Khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi giảm mật độ xương
Mục tiêu: Gãy xương đốt sống (GXĐS) ở người cao tuổi có giảm mật độ xương thường không có triệu
chứng. Mục tiêu của nghiên cứu này là để khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống ở người cao tuổi và tìm hiểu các yếu
tố liên quan đến tình trạng gãy xương đốt sống.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại khoa nội cơ xương
khớp bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ tháng 1 – 5/2013, khảo sát gãy xương đốt sống ngực và thắt
lưng. Chẩn đoán gãy xương đốt sống bằng phương pháp Genant’s, mật độ xương được đo bằng DXA và tìm
hiều các yếu tố liên quan đến gãy xương đốt sống.
Kết quả: Có 96 bệnh nhân (BN) được đưa vào trong thời gian nghiên cứu. Độ tuổi trung bình là 73,4 ± 8,
nữ chiếm 77,1%. 87,6% BN loãng xương, 12,4% BN thiếu xương. Tỉ lệ gãy xương đốt sống là 46,8%. Tuy
nhiên gãy xương đốt sống tăng theo tuổi và cao nhất ở nhóm đối tượng trên 80 tuổi với 68%. Ngược lại chỉ số T
Score giảm ở BN có gãy xương. Gãy bờ (68%) và gãy lún (62%) là hai kiểu gãy thường gặp nhất. Tần suất gãy
xương tập trung vào vùng nối giữa ngực và thắt lưng (T12 và L1) với 28%. Có mối liên quan giữa tình trạng
gãy xương đốt sống với giới (OR=2,74, 1,03‐7,34, p=0,039),tiền sử dùng corticosteroid (OR=8,05, 3,05‐21,2,
p=0,000), tiền sử té ngã (OR=1,41), tiền sử gãy xương sau 50 tuổi (OR=2,63), số lần sinh con. Tuy nhiên chưa
thấy được mối liên quan giữa nhẹ cân, hút thuốc lá, uống rượu, mãn kinh sớm với tình trạng gãy xương đốt
sống
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy rằng tỉ lệ GXĐS ở người cao tuổi có giảm mật độ xương là
khá cao và có mối liên quan giữa giới, tuổi, chỉ số T Score, tiền sử dùng corticosteroid, tiền sử gãy xương, tiền sử
té ngã, số lần sinh con với tình trạng gãy xương đốt sống.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi giảm mật độ xương
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 472 KHẢO SÁT TỈ LỆ GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI GIẢM MẬT ĐỘ XƯƠNG Nguyễn Thái Hòa***, Cao Thanh Ngọc**, Nguyễn Đình Khoa* TÓM TẮT Mục tiêu: Gãy xương đốt sống (GXĐS) ở người cao tuổi có giảm mật độ xương thường không có triệu chứng. Mục tiêu của nghiên cứu này là để khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống ở người cao tuổi và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng gãy xương đốt sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại khoa nội cơ xương khớp bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ tháng 1 – 5/2013, khảo sát gãy xương đốt sống ngực và thắt lưng. Chẩn đoán gãy xương đốt sống bằng phương pháp Genant’s, mật độ xương được đo bằng DXA và tìm hiều các yếu tố liên quan đến gãy xương đốt sống. Kết quả: Có 96 bệnh nhân (BN) được đưa vào trong thời gian nghiên cứu. Độ tuổi trung bình là 73,4 ± 8, nữ chiếm 77,1%. 87,6% BN loãng xương, 12,4% BN thiếu xương. Tỉ lệ gãy xương đốt sống là 46,8%. Tuy nhiên gãy xương đốt sống tăng theo tuổi và cao nhất ở nhóm đối tượng trên 80 tuổi với 68%. Ngược lại chỉ số T Score giảm ở BN có gãy xương. Gãy bờ (68%) và gãy lún (62%) là hai kiểu gãy thường gặp nhất. Tần suất gãy xương tập trung vào vùng nối giữa ngực và thắt lưng (T12 và L1) với 28%. Có mối liên quan giữa tình trạng gãy xương đốt sống với giới (OR=2,74, 1,03‐7,34, p=0,039),tiền sử dùng corticosteroid (OR=8,05, 3,05‐21,2, p=0,000), tiền sử té ngã (OR=1,41), tiền sử gãy xương sau 50 tuổi (OR=2,63), số lần sinh con. Tuy nhiên chưa thấy được mối liên quan giữa nhẹ cân, hút thuốc lá, uống rượu, mãn kinh sớm với tình trạng gãy xương đốt sống Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy rằng tỉ lệ GXĐS ở người cao tuổi có giảm mật độ xương là khá cao và có mối liên quan giữa giới, tuổi, chỉ số T Score, tiền sử dùng corticosteroid, tiền sử gãy xương, tiền sử té ngã, số lần sinh con với tình trạng gãy xương đốt sống. Từ khóa: Gãy xương đốt sống, cao tuổi, giảm mật độ xương ABSTRACT PREVALENCE AND RISK FACTORS OF RADIOGRAPHIC VERTEBRAL FRACTURE IN THE ELDERLY WITH LOW BONE MINERAL DENSITY Nguyen Thai Hoa, Cao Thanh Ngoc, Nguyen Dinh Khoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 472 ‐ 478 Objectives: Vertebral fracture (VE) in the elderly with low bone mineral density usually had no specific symptoms. The aim of study was estimated the prevalence of radiographic vertebral fracture and investigate factors associated with this condition in the elderly. Methods: This cross sectional study was conducted in the rheumatology department, Cho Ray hospital from 1 – 5/2013. Thoracic and lumbar spine radiographs were obtained, and vertebral fractures were evaluated using Genant’s semiquantitative method. Bone mineral sensity (BMD) were measured by dual X ray absorptiometry (DXA) and identified risk factors for vertebral fractures. Results: A total 96 respondents were recruited. The mean age was 73.4 ± 8 years old with females constituted 77.1%. 87.6% had osteoporosis and 12,4% had osteopenia. The prevalence of vertebral fracture was * Bệnh viện Chợ Rẫy ** Đại Học Y Dược TPHCM *** Bệnh viện Đại Học Y Dược Cần Thơ Tác giả liên lạc: Nguyễn Thái Hòa ĐT: 0908414060 Email: nguyenthaihoa30121985@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Chấn Thương Chỉnh Hình 473 46.8%. However, the risk of fracture increased with advancing age, such that from the age 80+0.68% had at least one VE. In constrast, T Score reduced in the fracture patient. The most common type of fracture were wedge (68%) and compression (62%). Although fracture occurred in all vertebrae, most (28%) occurred at the T12‐L1. The model for vertebral fractures showed an association with sex (OR=2.74, 1.03‐7.34, p=0.039), corticosteroid intake (OR=8.05, 3.05‐21.2, p=0.000), fall history (OR=1.41), history of fracture after 50 years old (OR=2.63). There was no significance association between vertebral farcture and smoking, alcohol, early menopause, underweight. Conclusions: This study indicates that the prevalence of vertebral fractures is high in the elderly. Sex, age, T Score, corticosteroid intake, fall history, history of fracture after 50 years old were associated with vertebral fracture. Key words: Vertebral fracture, elderly, low bone mineral density . ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay xu hướng già hóa về dân số nói chung đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội nói chung và ngành y tế nói riêng. Theo thống kê Ủy Ban Người Cao Tuổi Việt Nam đến năm 2029 tỉ lệ người cao tuổi sẽ đạt 16,8% dân số. Một trong những hệ quả của lão là bộ xương cơ thể bị hao mòn theo thời gian dẫn đến tổn hại cấu trúc làm cho xương dễ gãy. Loãng xương là một trong những bệnh thường h ... hiện tại Quận Gò Vấp cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống là 33% thấp hơn chúng tôi vì thực hiện ở người trên 50 tuổi, tuổi trung bình 63,2. Nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ gãy xương gần tương đương với Nhật Bản (37,6%) nhưng cao hơn so với ba nước Hong Kong (18%), Indonesia (20%), Thailand (24,5%) khi so sánh tỉ lệ gãy xương đốt sống của bốn nước năm 2012 của tác giả A.W.L KWOK và cs(6). Cho đến nay chưa có một “tiêu chuẩn vàng” nào để xác định là gãy xương đốt sống cả vì vậy mà số liệu về tần suất lưu hành và tỉ lệ mới mắc của người cao tuổi dao động khá lớn. Mức dao động lớn này không những phụ thuộc vào sự khác biệt giữa các vùng địa lý, các vùng kinh tế sinh thái khác nhau mà còn phụ thuộc định nghĩa thế nào là gãy xương đốt sống. Hiện nay chẩn đoán gãy xương đốt sống có thể bằng phương pháp định lượng và phương pháp bán định lượng tuy nhiên phương pháp bán định lượng tỷ lệ dương tính giả cao hơn(12) điều này lý giải nghiên cứu chúng tôi tỉ lệ gãy xương cao hơn do nghiên cứu của A.W.L KWOK(6) dùng phương pháp định lượng thường được dùng nhiều trong các nghiên cứu vể dịch tể học. Kết quả của chúng tôi cho thấy gãy bờ (68%) và gãy lún (62%) là hai dạng gãy xương đốt sống thường gặp nhất ở người cao tuổi có giảm mật độ xương và thấp nhất là gãy lõm (30%), tác giả Hồ Phạm Thục Lan (3) với nghiên cứu khảo sát quy mô gãy xương đốt sống ở người Việt Nam 2011 tại Thành Phố Hồ Chí Minh bằng phương pháp định lượng cũng cho kết quả tương tự. Tần suất gãy đốt sống tập trung cao nhất ở vùng nối ngực – thắt lưng. Đốt sống T12 và L1 bị gãy nhiều nhất khi có đến 14 và 12 lượt gãy. Đây là nơi chuyển tiếp từ cột sống ngực có độ còng (Cyphosis) và cột sống lưng có độ ưỡn (Lordosis), cột sống ngực cứng nhắc do có khung sườn và cột sống thắt lưng có độ cử động tự do. Hơn nữa khi có một lực tác động vào thì lực này thường rơi vào vùng T12 và L1(11). Nghiên cứu của Hongwei Wang(19) cũng cho kết quả tương tự. Tác giả Hồ Phạm Thục Lan khi khảo sát xương đốt sống ở người Việt Nam thấy rằng chiều cao đốt sống từ T10 đến L5 có khuynh hướng giảm dần theo thời gian nên ở người cao tuổi tỉ lệ gãy đốt sống lưng cao hơn so với gãy đốt sống ngực. Mối liên quan giữa các yếu tố chỉ số nhân trắc, bệnh học, lối sống với tình trạng gãy xương đốt sống Tuổi Là yếu tố nguy cơ cao của gãy xương đốt sống(6,7). Kết quả chúng tôi cho thấy tuổi trung bình của nhóm gãy xương 76 (SD=7,5) cao hơn nhóm không gãy xương 71 (SD=7,7) (p=0,001). Tỉ lệ gãy xương tăng theo tuổi bất kể giới tính, vùng địa dư, chủng tộc và thật vậy trong nghiên cứu này tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nhóm trên 80 tuổi chiếm cao nhất là 68% và sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm tuổi. Các tác giả Hồ Phạm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 476 Thục Lan(8,3), Hongwei Wang(19) đều có cùng nhận xét. Giới Nữ có 39 trường hợp gãy xương đốt sống chiếm tỉ lệ 53,1% trong khi nam giới là 6 trường hợp chiếm 29,2%. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nữ cao hơn so với nam giới, cụ thể nữ có nguy cơ gãy xương đốt sống cao gấp 2,74 lần so với nam (p=0,044). Nhiều nghiên cứu cho thấy giới nữ, đặc biệt là sau mãn kinh tỉ lệ gãy xương cao hơn nam(15,8), có thể do tình trạng thiếu hụt Estrogen sau tuổi mãn kinh(8) dẫn đến mất cân bằng giữa hai quá trình tạo xương và hủy xương, thiếu Estrogen xương trở nên xốp, dòn và dễ gãy. Ngoài ra khung xương của nữ nhỏ hơn [14], phải sinh con, cho con bú, ít vận động nên nguy cơ dễ gãy xương hơn (12). Nhẹ cân Tỉ lệ gãy xương đốt sống ở những bệnh nhân nhẹ cân (60,9%) cao hơn bệnh nhân không nhẹ cân (43,9%), tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa (p=0,15). Mặc dù các tài liệu đều cho rằng mô gầy và mô mỡ là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với mật độ xương. Mô mỡ chuyển hóa tạo ra Estradiol kích thích quá trình tạo xương và ức chế quá trình hủy xương mà phụ nữ loãng xương và người cao tuổi lại có ít mô mỡ nên tăng nguy cơ gãy xương. Nam giới mật độ xương liên quan tới mô gầy do Testostrone kích thích mô cơ và mô xương. Người có khối lượng mỡ nhiều và BMI cao, có mật độ phân bố mỡ ở các vùng cơ thể nhiều nhất là vùng hông, chúng có vai trò là chiếc gối đệm bảo vệ xương đặc biệt là đầu trên xương đùi làm giảm hoặc triệt tiêu lực va chạm nên giảm nguy cơ gãy xương khi té ngã và ngược lại người có BMI thấp tăng nguy cơ gãy xương(12). Thật vậy, trong một nghiên cứu của Viện Dinh Dưỡng nguy cơ gãy xương tăng 4,8 lần đối với người nhẹ cân(10). Chỉ số T Score Các nghiên cứu đều cho thấy mật độ khoáng xương thấp đều liên quan đến nguy cơ gãy xương,(1,15), những người phụ nữ có mật độ xương thấp đo bất kỳ ở xương nào là yếu tố nguy cơ độc lập đối với một ca gãy đốt sống mới. Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa chỉ số T Score với tình trạng gãy xương đốt sống, cụ thể T Score trung bình đo tại vùng cột sống thắt lưng và cổ xương đùi ở nhóm gãy xương đều thấp hơn nhóm không gãy xương (p=0,000). Tiền sử dùng corticosteroid Tỉ lệ BN có tiền sử dùng corticosteroid cao nhất với 32,4% và có mối liên quan với tình trạng gãy xương đốt sống (p=0,000). Những BN dùng corticosteroid nguy cơ gãy xương đốt sống tăng gấp 8,05 lần (OR = 8,05; 3,05 – 21,2; P=0,000). Kết quả này phù hơp với y văn, corticosteroid ảnh hưởng lên xương bè, tốc độ mất xương rất nhanh: đến 20% khối lượng xương trong năm đầu(1), do tác động bè xương nhiều hơn vỏ xương do đó gãy xương nhiều nhất là xương đốt sống, xương sườn và đầu xương dài. Tiền sử té ngã Kết quả của chúng tôi có 22,9 % BN có tiền sử té ngã, và đây cũng là một yếu tố liên quan với tình trạng gãy xương đốt sống. Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử té ngã (69,2%) cao hơn BN không có tiền sử té ngã (40,5%) (p = 0,011). Ở người cao tuổi còn có nhiều nguy cơ té ngã do sức cơ giảm nên đi không vững, kiểm soát tư thế kém, thường kèm theo các bệnh lý kết hợp: tụt huyết áp, loạn nhịp tim, Parkinson, giảm thị lực(4) Sự thiếu hụt về thần kinh được tìm thấy trong khoảng 24,7%‐52,2% các trường hợp GXĐS(9), Hongwei Wang (19) ghi nhận là 18,7% ở người cao tuổi. Tiền sử gãy xương Đứng thứ ba (19%) sau tiền sử dùng corticosteroid và tiền sử té ngã. Có mối liên quan giữa tiền sử gãy xương với tình trạng gãy xương đốt sống, Cụ thể tỉ lệ GXĐS ở bệnh nhân có tiền sử gãy xương (75%) cao hơn BN Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Chấn Thương Chỉnh Hình 477 không có tiền sử gãy xương (41,2%) (p=0,006). Tác giả A. W. L. Kwok(7) cũng cho kết luận tương tự nghiên cứu chúng tôi. Hút thuốc lá Thuốc lá là yếu tố nguy cơ cho các bệnh lý hô hấp và tim mạch, ngoài ra nó ảnh hưởng đến nhiều bệnh lý trong đó có cả loãng xương và gãy xương(5). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có mối liên quan giữa hút thuốc lá và tình trạng gãy xương đốt sống (p=0,128). A.W.L.Kowk (6) cũng ghi nhận như thế. Kết quả chúng tôi tương tự tác giả Minh Châu(15) đều cho thấy chưa có mối liên quan có ý nghĩa giữa hút thuốc lá và gãy xương. Điều này có thể lý giải do các đối tượng hút thuốc lá là nam giới, chiếm tỉ lệ rất thấp và ít gãy xương hơn nữ. Đồng thời những BN cao tuổi, thường kèm các bệnh lý phối hợp như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu... nên thường được các bác sĩ tư vấn bỏ thuốc lá. Uống rượu Cũng như hút thuốc lá chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa uống rượu và nguy cơ gãy xương (p=0,274), tác giả A.W.L.Kowk(6) cũng cho kết luận tương tự. Điều này có thể lý giải tuy một số người có thói quen uống rượu nhưng số lượng rất ít, chủ yếu là nam mà nghiên cứu chúng tôi đa phần là nữ giới (771,%) và người cao tuổi thường ý thức được vấn đề sức khỏe bản thân vì uống rượu không tốt cho sức khỏe. Mãn kinh sớm Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống ở phụ nữ mãn kinh sớm cao hơn so với phụ nữ mãn kinh bình thường nhưng chưa ghi nhận được mối liên quan giữa mãn kinh sớm và tình trạng gãy xương đốt sống (p = 0,703). Mặc dù nhiều nghiên cứu cho rằng mãn kinh sớm là yếu tố nguy cơ của gãy xương, những người mãn kinh sau 45 tuổi ít có nguy cơ gãy xương đốt sống (13). Sau mãn kinh nồng độ Estrogen giảm, kích thích hoạt động hủy cốt bào, tăng quá trình hủy xương gây mất xương khoảng 20% ‐30% ở xương xốp và 5% ‐ 10% ở xương đặc trong giai đoạn đầu của thời kỳ sau mãn kinh, ngoài ra do tăng hủy xương nên tăng nồng độ canxi trong máu, giảm tiết PTH và giảm calcitriol làm giảm hấp thu canxi tại ruột nên xương thiếu nguyên liệu, dễ gãy xương hơn(12). Số lần sinh con Do đối tượng nghiên cứu là người cao tuổi, sống đa số ở nông thôn nên sinh con nhiều (trung bình là 6, cao nhất lên đến 14 người). Số con trung bình của nhóm có gãy xương (6,7 ± 3,4) cao hơn nhóm không gãy xương (5,3 ± 2,7) và sự khác biệt có ý nghĩa (p=0,021). Người phụ nữ trong lúc mang thai có tập quán ăn kiêng, sau sinh ít vận động, nằm trong buồng tối không có ánh sáng mặt trời, ăn thiếu chất, thiếu canxi cũng là một yếu tố nguy cơ loãng xương và gãy xương. Nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Thủy(18) cũng cho rằng sinh trên 4 lần cũng là một yếu tố nguy cơ liên quan đến xẹp lún đốt sống. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 96 BN cao tuổi đến khám tại phòng khám Nội Cơ‐xương‐khớp bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi rút ra được kết luận sau Tỉ lệ loãng xương Tỉ lệ loãng xương ở bệnh nhân cao tuổi có giảm mật độ xương là 87,6% và tỉ lệ gãy xương đốt sống: 46,8% Đặc điểm gãy xương đốt sống Gãy hai vị trí ngực và thắt lưng: 48%. Kiểu GXĐS thường gặp nhất: gãy bờ (68%) và gãy lún (62%). Đốt sống thường bị gãy: T12 và L1 chiếm 31% các trường hợp gãy xương. Các yếu tố liên quan đến GXĐS Tuổi Tuổi càng cao tỉ lệ GXĐS càng tăng, các nhóm tuổi 60‐69, 70‐79 và trên 80 tuổi có tỉ lệ GXĐS lần lượt là 33%; 48%; 68%. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 478 Giới Tỉ lệ GXĐS ở nữ giới (53,1%) cao hơn nam giới (29,2%). Chỉ số T Score Bệnh nhân gãy xương đốt sống có chỉ số T Score trung bình đo tại vùng cột sống thắt lưng và đo tại cổ xương thấp hơn bệnh nhân không gãy xương Tiền sử dùng corticosteroid Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử dùng corticosteroid (79,4%) cao hơn BN không có tiền sử dùng corticosteroid (32,4%). Tiền sử té ngã Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử té ngã (69,2%) cao hơn BN không có tiền sử té ngã (40,5%). Tiền sử gãy xương Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử gãy xương (75%) cao hơn BN không có tiền sử gãy xương (41,2%). Số lần sinh con BN GXĐS có số con trung bình (6,7) cao hơn BN không GXĐS (5,3). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bartl R. (2009), Osteoporosis: Dianogsis, Prevention, Therapy, Springer‐Berlin. 2. Bùi Văn Đức, Nguyễn Văn Tín (2009), ʺKhảo sát tỉ lệ loãng xương và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân bằng hoặc trên 50 tuổi tại bệnh viện đa khoa khu vực Cái Nước ‐ Cà Mauʺ. Y học thực hành, 687(11), tr. 57‐60. 3. Hồ Phạm Thục Lan (2011), ʺQuy mô gãy xương đốt sống ở người Việtʺ. Thời sự y học, 63, tr.11‐16. 4. Jerry L. (2004), ʺVertebral Compression Fractures in the Elderlyʺ. American Family Physician, 69(1), 111‐116. 5. Kanis JA, Johnell O (2005), ʺSmoking and fracture riskʺ. Osteoporisis Int, 16, 155‐162 6. Kwok. AWL, Leung JCS, Chan AYH (2012), ʺPrevalence of vertebral fracture in Asian men and women: Comparison between Hong Kong, Thailand, Indonesia and Japanʺ. Public Health. 7. Kwok AWL, Gong JS (2013), ʺPrevalence and risk factors of radiographic vertebral fractures in elderly Chinese men and women: results of Mr. OS (Hong Kong) and Ms. OS (Hong Kong) studiesʺ. Osteoporisis Int, 24, 877‐885 8. Lan TH, Nguyen DN (2009), ʺPrevalence and risk factors of radiographic vertebral fracture in postmenopausal Vietnamese womenʺ. Bone, 45, 213‐217. 9. Leucht P, Fischer K (2009), ʺEpidemiology of traumatic spine fracturesʺ. Injury, 40(2), 166‐238 10. Nguyễn Thi Kim Hưng (2003), ʺCanxi và dinh dưỡng phòng ngừa loãng xươngʺ. Kỷ yếu các báo cáo khoa học hội nghị chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, TPHCM, tr. 21‐24. 11. Nguyễn Trọng Tín (2008), ʺTình hình chấn thương cột sống ngực ‐ thắt lưng tại bệnh viện chấn thương chỉnh hìnhʺ. Hội nghị khoa học thường niên lần thứ XV ‐ Hôi chấn thương chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.269 – 275 12. Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đình Nguyên (2007), Loãng xương ‐ Nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị, phòng ngừa. Nhà xuất bản y học 13. Paganini A, Atchison A (2005), ʺMenstrual and reproductive factors and fracture risk: the Leisure World Cohort Studyʺ. J Womens Health, 14(9), 808‐819 14. Riggs LB, Melton LJ (2006), ʺPopulation ‐ Based Analysis of the Relationship of Whole Bone Strength Indices and Fall Related Loads to Age ‐ and Sex ‐ Specific Patterns of Hip and Wrist Fracturesʺ. J Bone Miner Res, 21, 315‐323. 15. Trần Hoàng Minh Châu (2009), ʺTỷ lệ gãy xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương liên quan với loãng xương ở người trên 50 tuổi quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh sau 5 năm theo dõiʺ. luận văn chuyên khoa 2 – Đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh. 16. Trần Thị Uyên Linh (2011), ʺTỉ lệ loãng xương và các yếu tố nguy cơ ở phụ nữ mãn kinh và nam giới bằng hoặc trên 50 tuổi điều trị tại khoa Lão bệnh viện Nhân Dân Gia Địnhʺ. luận văn thạc sĩ y học – Đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh. 17. Van TP, Laan RF (2003), ʺBone density threshold and other predicttors of vertebral fracture in patients receiving oral glucocorticoids therapyʺ. Arthritis Rheum, 48, 3224‐3233. 18. Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân (2003), ʺĐánh giá nguy cơ loãng xương sau mãn kinh ở Việt Namʺ. Tạp chí y học, tr. 75‐ 82. 19. Wang H, Li C, Xiang Q (2012), ʺEpidemiology of spinal fractures among the elderly in Chongqing, Chinaʺ. J Care Injury Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
File đính kèm:
- khao_sat_ti_le_gay_xuong_dot_song_va_cac_yeu_to_lien_quan_tr.pdf