các thủ thuật, phẫu thuật. 
Tử vong 
Biến nhị giá có/không. 
Tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào ngoại 
trừ tử vong do tai nạn giao thông, tai nạn sinh 
hoạt, do thiên tai. 
Biến tử vong gồm tử vong nội viện và tử 
vong tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện. Do 
biến tử vong nội viện chỉ gồm 2 trường hợp: 1 
bệnh nhân 76 tuổi tử vong do xuất huyết não 
(CFS: 4) và 1 bệnh nhân 80 tuổi tử vong do hội 
chứng Stevens-Johnson (CFS: 5) nên chúng tôi 
gộp biến tử vong tại thời điểm tháng sau xuất 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 11 
viện và biến tử vong nội viện thành biến tử 
vong chung. 
Bộ câu hỏi thu thập số liệu 
Đánh giá suy yếu theo CFS. 
Phương pháp xử lý số liệu 
Nhập số liệu Epidata 3.1 và xử lý số liệu 
Stata 14. So sánh biến định tính: phép kiểm chi 
bình phương. So sánh biến định lượng: phép 
kiểm t – test, Anova. Dùng hồi quy Logistic đa 
biến để khử yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng liên 
quan mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng. Sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2017 
đến 03/2018, chúng tôi thu thập được 370 bệnh 
nhân NCT thỏa các tiêu chí chọn mẫu, kết quả 
được trình bày trong các bảng 1 – bảng 6. 
Bảng 1. Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu (n = 370) 
Biến số Tần số Tỷ lệ % 
Giới 
Nam 130 35,1 
Nữ 240 64,9 
Tuổi trung bình (trung bình ± độ lệch chuẩn) 76,7 ± 7,6 
Nhóm tuổi 
60-69 86 23,2 
70-79 131 35,4 
≥ 80 153 41,4 
Chỉ số BMI (trung bình ± độ lệch chuẩn) 21,3 ± 3,4 
BMI 
Thiếu cân (BMI ≤ 18,5) 79 21,4 
Bình thường (18,5 < BMI < 23) 186 50,2 
Thừa cân, béo phì (BMI ≥ 23) 105 28,4 
Tình trạng hôn nhân 
Chưa kết hôn/ly dị/góa 193 52,2 
Đang sống bạn đời 177 47,8 
Hoàn cảnh sống 
Sống một mình 18 4,8 
Sống cùng người thân 352 95,2 
Nơi sống 
Thành thị 129 34,9 
Nông thôn 241 65,1 
Chế độ ăn Nghèo nàn 99 26,8 
 Đầy đủ 271 73,2 
Trình độ học vấn 
Không biết chữ 67 18,1 
Chưa tốt nghiệp PTTH 278 75,1 
Tốt nghiệp PTTH, cao đẳng, đại học 25 6,8 
Rượu, bia 
Không/uống mức độ vừa phải 352 95,1 
Uống nhiều 18 4,9 
Thuốc lá 
Không hút/đã bỏ 319 86,2 
Hiện đang hút 51 13,8 
Tình trạng đa thuốc 
Có 134 36,2 
Không 236 63,8 
Tình trạng đa bệnh (trung bình ± độ lệch chuẩn) 3,2 ± 2,1 
Bảng 2. Tỷ lệ mức độ suy yếu 
 Không suy yếu Suy yếu nhẹ - trung bình Suy yếu nặng – rất nặng 
n (%) 125 (33,8) 197 (53,2) 48 (13) 
Bảng 3. Kết cục lâm sàng 
Không suy yếu 
n = 125 
Suy yếu nhẹ - 
trung bình n = 197 
Suy yếu nặng – 
rất nặng n = 48 
P 
Số ngày nằm viện (Trung vị, khoảng tứ phân vị) 4 (3 – 5) 5 (3 – 7) 7 (5 – 9) < 0,001 
Tái nhập viện n (%) 25 (20) 86 (43,7) 22 (45,8) < 0,001 
Tử vong chung n (%) 3 (2,4) 12 (6,1) 6 (12,5) < 0,05 
* Số ngày nằm viện bị phân phối lệch 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 12
Bảng 4. Các yếu tố liên quan thời gian nằm viện 
Thời gian nằm viện 
P 
Hệ số KTC 95% 
Không suy yếu 1 
Suy yếu nhẹ - trung bình 1,6 0,5 – 2,7 < 0,05 
Suy yếu nặng – rất nặng 4,1 2,5 – 5,7 < 0,001 
Tuổi - 0,02 - 0,08 – 0,04 > 0,05 
Giới 0,97 0,02 – 1,9 < 0,05 
Tình trạng đa thuốc - 0,1 -1,1 – 0,8 > 0,05 
Tình trạng đa bệnh 0,1 - 0,1 – 0,4 > 0,05 
Bảng 5. Các yếu tố liên quan tái nhập viện 
Tái nhập viện 
P 
OR KTC 95% 
Không suy yếu 1 
Suy yếu nhẹ - trung bình 4,1 2,2 – 7,5 < 0,001 
Suy yếu nặng – rất nặng 4,9 2,1 – 11,2 < 0,001 
Giới 1,3 0,8 – 2,1 > 0,05 
Tuổi 0,95 0,92 – 0,99 < 0,05 
Tình trạng đa thuốc 1,1 - 0,7 – 1,8 > 0,05 
Tình trạng đa bệnh 1 0,9 – 1,1 > 0,05 
Bảng 6. Các yếu tố liên quan tử vong 
Tử vong 
P 
OR KTC 95% 
Không suy yếu 1 
Suy yếu nhẹ - trung bình 6,8 1,5 – 29,8 < 0,05 
Suy yếu nặng – rất nặng 15,2 2,7 – 85,6 < 0,05 
Tuổi 0,9 0,8 – 0,98 > 0,05 
Giới 4,3 1,6 – 11,7 < 0,05 
Tình trạng đa thuốc 0,6 0,2 – 1,6 > 0,05 
Tình trạng đa bệnh 1,0 0,8 – 1,3 > 0,05 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi 
Chúng tôi nghiên cứu trên 370 bệnh nhân 
ghi nhận có 125 bệnh nhân không suy yếu 
(33,8%); bệnh nhân suy yếu nhẹ - trung bình là 
197 (53,2%); suy yếu nặng – rất nặng 48 (13%). 
Juma S và cộng sự (2016) nghiên cứu 75 bệnh 
nhân ≥ 65 tuổi (tuổi trung bình 81.3 ± 8.8) tại 
bệnh viện Ontario, Canada ghi nhận tỷ lệ không 
suy yếu, suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng 
– rất nặng lần lượt là: 28%; 50,67%; 21,33%(5). Tỷ 
lệ suy yếu nặng – rất nặng của nghiên cứu này 
cao hơn của chúng tôi, tuy nhiên tuổi trung bình 
của đối tượng tham gia nghiên cứu lớn hơn của 
chúng tôi (76,7 ± 7,6). 
Hartley P và cộng sự (2016) khảo sát trên 493 
bệnh nhân ≥ 75 tuổi tại một bệnh viện Anh quốc 
ghi nhận tỷ lệ suy yếu nhẹ - trung bình là 
47,67%; suy yếu nặng – rất nặng 27,7%(4), tỷ lệ 
suy yếu nặng – rất nặng trong nghiên cứu này 
cũng cao hơn chúng tôi. Kết quả này là bằng 
chứng giúp cũng cố mối liên quan giữa suy yếu 
và tuổi. 
Mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục 
lâm sàng ngắn hạn 
Thời gian nằm viện 
Chúng tôi ghi nhận thời gian nằm viện của 
bệnh nhân có liên quan đến mức độ suy yếu: 
nhóm suy yếu nặng có thời gian nằm viện dài 
nhất, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P < 0,001. 
Vậy thời gian nằm viện trong nghiên cứu 
của chúng tôi ngắn hơn so với tác giả Juma, điều 
này có thể do tình trạng bệnh đông, chật chội, 
chúng tôi phải cho xuất viện sớm. Tuy nhiên cả 
hai nghiên cứu đều cho thấy khi bệnh nhân có 
suy yếu thì thời gian nằm viện sẽ dài hơn. 
Sau phân tích hồi qui đa biến để khử các yếu 
tố có thể ảnh hưởng lên thời gian nằm viện (tuổi, 
giới, tình trạng đa thuốc và đa bệnh) chúng tôi 
ghi nhận mức độ suy yếu có ảnh hưởng lên thời 
gian nằm viện: thời gian nằm viện của nhóm suy 
yếu nặng lớn hơn thời gian nằm viện của nhóm 
suy yếu nhẹ - trung bình và lớn hơn thời gian 
nằm viện của nhóm không suy yếu. 
Khandelwal D và cộng sự (2012) nghiên cứu 
trên 250 người bệnh cao tuổi nhập viện và cũng 
đã ghi nhận những bệnh nhân suy yếu có thời 
gian nằm viện dài hơn(6). 
Wallis S.J và cộng sự (2015) ghi nhận mức độ 
suy yếu có ảnh hưởng tới thời gian nằm viện với 
OR 1,19; khoảng tin cậy 95% 1,14 – 1,23; 
P<0,001(7). 
Tái nhập viện 
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong 
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau 
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình 
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu 
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 13 
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng 
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn 
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1 
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2), 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001. 
Tái nhập viện của nhóm suy yếu nhẹ - 
trung bình và suy yếu nặng – rất nặng của 
chúng tôi cao hơn Juma, nhưng cả hai nghiên 
cứu đều ghi nhận có mối liên quan giữa suy 
yếu và tỷ lệ tái nhập viện. 
Qua so sánh về thời gian nằm viện và tỷ lệ 
tái nhập viện của nghiên cứu chúng tôi với tác 
giả Juma S, chúng tôi ghi nhận: thời gian nằm 
viện của chúng tôi ngắn hơn, tuy nhiên tỷ lệ tái 
nhập viện cao hơn, điều này hướng chúng tôi 
phải nhìn lại vấn đề xuất viện sớm của chúng tôi 
để có sự điều chỉnh hợp lý. 
Bagshaw và cộng sự (2014) khảo sát trên 421 
bệnh nhân đã ghi nhận tỷ lệ tái nhập viện của 
nhóm suy yêu (CFS > 4) 56% cao hơn nhóm 
không suy yếu (CFS ≤ 4) 39% với OR 1,98; 
khoảng tin cậy: 95% 1,22 – 3,23(2). 
Vậy đánh giá suy yếu theo CFS có khả 
năng dự báo nguy cơ tái nhập viện ở người 
bệnh cao tuổi. 
Tử vong chung 
Conroy và cộng sự (2013) khảo sát trên 
người bệnh cao tuổi nhập viện vì các bệnh nội 
khoa ghi nhận suy yếu theo CFS có liên quan tử 
vong sau 3 tháng với OR 1,4; khoảng tin cậy 
95%: 1,3 – 1,5(2). 
Nghiên cứu của Basic D và cộng sự (2015) 
trên 2.125 người bệnh cao tuổi nhập viện ghi 
nhận thang suy yếu CFS có khả năng tiên đoán tử 
vong (OR = 2,97; khoảng tin cậy 95%: 2,11 - 4,17)(1). 
Tác giả Wallis S.J và cộng sự (2015) khảo sát 
5.764 bệnh nhân tuổi ≥ 75 nhập viện vì các bệnh 
nội khoa đã kết luận rằng suy yếu theo CFS có 
khả năng tiên đoán độc lập tử vong ở bệnh nhân 
nội trú với OR = 1,60; khoảng tin cậy 95%: 1,48 – 
1,74; P < 0,001 (sau khi hiệu chỉnh các yếu tố tuổi, 
giới, chỉ số đa bệnh lý Charlson)(7). 
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có mối liên 
quan giữa mức độ suy yếu và tử vong chung: 
nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng - 
rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với nhóm 
không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%: 1,5 – 
29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). 
Vậy kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với 
các nghiên cứu khác trên thế giới. Với kết quả 
này một lần nữa chứng minh suy yếu theo CFS 
là yếu tố nguy cơ có thể dự báo tử vong ở NCT. 
Việc tầm soát suy yếu ở tất cả người bệnh 
cao tuổi nhập viện để có kế hoạch chăm sóc và 
đánh giá nguy cơ rủi ro đối với các phương 
pháp điều trị hoặc can thiệp y tế là rất cần thiết. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 370 
người bệnh cao tuổi điều trị nội trú các bệnh nội 
khoa tại bệnh viện Bà Rịa ghi nhận. Tỷ lệ suy 
yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2% 
(suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ suy yếu 
nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa 
mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn: 
thời gian nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3 
tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo 
mức độ suy yếu. 
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong 
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau 
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình 
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu 
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm 
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng 
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn 
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1 
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2), 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001. 
Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu và tử 
vong chung: nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy 
yếu nặng - rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với 
nhóm không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%: 
1,5 – 29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 14
-TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Basic D, Shanley C (2015). “Frailty in an older inpatient 
population: using the clinical frailty scale to predict patient 
outcomes”. J Aging Health, 27(4):670-85. 
2. Conroy S, Dowsing T (2013). “The Ability of Frailty to Predict 
Outcomes in Older People Attending an Acute Medical Unit”. 
Acute Medicine ; 12(2): 74-76 
3. Gregorevic KJ, Hubbard RE, Lim WK (2016). “The clinical 
frailty scale predicts functional decline and mortality when used 
by junior medical staff: a prospective cohort study”. BMC 
Geriatr, 16: 117. 
4. Hartley P, Adamson J, Cunningham C et al (2017). “Clinical 
frailty and functional trajectories in hospitalized older adults: A 
retrospective observational study”. Geriatr Gerontol Int, 
17(7):1063-1068. 
5. Juma S, Taabazuing MM, Montero-Odasso M (2016). “Clinical 
Frailty Scale in an Acute Medicine Unit: a Simple Tool That 
Predicts Length of Stay”. Can Geriatr J, 19(2):34-9 
6. Khandelwal D, Goel A, Kumar U et al (2012). “Frailty is 
associated with longer hospital stay and increased mortality in 
hospitalized older patients”. J Nutr Heatlh Aging, 16(8):732–35. 
15 
7. Wallis SJ, Wall J, Biram RWS et al (2015). “Association of the 
clinical frailty scale with hospital outcomes”. An International 
Journal of Medicine, Volume 108, Issue 12, 943-949. 32. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_ty_le_suy_yeu_va_moi_lien_quan_giua_suy_yeu_voi_ket.pdf