Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận

Mục đích: Hiện nay vẫn còn ít nghiên cứu về tần suất các biến chứng xảy ra sau đột quỵ não cấp ở người

cao tuổi. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm khảo sát một số biến chứng trong tuần lễ đầu trên

bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu, thực hiện trên 175 bệnh nhân lớn tuổi (≥ 60 tuổi)

khởi phát đột quỵ não cấp trong vòng 48 giờ nhập bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trong thời gian từ tháng 10 năm

2009 đến tháng 07 năm 2010. Các biến chứng và thời gian xảy ra các biến chứng trong tuần đầu nằm viện

được ghi nhận.

Kết quả: Trong số 175 bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp trong 07 ngày nằm viện thì có 140 trường hợp

(80%) có từ 01 biến chứng trở lên. Biến chứng táo bón xảy ra cao nhất chiếm 41,1%, viêm phổi 36%, tim mạch

35,4%; tăng đường huyết 23,6%, bí tiểu 20,6%, tăng áp lực nội sọ 20%, nhiễm trùng tiểu 15,4%, co giật-động

kinh 12,6%, cuối cùng là biến chứng loét da do tì đè 1,7%. Thời gian xảy ra biến chứng: - Trước 04 ngày

thường xảy ra các biến chứng sau: Bí tiểu, tăng đường huyết, tăng áp lực nội sọ (TALNS), viêm phổi, co giật –

động kinh, biến chứng tim mạch, cuối cùng là táo bón. - Từ ngày thứ 04 đến ngày thứ 7 nằm viện xảy ra các

chứng: Loét da do tì đè, viêm phổi, nhiễm trùng tiểu.

Kết luận: Biến chứng sau đột quỵ não cấp trong 07 ngày nằm viện ở người cao tuổi là phổ biến, cần chú ý

theo dõi và phát hiện, xử trí sớm để cải thiện bệnh và giảm chi phí điều trị.

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 1

Trang 1

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 2

Trang 2

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 3

Trang 3

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 4

Trang 4

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 5

Trang 5

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 6

Trang 6

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 7

Trang 7

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 7220
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận

Khảo sát một số biến chứng trong tuần đầu trên bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 564 
KHẢO SÁT MỘT SỐ BIẾN CHỨNG TRONG TUẦN ĐẦU 
TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI ĐỘT QUỴ NÃO CẤP 
TẠI BỆNH VIỆN TỈNH NINH THUẬN 
Lưu Hữu Dzuẫn*, Nguyễn Minh Đức**, Nguyễn Văn Trí ** 
TÓM TẮT 
Mục đích: Hiện nay vẫn còn ít nghiên cứu về tần suất các biến chứng xảy ra sau đột quỵ não cấp ở người 
cao tuổi. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm khảo sát một số biến chứng trong tuần lễ đầu trên 
bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu, thực hiện trên 175 bệnh nhân lớn tuổi (≥ 60 tuổi) 
khởi phát đột quỵ não cấp trong vòng 48 giờ nhập bệnh viện tỉnh Ninh Thuận trong thời gian từ tháng 10 năm 
2009 đến tháng 07 năm 2010. Các biến chứng và thời gian xảy ra các biến chứng trong tuần đầu nằm viện 
được ghi nhận. 
Kết quả: Trong số 175 bệnh nhân cao tuổi đột quỵ não cấp trong 07 ngày nằm viện thì có 140 trường hợp 
(80%) có từ 01 biến chứng trở lên. Biến chứng táo bón xảy ra cao nhất chiếm 41,1%, viêm phổi 36%, tim mạch 
35,4%; tăng đường huyết 23,6%, bí tiểu 20,6%, tăng áp lực nội sọ 20%, nhiễm trùng tiểu 15,4%, co giật-động 
kinh 12,6%, cuối cùng là biến chứng loét da do tì đè 1,7%. Thời gian xảy ra biến chứng: - Trước 04 ngày 
thường xảy ra các biến chứng sau: Bí tiểu, tăng đường huyết, tăng áp lực nội sọ (TALNS), viêm phổi, co giật – 
động kinh, biến chứng tim mạch, cuối cùng là táo bón. - Từ ngày thứ 04 đến ngày thứ 7 nằm viện xảy ra các 
chứng: Loét da do tì đè, viêm phổi, nhiễm trùng tiểu. 
Kết luận: Biến chứng sau đột quỵ não cấp trong 07 ngày nằm viện ở người cao tuổi là phổ biến, cần chú ý 
theo dõi và phát hiện, xử trí sớm để cải thiện bệnh và giảm chi phí điều trị. 
Từ khóa: Đột quỵ, biến chứng sau đột quỵ, người cao tuổi. 
ABSTRACT 
COMPLICATIONS OF ACUTE STROKE IN THE ELDERLY WITHIN THE FIRST WEEK 
AT NINH THUAN HOSPITAL 
Luu Huu Dzuan, Nguyen Minh Duc, Nguyen Van Tri 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 564 - 571 
Background and objective: There is a paucity of studies looking into the frequency of complications after 
acute stroke in the elderly. We sought to determine the frequency and timing of complications in the elderly 
within the first week of hospitalization affter acute stroke. 
Methods: Prospective descriptive study conducted from October 2009 to July 2010 at Ninh Thuan hospital. 
A total of 175 elderly patients (≥ 60 years) with stroke onset during 48 hours were included. Complications and 
timing of pre-determined complications within the first week of hospitalization were noted. 
Results: Of the 175 elderly patients included in the study, 140 (80%) developed at least one complication 
within the first week of stroke: Constipation 41.1%, pneumonia 36%, heart complications 35.4%, hyperglycemia 
23.6%, urinary retention 20.6%, increased intracranial pressure 20%, urinary tract infections 15.4%, epileptic 
seizure 12,6%, skin ulcers 1.7%. Timing of complications within the first week of hospitalization: Before 4 days: 
* Trường trung cấp Y tế tỉnh Ninh Thuận ** Bộ Môn Lão Khoa, ĐHYD TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Lưu Hữu Dzuẫn. ĐT: 0918560476 Email: dzuandr@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 565
Hyperglycemia, urinary retention, increased intracranial pressure, pneumonia, epileptic seizure, heart 
complications, constipation. From 4 to 7 days: Skin ulcers, pneumonia, urinary tract infections. 
Conclusions: Complications of acute stroke in the elderly are common. Apro- Active approach is ideal in all 
post stroke elderly patients, in order to indentify and treat any complications early, thereby, improving outcome 
and reducing costs. 
Key words. Stroke, complications after acute stroke, elderly. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ là vấn đề thời sự không chỉ ở các 
nước phát triển mà cả ở những nước đang 
phát triển, và ở Việt Nam cũng không ngoại lệ. 
Bệnh lý này ngày càng được ngành Y tế cũng 
như cả xã hội quan tâm vì nó là bệnh phổ biến, 
và những hậu quả nặng nề gây tàn tật, tử vong 
cao(14). Những bệnh nhân bị đột quỵ có thể 
chịu một loạt các biến chứng trong những 
ngày đầu, có thể do tiến triển của tổn thương 
não ban đầu hoặc do các triệu chứng thần kinh 
gây ra, hoặc do có thể tái phát bệnh sớm và có 
thể là nguyên nhân gây tử vong hoặc cản trở 
sự thành công của phục hồi sức khỏe(2,1,4), và 
cũng là nguyên nhân gây tàn tật sau đột quỵ. 
Hậu quả là làm tăng tỷ lệ tàn tật, tử vong, kéo 
dài thời gian nằm viện dẫn đến chi phí chăm 
sóc, điều trị tăng. Ở cơ thể người cao tuổi do có 
sự biến đổi trong quá trình tích tuổi; chứa 
đựng nhiều yếu tố gây bệnh, có thể dẫn đến 
nhiều biến chứng làm tăng tỷ lệ tử vong, để lại 
tàn phế nặng nề. Hiện nay ở Việt Nam chưa có 
công trình nào nghiên cứu về biến chứng của 
bệnh đột quỵ não cấp ở người cao tuổi trong 
tuần lễ  ... = 1,18/1. 
 + Nhóm tuổi từ 60 – 74: Tỷ lệ (%) nam giới 
(59,09%) cao hơn nữ giới (40,91%). 
 + Nhóm tuổi từ 75 – 89: Tỷ lệ (%) nam giới 
(51,25%) cao hơn nữ giới (48,75%). 
 + Nhưng từ nhóm 90 tuổi trở lên thì nữ giới 
(71,43%) cao hơn nam giới (28,57%). 
So sánh với các khảo sát, nghiên cứu, tài liệu 
khác: 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 568 
 - Nguyễn Thị Thu Nga, Nguyễn Thị Minh 
Trí, Lê Trung Hùng và cộng sự (1993-1995 và 
1996-1999) có tỷ lệ rất cao nam/nữ = 7,251/1(9,14). 
Tác giả Trần Ngọc Trinh Chinh, Võ Quảng(12) có 
tỷ lệ nam/nữ: 0,98/1. 
Tần suất có biến chứng 
Kết quả của chúng tôi phát hiện số bệnh 
nhân không có bất kỳ biến chứng gì là 35 trường 
hợp chiếm tỷ lệ 20%, bệnh nhân có từ 01 biến 
chứng trở lên là 140 trường hợp chiếm 80%. Tỷ 
lệ này cao hơn tác giả Doshi VS và cs(3) ở bệnh 
viện đa khoa Changi ở Singapore khảo sát 140 
trường hợp thì tỷ lệ có biến chứng chung là 
54,3%, còn các tác giả nghiên cứu ở 10 nước châu 
Á(6); các tác giả khảo sát 1.153 bệnh nhân đột quỵ 
não cấp ở 10 bệnh viện thuộc 10 nước Châu Á, 
độ tuổi trung bình 62 ±13,5 thì tỷ lệ có biến 
chứng chung là 42,9%. Để giải thích sự khác biệt 
này có lẽ do mẫu chúng tôi thu thập là những 
người có tuổi có độ tuổi trung bình cao hơn chứa 
nhiều yếu tố nguy cơ, bệnh mạn tính. 
Biến chứng tăng áp lực nội sọ 
Tử vong trong tuần lễ đầu tiên sau đột quỵ 
phần lớn do phù não và tăng áp lực nội sọ, gây 
ra tụt kẹt não trên lều hoặc chèn ép hạch nhân 
tiểu não vào lổ chẩm. Các rối loạn thần kinh do 
phù não thường vào ngày thứ hai hoặc ngày thứ 
ba, nhưng có thể sớm hơn do nhồi máu diện 
rộng hoặc nhồi máu xuất huyết(14), tổn thương 
thứ phát của các tổ chức thần kinh trung ương 
và ảnh hưởng đến chức năng sống còn. 
Kết quả của chúng tôi, bệnh nhân có tăng áp 
lực nội sọ sau đột quỵ 35 trường hợp chiếm 20%. 
Giới nam 57,1% cao hơn nữ 42,9%, sự khác nhau 
giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê p = 
0,704. Nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm 
75 – 89 (51,4%), tiếp theo là nhóm 60 – 74 
(45,7%), thấp nhất là nhóm từ 90 tuổi trở lên 
(2,9%), sự khác nhau giữa các nhóm tuổi với 
TALNS không có ý nghĩa thống kê với p = 0,686. 
Chúng tôi thấy có mối liên quan giữa 
TALNS với loại đột quỵ, nhóm TALNS ở bệnh 
nhân NMN là 31,4% thấp hơn xuất huyết não 
68,6%, có ý nghĩa thống kê ở mức p < 0,001, và 
TALNS sau đột quỵ có liên quan với điểm 
Glasgow của bệnh nhân; điểm Glasgow càng 
thấp biến chứng càng tăng, p < 0,001. 
Biến chứng co giật-động kinh 
Kết quả chúng tôi phát hiện có co giật- động 
kinh là 13%, của các tác giả ở 10 nước châu Á(2) là 
1,3%, tác giả Doshi VS và cs(3) ở bệnh viện đa 
khoa Changi ở Singapore là 0,7%. 
Nhóm tuổi có biến chứng co giật – động 
kinh chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm 75 – 89 
(59,1%), tiếp theo là nhóm 60 – 74 (36,4%), thấp 
nhất là nhóm từ 90 tuổi trở lên (4,5%), sự khác 
nhau về tỷ lệ có và không có biến chứng co giật- 
động kinh sau đột quỵ giữa các nhóm tuổi 
không có ý nghĩa thống kê với p = 0,343. 
Biến chứng tăng đường huyết 
Một số công trình nghiên cứu và y văn liên 
quan đến tăng đường huyết sau đột quỵ làm 
cho kết quả điều trị xấu đi và là kết quả của 
phản ứng não do tăng glucose gây cho tổn 
thương não càng trầm trọng hơn trên các bệnh 
nhân không đái tháo đường(14), có một mối 
quan hệ quan trọng đã được tìm thấy giữa 
đường trong máu và sự sống, nồng độ đường 
trong máu giảm với thời gian. Tăng đường 
huyết sau một cơn đột quỵ có lẽ phản ánh 
cường độ phản ứng của các hormone do stress. 
Tăng đường huyết là một dự báo về kết quả ở 
người đột quỵ(16,10). 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 39 bệnh 
nhân (22,6%) tăng đường đường huyết (đã loại 
trừ các trường hợp ĐTĐ). Nhóm tuổi hay gặp 
nhất là nhóm 60 – 74 tuổi (53,8%), tiếp theo là 
nhóm (75 – 89 (41%), thấp nhất là nhóm từ 90 
tuổi trở lên (5,1%). Sự khác biệt về phản ứng 
tăng đường huyết ở các nhóm tuổi không có ý 
nghĩa thống kê (p = 0,804). 
Biến chứng bí tiểu cấp 
Bí tiểu hay xảy ra ở giai đoạn đầu của đột 
quỵ và là nguyên nhân phải đặt sond tiểu cho 
bệnh nhân dễ dẫn đến nhiễm trùng tiểu. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 569
chứng bí tiểu là 36 trường hợp (20,6%), tỷ lệ này 
cao hơn tác giả Lê Thị Hòa Bình(5); khảo sát một 
số đặc điểm thiếu máu não cục bộ ở người có 
tuổi tại bệnh viện Thống Nhất từ tháng 11/1993 
đến tháng 05/1996 kết quả có rối loạn cơ vòng 
cần đặt sond tiểu là 15,5%. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi cũng tương đương với tác giả 
Doshi VS và cs(3) 20,9%. 
Biến chứng viêm phổi 
Viêm phổi là một trong những nguyên nhân 
độc lập gây tử vong sau đột quỵ nguyên nhân 
có thể do sặc, tăng tiết đờm dãi, ít vận động. 
Ngăn ngừa bằng cách làm sạch đường hô hấp, 
vận động sớm, ngồi dậy nhiều lần trên giường, 
dẫn lưu tư thế, ngăn ngừa trào ngược, vỗ ngực. 
Nếu có sốt sau đột quỵ cần tìm ngay nguyên 
nhân viêm phổi và dùng kháng sinh thích hợp. 
Kết quả của chúng tôi, có 36% bệnh nhân có 
viêm phổi sau đột quỵ. Phân bố theo nhóm tuổi: 
75 – 89 (49,2%), nhóm 60 – 74 (41,3%), thấp nhất 
là nhóm từ 90 tuổi trở lên (9,5%), sự khác nhau 
về tỷ lệ có và không có biến chứng viêm phổi 
sau đột quỵ giữa các nhóm tuổi có ý nghĩa thống 
kê với p = 0,008 < 0,05. Kết quả này so với một số 
nghiên cứu khác có cao hơn như: các tác giả 
Christian Weimar, Michael P(15) và cs nghiên cứu 
ở 14 bệnh viện tại Đức, có viêm phổi trong 07 
ngày nằm viện của đột quỵ thiếu máu não cấp, 
mẫu 3.866 bệnh nhân, tuổi trung bình (66,6 tuổi), 
có biến chứng viêm phổi là 7,4 %. 
 Biến chứng nhiễm trùng tiểu 
Người có tuổi bị đột quỵ có nhiều yếu tố 
nguy cơ dẫn đến nhiễm trùng tiểu như sau đặt 
sonde dẫn lưu nước do bí tiểu ở giai đoạn đầu 
của đột quỵ não cấp hay do có bệnh mạn tính ở 
đường tiểu như u xơ tuyến tiền liệt hoặc các 
trường hợp sa sút trí tuệ ảnh hưởng đến sự điều 
hòa của hệ thần kinh gây tiểu không kiểm soát 
được dễ dẫn đến nhiễm trùng tiểu ngược dòng. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có 
biến chứng nhiễm trùng tiểu là 15,4%, tỷ lệ này 
thấp hơn nghiên cứu của tác giả Phan Hữu Ước 
(22,2%). Kết quả của chúng tôi cũng gần tương 
đương với tác giả Doshi VS và cs(3) là 14,3%. 
Tỷ lệ bệnh nhân nam có nhiễm trùng tiểu 
(51,8%) cao hơn nữ (48,2%), sự khác nhau không 
có ý nghĩa thống kê p = 0,783. 
Phân bố theo nhóm tuổi: nhóm 75 – 89 
(63%), 60 – 74 (29,6%), thấp nhất là nhóm từ 90 
tuổi trở lên (7,4%), sự khác nhau về tỷ lệ có và 
không có nhiễm trùng tiểu sau đột quỵ giữa các 
nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê với p = 0,05. 
Còn tác giả Aslanyan. S và cs nghiên cứu 
viêm phổi và nhiễm trùng tiểu sau đột quỵ 
NMN năm 2003(1), mẫu 1.455, có 10% nhiễm 
trùng tiểu trong tuần đầu sau đột quỵ và nhiễm 
trùng tiểu không liên quan đến tuổi tác, giới 
tính, phân loại đột quỵ mà có liên quan tới dự 
hậu trong 03 tháng đầu sau đột quỵ. 
Biến chứng táo bón 
Kết quả có 41,1% bệnh nhân có biến chứng 
táo bón, tỷ lệ này cao hơn của các tác giả 
nghiên cứu ở 10 nước châu Á(2) 7,9%, tác giả 
Doshi VS và cs(3) là 22,9%. Đối chiếu các y văn, 
tài liệu có liên quan thì điều này được giải 
thích có thể do người có tuổi hay mắc bệnh về 
đại tràng từ trước và trong thời gian nằm viện 
ít vận động, một phần do vấn đề chăm sóc và 
nuôi dưỡng của người thân không chú ý đến 
chế độ ăn có đủ chất xơ và nước uống cho 
bệnh nhân, và có mối liên quan giữa táo bón 
với loại đột quỵ; cụ thể ở nhóm NMN là 84,7 
%, XHN là 72,7%, Sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê ở mức p = 0,033 < 0,05. 
Táo bón cũng có liên quan với nhóm tuổi; 
cao nhất ở nhóm 75 – 89 (59,7%), 60 – 74 (34,7%), 
thấp nhất là nhóm từ 90 tuổi trở lên (5,6%), với p 
= 0,005, và cũng có mối liên quan với điểm 
Glasgow ≤ 8, nhóm táo bón có điểm Glasgow ≤ 8 
là 6,9 %, nhóm không táo bón có điểm Glasgow 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 570 
≤ 8 là 29,1 %. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê ở mức p <0,001. 
Biến chứng tim mạch 
TBMMN có thể gây ra biến đổi trực tiếp điện 
tim và chức năng cơ tim mà không liên quan đến 
thiếu máu cơ tim. Nhiều tác giả quan tâm tìm 
hiểu nguyên nhân và biến chứng gây tử vong 
trong đó có biến chứng tim mạch sau đột quỵ não 
cấp như tác giả Stephen Oppenheimer khảo sát 46 
trường hợp TBMMN tử vong trong tuần đầu tiên 
thì nguyên nhân do biến chứng tim là 15%(11), còn 
tác giả Trương Văn Luyện; nghiên cứu đánh gía 
các nguyên nhân tử vong trên bệnh nhân đột quỹ 
não trong thời gian 02 năm tại khoa Nội Thần 
Kinh Bệnh Viện Chợ Rẫy(13) qua phân tích 392 
trường hợp tử vong thì có biến chứng loạn nhịp 
tim 0,5%, rung nhĩ 1,7% và 17,3% có thiếu máu cơ 
tim. Do đó để phấn đấu hạ tỷ lệ tử vong trong 
giai đoạn cấp thì vấn đề chăm sóc tích cực đối với 
TBMMN thì theo dõi và can thiệp kịp thời tim là 
thiết yếu và quan trọng. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phát hiện 
bệnh nhân có biến chứng tim mạch là 62 trường 
hợp (35,4%), trong đó: 48 trường hợp ST chênh 
xuống (27,4%), 05 trường hợp ST chênh lên 
(2,9%), 37 trường hợp có T đảo ngược (21,1%), 17 
trường hợp loạn nhịp (9,7%). Như vậy kết quả 
nghiên cứu này có ST chênh xuống và sóng T 
âm chiếm ưu thế khiến ta nghĩ đến: có phải 
chăng tổn thương não cấp tính của TBMMN đã 
gây nên rối loạn trương lực giao cảm làm co thắt 
mạch vành làm cho kết quả điện tâm đồ thay 
đổi theo kiểu thiếu máu cơ tim. Tuy nhiên để 
khẳng định điều này cần phải có nghiên cứu 
quy mô lớn chuyên biệt về biến đổi ECG ở 
người có tuổi bị đột quỵ não cấp với kỹ thuật 
chụp nhấp nháy phóng xạ để chứng tỏ hiện 
tượng co thắt mạch vành trong giai đoạn đột 
quỵ não cấp. tỷ lệ rối loạn nhịp của chúng tôi 
(9,7%) cao hơn của các tác giả nghiên cứu ở 10 
nước châu Á(6) (0,3%). 
Kết quả phân bố biến chứng tim mạch theo 
nhóm tuổi: nhóm 75 – 89 (53,2%), 60 – 74 
(40,3%), thấp nhất là nhóm từ 90 tuổi trở lên 
(6,5%), sự khác biệt này không có ý nghĩa thống 
kê với p = 0,147. 
 KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 175 bệnh nhân cao tuổi đột 
quỵ não cấp trong 07 ngày nằm viện thì chúng 
tôi rút ra một số kết luận sau: 
- Có 80% có từ 01 biến chứng trở lên. Biến 
chứng táo bón xảy ra cao nhất chiếm 41,1%, 
viêm phổi 36%, tim mạch 35,4%; tăng đường 
huyết 23,6%, bí tiểu 20,6%, tăng áp lực nội sọ 
20%, nhiễm trùng tiểu 15,4%, co giật-động 
kinh 12,6%, cuối cùng là biến chứng loét da do 
tì đè 1,7%. 
- Thời gian xảy ra biến chứng: 
+ Trước 04 ngày thường xảy ra các biến 
chứng sau: Bí tiểu, tăng đường huyết, 
TALNS, viêm phổi, nhiễm trùng tiểu, co giật 
– động kinh, biến chứng tim mạch, cuối cùng 
là táo bón. 
+ Từ ngày thứ 04 đến ngày thứ 7 nằm viện 
thường xảy ra các chứng: Loét da do tì đè, viêm 
phổi, nhiễm trùng tiểu. 
+ Nhóm tuổi có liên quan với biến chứng 
viêm phổi, nhiễm trùng tiểu, táo bón sau đột quỵ 
(p < 0,05); tuổi càng cao biến chứng càng tăng. 
+ Loại đột quỵ có liên quan với các biến 
chứng TALNS, co giật - động kinh, bí tiểu cấp 
(XHN cao hơn nhóm NMN), biến chứng tim 
mạch, táo bón (NMN cao hơn XHN), p < 0,05. 
+ Điểm Glasgow có liên quan với các biến 
chứng như: TALNS, co giật – động kinh, tăng 
đường huyết, bí tiểu, táo bón, tim mạch; điểm 
Glasgow càng thấp thì biến chứng càng tăng, p 
< 0,05. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 571
KIẾN NGHỊ 
Để góp phần làm giảm tỷ lệ biến chứng, hạn 
chế tàn tật và giảm tỷ lệ tử vong sau đột quỵ não 
cấp ở người cao tuổi, chúng tôi thiết nghĩ rất cần 
thực hiện những nghiên cứu lớn hơn, thời gian 
nghiên cứu sau đột quỵ kéo dài hơn và thiết kế 
hai nhóm; nhóm đột quỵ não cấp và không đột 
quỵ não cấp ở người cao tuổi trong thời gian 
nằm viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aslanyan S. (2004). Pneumonia and urinary tract infection 
after acute ischaemic stroke a tertiary analysis of the GAIN 
International trial. European Journal of Neurology 11: 49 – 53. 
2. Bamford J, Sandercock P, Dennis M, Burn J, Warlow C (1991) 
Classification and natural history of clinically identifiable 
subtypes of cerebral infarction. Lancet 22; 337 (8756),1521 –
1526. 
3. Doshi VS, Say J H, Young SH- Y, Doraisamy P (2003). 
Complications in Stroke Patients: A Study Carried out at The 
Rehabilitation Medicine Service,Changi General Hospital. 
Singapore Med Vol 44;12: 643-652 
4. Langhorne P, Stott D.J, Robertson L., MacDonald J., et al 
(2000). Medical Complications After Stroke. Stroke 31:1223. 
5. Lê Thị Hòa Bình (1996). khảo sát một số đặc điểm thiếu máu não 
cục bộ ở người có tuổi tại bệnh viện Thống Nhất. Luận án chuyên 
khoa cấp II. Đại học Y – Dược TP. Hồ chí Minh. 
6. Navarro JC, Bitanga E, Suwanwela N, Chang HM, Ryu SJ, 
Huang YN, Wong L, Arjundas D, Singhal BS, Lee SB, Yoon 
BW, Ramani NV, Chiu HC, Poungvarin N, Tan KS, Alam SM, 
Le Duc Hinh, on behalf of the Asian Stroke Advisory Panel 
(2008). Complication of acute stroke: A study in ten Asian 
countries. Neurology Asia 13:33 – 39. 
7. Nguyễn Thị Minh Trí, Vũ Anh Nhị (2007). Nghiên cứu một số 
yếu tố nguy cơ của Đột Quỵ Thiếu máu Não Cục Bộ cấp trên 
người cao tuổi. Luận án chuyên khoa II Nội Thần Kinh, Đại 
học Y – Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, 54 – 83. 
8. Nguyễn Thị Thu Nga và cộng sự (1996). Nhận xét các trường 
hợp TBMMN tại khoa nội Thần Kinh Bệnh viện Thống Nhất 
TP. Hồ Chí Minh từ 1993-1995. 
9. Nguyễn Thị Thu Nga, Lê Trung Hùng và cộng sự (1999). 
Nhận xét sơ bộ về TBMMN tại khoa Thần Kinh Bệnh viện 
Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh từ 1996-1998, Tạp chí Y học TP. 
Hồ Chí Minh chuyên đề thần kinh học, tập 3:57 -60. 
10. O'Neill P.A., I.Davies, K.J. Fullerton, and D.Bennett, BSc 
(1991) Stress Hormone and Blood Glucose Response 
Following Acute Stroke in the Elderly. Stroke 22: 842-847. 
11. Stephen oppenheimer (1992).Complication of acute stroke. 
The lancet, vol 335: 721-724. 
12. Trần Ngọc Trinh Chinh (2008).Yếu tố tích tuổi ở người có tuổi 
tai biến mạch máu não. Luận án chuyên khoa 2. Đại học Y – 
Dược TP. Hồ chí Minh. 
13. Trương Văn Luyện, Lê Văn Thành (2002). Đánh giá nguyên 
nhân tử vong trên bệnh nhân đột quỹ não cấp. Luận văn 
chuyên khoa cấp II thần kinh học. Đại học Y – Dược TP. Hồ 
Chí Minh. 
14. Vũ Anh Nhị (2006). Tai biến mạch máu não, Thần kinh học, 
Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 245 – 
258. 
15. Weimar C, Roth MP., Zillessen G, Glahn J, Wimmer MLJ., 
Busse O, Haberl RL., Diener HC, on behalf of the German 
Stroke Data Bank Collaborators (2002). Complications 
following Acute Ischemic Stroke. Neurolory 48 (3). 
16. Woo J, Lam CWK, Kay R, Wong AHY, Teoch R, Nicholls G 
(1990) The influence of hyperglycemia and diabetes mellitus 
on immediate and 3-month morbidity and mortality after 
acute stroke. Arch Neurol 47:1174-1177. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_mot_so_bien_chung_trong_tuan_dau_tren_benh_nhan_cao.pdf