Kết quả phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai
Nghiên cứu mô tả loạt ca lâm sàng nhằm đánh giá thời gian ổn định hốc mổ và khả năng tái phát sau
phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai. Kết quả cho thấy trong số 40 bệnh nhân viêm
xương chũm mạn tính có cholesteatoma hoặc xẹp nhĩ độ IV hoặc viêm thượng nhĩ với xương chũm đặc ngà
được lấy vào nghiên cứu có 29 nữ và 11 nam (tuổi từ 16 đến 71, trung bình 40,6); 35/40 bệnh nhân (87,5%)
bị viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma; 27/40 bệnh nhân được tạo hình hòm nhĩ nhỏ; Thời gian
khô tai trung bình là 14 ± 4,4 ngày sau phẫu thuật, trong đó 26/40 bệnh nhân (65%) chỉ chảy tai trong
khoảng 14 ngày; Sau phẫu thuật 8 tuần, 100% bệnh nhân có hốc mổ hoàn toàn ổn định với kích thước chỉ
rộng hơn 2 lần ống tai bình thường và cửa tai gọn nhưng vẫn đảm bảo dẫn lưu và thông thoáng. Kết luận:
đây là phương pháp phẫu thuật gây tổn thương giải phẫu tối thiểu nhưng đạt hiệu quả tối đa với thời gian
khô tai nhanh, tạo điều kiện phục hồi chức năng nghe mà vẫn đảm bảo tính an toàn (biến chứng ít, nhẹ, hồi
phục tốt).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai
64 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TIỆT CĂN XƯƠNG CHŨM TỐI THIỂU ĐƯỜNG XUYÊN ỐNG TAI Nguyễn Thị Tố Uyên, Nguyễn Tấn Phong Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu mô tả loạt ca lâm sàng nhằm đánh giá thời gian ổn định hốc mổ và khả năng tái phát sau phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai. Kết quả cho thấy trong số 40 bệnh nhân viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma hoặc xẹp nhĩ độ IV hoặc viêm thượng nhĩ với xương chũm đặc ngà được lấy vào nghiên cứu có 29 nữ và 11 nam (tuổi từ 16 đến 71, trung bình 40,6); 35/40 bệnh nhân (87,5%) bị viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma; 27/40 bệnh nhân được tạo hình hòm nhĩ nhỏ; Thời gian khô tai trung bình là 14 ± 4,4 ngày sau phẫu thuật, trong đó 26/40 bệnh nhân (65%) chỉ chảy tai trong khoảng 14 ngày; Sau phẫu thuật 8 tuần, 100% bệnh nhân có hốc mổ hoàn toàn ổn định với kích thước chỉ rộng hơn 2 lần ống tai bình thường và cửa tai gọn nhưng vẫn đảm bảo dẫn lưu và thông thoáng. Kết luận: đây là phương pháp phẫu thuật gây tổn thương giải phẫu tối thiểu nhưng đạt hiệu quả tối đa với thời gian khô tai nhanh, tạo điều kiện phục hồi chức năng nghe mà vẫn đảm bảo tính an toàn (biến chứng ít, nhẹ, hồi phục tốt). Từ khoá: cholesteatoma, xẹp nhĩ, viêm thượng nhĩ, mở sào bào đường xuyên ống tai, tiệt căn xương chũm tối thiểu I. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật tiệt căn xương chũm - còn gọi là phẫu thuật xương chũm kỹ thuật hở (Open technic) - được Kuster mô tả từ năm 1889: hạ thấp thành sau ống tai xương để đi vào vùng bệnh lý). Hơn 100 năm qua, phẫu thuật này ngày càng được hoàn thiện với nhiều cải biên nhằm đạt tới một đích chung là đảm bảo lấy sạch bệnh tích, hạn chế tái phát và cố gắng hồi phục chức năng nghe [1]. Phẫu thuật tiệt căn xương chũm kinh điển dù đi đường trước tai hay sau tai đều khoan bỏ một phần rộng của vỏ xương chũm cho đến khi bộc lộ được toàn bộ bệnh tích ở sào bào, sào đạo, thượng nhĩ và các thông bào chũm. Nhiều trường hợp phần vỏ xương chũm bị lấy đi hoàn toàn bình thường và nhược điểm của phương pháp này là tạo ra một hốc mổ lớn với nhiều khó chịu cho người bệnh: thời gian chảy tai sau phẫu thuật dài (3 đến 4 tháng); lỗ tai bị mở rộng gấp 2 đến 3 lần có thể gây chóng mặt khi đi ra gió lạnh, ảnh hưởng đến thẩm mỹ và gây khó khăn trong việc sử dụng máy trợ thính[1, 2]. Năm 2008, Holt đã công bố phẫu thuật mở sào bào đường xuyên ống tai điều trị viêm xương chũm mạn tính, đây là đường phẫu thuật gần hơn để đi vào vùng bệnh tích ở sào bào [3]. Tại Việt Nam, năm 2009 Nguyễn Tấn Phong đã trình bày phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai (thuộc nhóm phẫu thuật xương chũm kỹ thuật hở). Sở dĩ đường phẫu thuật này được nghĩ đến vì trong thực tế lâm sàng, nhiều trường hợp viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma hoặc xẹp nhĩ độ IV hoặc viêm thượng nhĩ được chẩn đoán khi bệnh tích còn gọn, xương chũm đặc ngà với kích thước sào bào nhỏ, nếu áp dụng phẫu thuật tiệt căn xương chũm thông thường sẽ tạo ra một hốc mổ quá lớn so với bệnh tích. Nếu thực hiện kỹ thuật kín Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Tố Uyên, Bộ môn Tai Mũi Họng, trường Đại học Y Hà Nội Email: touyenent@yahoo.com Ngày nhận: 24/12/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 TCNCYH 82 (2) - 2013 65 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC thì rất khó và dễ gặp tai biến (do các cấu trúc quan trọng như tĩnh mạch bên, màng não, dây VII, ống bán khuyên ngoài thường nằm lấn về phía sào bào). Kỹ thuật khoan mở thượng nhĩ – sào đạo – sào bào từ tường thượng nhĩ ra sau cho tới đáy sào bào, chỉ lấy bỏ đi thành sau trên ống tai ngoài, gần như giữ nguyên vỏ xương chũm đã tạo ra một hốc mổ nhỏ, gọn, nhưng vẫn đảm bảo lấy triệt để bệnh tích và dẫn lưu tốt. Hơn nữa, khi niêm mạc trung nhĩ và hạ nhĩ sạch ta vẫn có thể tạo hình hòm nhĩ nhỏ để tái tạo hệ truyền âm [4, 5]. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu: đánh giá thời gian ổn định hốc mổ và khả năng tái phát sau phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng - 40 bệnh nhân với chẩn đoán viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma hoặc xẹp nhĩ độ IV hoặc viêm thượng nhĩ được phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai từ tháng 9 năm 2010 đến hết tháng 12 năm 2011 tại bệnh viện Tai – Mũi – Họng Trung ương. - Tiêu chuẩn lựa chọn: + Bệnh nhân được chẩn đoán viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma hoặc xẹp nhĩ độ IV hoặc viêm thượng nhĩ. + Có đo thính lực đơn âm trước phẫu thuật (để đối chiếu với kết quả đo sau phẫu thuật). + Có chụp cắt lớp vi tính xương thái dương: xương chũm cấu trúc đặc, tổn thương khu trú ở hòm nhĩ, thượng nhĩ, sào đạo, sào bào, bao gồm cả những tổn thương nguy hiểm: ăn mòn trần xương gây hở màng não, hở ống bán khuyên ngoài, khuyết vỏ xương dây VII. - Tiêu chuẩn loại trừ: viêm xương chũm mạn tính hồi viêm. 2. Phương pháp Nghiê ... 35,0 0 14 35,0 Không tạo hình xương con 3 7,5 13 32,5 16 40,0 Tổng số 27 67,5 13 32,5 40 100 Có 27/40 bệnh nhân (67,5%) được tạo hình hòm nhĩ trong phẫu thuật (khi trung nhĩ và hạ nhĩ sạch, không có bệnh tích cholesteatoma). Chất liệu dùng để tạo hình là màng nhĩ và vạt da ống tai ngoài, hoặc cân cơ thái dương, hoặc màng sụn, hoặc sụn kèm màng sụn nắp tai. Có 24/40 bệnh nhân (60%) được tạo hình hòm nhĩ đồng thời tạo hình chuỗi xương con nhằm cải thiện sức nghe. Vật liệu tái tạo chuỗi xương con là gốm sinh học hoặc sụn nắp tai của chính bệnh nhân. 2.4. Các tai biến của phẫu thuật Bảng 4. Số bệnh nhân có tai biến của phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai trong nghiên cứu Tai biến Liệt mặt Chóng mặt Viêm sụn vành tai Tổng số Số bệnh nhân (n = 40) 1 4 1 6 % 2,5 10,0 2.5 15 Tỷ lệ tai biến chung của phẫu thuật là 15 %, trong đó 5% là tai biến nặng với 1 bệnh nhân liệt VII ngoại biên không hoàn toàn (chủ yếu nhánh cổ mặt, hồi phục tốt sau 1 tháng), 1 bệnh nhân bị viêm sụn vành tai xuất hiện muộn (ngày thứ 25 sau phẫu thuật); 10% là tai biến nhẹ với 4 bệnh nhân bị chóng mặt khi thay đổi tư thế trong 2 - 4 ngày sau phẫu thuật. 2.5. Khả năng hồi phục của hốc mổ sau phẫu thuật Từ ngày thứ 2 sau phẫu thuật hầu hết bệnh nhân tự phục vụ được những sinh hoạt cá nhân. Cảm giác đau vùng mổ và lượng dịch rỉ viêm chảy ra cửa tai ít hơn phẫu thuật tiệt căn xương chũm kinh điển. Thời gian chảy tai trung bình sau phẫu thuật là 14 ± 4,4 ngày. Có 26/40 bệnh nhân (chiếm 65%) chỉ chảy tai trong khoảng 14 ngày. 68 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bệnh nhân được thay Merocel tai vào ngày thứ 8 đến thứ 10 sau phẫu thuật, lần thay Merocel tiếp theo được hẹn sau khoảng 10 đến 14 ngày. Thời gian da phủ kín hốc mổ trung bình là: 6 ± 1,3 tuần. Sau 8 tuần, 100% bệnh nhân có hốc mổ ổn định. Nhìn chung việc chăm sóc sau ra viện tương đối đơn giản, thời gian theo dõi ngắn. Đối chiếu thính lực đồ đơn âm trước và sau phẫu thuật 3 tháng, chúng tôi nhận thấy ngưỡng nghe đường xương ở tất cả các trường hợp không có sự thay đổi. Đánh giá viêm xương chũm mạn tính tái phát: 32 bệnh nhân (chiếm 80%) được theo dõi sau phẫu thuật 1 năm trở lên, 40 bệnh nhân (100%) có thời gian theo dõi trên 9 tháng. Trong số này, có 1 bệnh nhân tái phát cholesteatoma với kích thước nhỏ (đường kính 1mm) được phát hiện trên phim chụp MRI diffusion và bệnh nhân này đã được mổ lại xương chũm kiểm tra. Ngoài ra, 3 bệnh nhân có biểu hiện xẹp nhĩ tiến triển sau khi ống thông khí hòm nhĩ đào thải. IV. BÀN LUẬN Đặc điểm mẫu nghiên cứu Sự khác biệt về tỷ lệ nam/nữ, tỷ lệ tai phẫu thuật bên phải/bên trái trong nghiên cứu này được giải thích bởi cỡ mẫu chưa đủ lớn. Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 41, phần lớn bệnh nhân ở độ tuổi lao động nên thời gian hồi phục sau phẫu thuật ngắn và kết quả phẫu thuật tốt sẽ đóng góp nhiều vào tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Giống như phẫu thuật tiệt căn xương chũm kinh điển, phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai có thể áp dụng cho bệnh nhân có bệnh phối hợp như cao huyết áp, mạch vành, tiểu đường type 2 Trong nghiên cứu không xảy ra tai biến nào ở nhóm bệnh nhân có bệnh phối hợp này. Như vậy, phẫu thuật này cũng không có chống chỉ định tuyệt đối. Kết quả phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai Phương pháp vô cảm và phương tiện quan sát trong phẫu thuật: Do cấu trúc xương chũm đặc, rắn với kích thước sào bào nhỏ, trường mổ hẹp, khi phẫu thuật phải khoan và bóc tách ở những vùng nguy hiểm như tường dây VII, ống bán khuyên ngoài, cửa sổ bầu dục, cửa sổ tròn nên gây mê nội khí quản là phương pháp vô cảm tốt và an toàn. Nhận định này cũng trùng hợp với N.T.Phong [5, 6]. Nội soi là phương tiện phẫu thuật tốt. So với kính hiển vi phẫu thuật trường nhìn của nội soi rộng hơn, nhờ đó phẫu thuật viên có thể dễ dàng quan sát đánh giá bệnh tích. Khi sử dụng nội soi ta phải làm quen với việc một tay cầm optic và chỉ còn một tay để sử dụng các dụng cụ vi phẫu tai. Tuy vậy việc sử dụng một tay để thực hiện các thao tác phẫu thuật cũng không phải là quá khó và nó cũng không cản trở các thao tác tinh tế như bộc lộ và bóc tách cholesteatoma ở ngách mặt, xoang nhĩ, tạo hình xương con, tái tạo hòm nhĩ nhỏ [4, 5, 7]. Hiện nay bộ nội soi tai - mũi - họng đã được trang bị phổ biến cho các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện nên phẫu thuật này có thể phổ cập tới các tuyến điều trị. Đặc điểm bệnh tích và các tai biến của phẫu thuật Viêm xương chũm mạn tính có cholestea- toma hoặc xẹp nhĩ độ IV hoặc viêm thượng nhĩ là một trong những bệnh có chỉ định phẫu thuật bắt buộc, hơn thế nên phẫu thuật càng sớm càng tốt. Trong nghiên cứu chủ yếu là viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma (87,5%), do đây là bệnh hay gặp ở Việt Nam. Trong phẫu thuật chúng tôi quan sát được TCNCYH 82 (2) - 2013 69 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC các tổn thương nguy hiểm như hở màng não, hở ống bán khuyên ngoài, hở đoạn 2 dây VII. Hầu hết các tổn thương này đã được khắc phục trong phẫu thuật. Phẫu thuật điều trị viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma hoặc viêm thượng nhĩ hoặc xẹp nhĩ độ IV thường có tỷ lệ biến chứng cao hơn các dạng viêm tai khác do đặc điểm bệnh lý và do cấu trúc bất thường của xương chũm. Chúng tôi có 1 bệnh nhân bị liệt VII ngoại biên không hoàn toàn ngay sau phẫu thuật và hồi phục sau 1 tháng. Những biến chứng liệt VII ngoại biên không hoàn toàn, chóng mặt nhẹ, viêm sụn vành tai muộn ở nghiên cứu này gặp với tỷ lệ tương tự trong các phương pháp phẫu thuật tiệt căn xương chũm khác [1, 2, 7]. Trên thính lực đồ đơn âm, ngưỡng nghe đường xương thay đổi không đáng kể trước và sau phẫu thuật 3 tháng. Thông thường, phẫu thuật tiệt căn xương chũm có thể gặp biến chứng mê nhĩ gây điếc tiếp âm, thường do tổn thương cholesteatoma ăn vào vùng các cửa sổ hoặc gây hở ống bán khuyên ngoài và do động tác phẫu thuật thô bạo. Như vậy nếu được tiến hành thận trọng thì phẫu thuật này cũng an toàn với tai trong. Tạo hình hòm nhĩ: Việc tạo hình hòm nhĩ ở thì phẫu thuật đầu tiên đã tạo ra cơ hội tái tạo hệ truyền âm [3, 5, 6]. Màng sụn và sụn nắp tai được sử dụng để tăng cường màng nhĩ là một chất liệu tốt, không có sự thải ghép, hơn nữa đây là những chất liệu có độ chắc cao đối với những bệnh lý tai ít nhiều liên quan đến tình trạng lỗ vòi. Vào thời điểm phẫu thuật, nếu tình trạng mũi xoang và họng chưa ổn định thì ống thông khí sẽ được đặt phối hợp, để giảm nguy cơ xẹp nhĩ sau phẫu thuật. Tùy từng trường hợp mà chúng tôi sử dụng trụ gốm sinh học hoặc sụn để tái tạo chuỗi xương con. Khả năng hồi phục của hốc mổ sau phẫu thuật: Kỹ thuật mở thượng nhĩ - sào đạo - sào bào từ trước ra sau đã được áp dụng nhiều trong các phẫu thuật tiệt căn xương chũm ở những bệnh nhân có sào bào nhỏ, xương chũm đặc. Trong các phẫu thuật kinh điển này, phẫu thuật viên đồng thời khoan bỏ phần vỏ xương chũm, tạo ra một hốc mổ tiệt căn lớn, kèm theo là việc chỉnh hình cửa tai rộng để đảm bảo dẫn lưu. Bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu này đều có cấu trúc xương chũm đặc, sào bào nhỏ, bệnh tích khu trú, không lan ra các nhóm thông bào khác nên chúng tôi vẫn sử dụng kỹ thuật mở thượng nhĩ – sào đạo – sào bào từ trước ra sau nhưng hạn chế tối đa việc lấy bỏ phần vỏ xương chũm lành mà vẫn tạo ra một hốc mổ tiệt căn xương chũm kích thước nhỏ, tương xứng với tổn thương, đảm bảo dẫn lưu tốt vào ống tai ngoài. Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu không cần chỉnh hình cửa tai do lỗ ống tai ngoài rộng và hốc mổ tiệt căn nhỏ, quan điểm này cũng giống của Marchioni [7]. Khám lại khi tai phẫu thuật đã hoàn toàn ổn định ta thấy cửa tai rộng hơn khoảng 1,5 lần và hốc mổ chỉ rộng hơn ống tai ngoài cũ khoảng 2 lần, tỷ lệ Va/S luôn đảm bảo. Khi cửa tai không quá rộng, việc lựa chọn và sử dụng máy trợ thính cũng dễ dàng hơn với người bệnh. Để giải thích việc hốc mổ khô và liền da nhanh hơn phương pháp phẫu thuật tiệt căn xương chũm kinh điển chúng tôi thấy có 2 lý do chính. Thứ nhất, khi kết thúc phẫu thuật hốc mổ tiệt căn tối thiểu thường chỉ rộng gấp 2 lần ống tai ngoài. Thứ hai, việc sử dụng vạt da hình quả đào (hay hình chữ V) ở thành sau trên ống tai ngoài (đỉnh ở sát cửa tai, cuống chính là màng nhĩ) lót hốc mổ tiệt căn đã giúp che phủ 1/2 diện tích hốc mổ. Bên cạnh đó, việc tái tạo 70 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC hòm nhĩ cũng giúp thu hẹp hốc mổ. Tái phát cholesteatoma là một trong những biến chứng muộn của phẫu thuật tai - xương chũm. Hầu hết các tác giả theo dõi sau phẫu thuật từ 9 tháng trở lên. Đây là phẫu thuật tiệt căn xương chũm nên việc theo dõi tái phát cholesteatoma chỉ đặt ra ở những bệnh nhân có tạo hình hòm nhĩ nhỏ. Nếu việc tạo hình này sử dụng vật liệu là màng nhĩ cũ hoặc cân cơ thái dương hoặc màng sụn thì việc đánh giá tái phát qua khám nội soi tai tương đối đơn giản. Nếu tái tạo hòm nhĩ bằng sụn thì việc đánh giá tái phát cholesteatoma khó hơn. Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam đã sử dụng phương pháp chụp cộng hưởng từ diffu- sion sọ não để phát hiện cholesteatoma tái phát với độ nhạy cao. Phối hợp giữa theo dõi lâm sàng và cận lâm sàng chúng tôi đã xác định có 1/40 bệnh nhân (2,5%) tái phát cho- lesteatoma. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác [3, 5, 7]. Xẹp nhĩ tái phát ở những bệnh nhân có tạo hình hòm nhĩ nhỏ là một vấn đề nan giải. Những bệnh nhân này đều đã được đặt ống thông khí trong phẫu thuật nhưng sau một thời gian ống bị đào thải tự nhiên thì xẹp nhĩ xuất hiện trở lại. Rất nhiều tác giả đã cho rằng trong bệnh xẹp nhĩ thì nguyên nhân không chỉ là viêm, tắc vòi nhĩ mà còn có hiện tượng thoái hóa, teo đét của niêm mạc hòm nhĩ và vòi nhĩ. V. KẾT LUẬN Phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường xuyên ống tai bước đầu khẳng định những ưu điểm trong điều trị viêm xương chũm mạn tính có cholesteatoma, xẹp nhĩ độ IV, viêm thượng nhĩ khi bệnh tích còn khu trú. Thứ nhất, đây là phương pháp phẫu thuật có tỷ lệ tai biến thấp. Thứ hai, phương pháp này đã giải quyết triệt để bệnh tích với tổn thương giải phẫu tối thiểu - hiệu quả tối đa, tạo ra hốc mổ tiệt căn ổn định nhanh hơn các phẫu thuật tiệt căn xương chũm kinh điển. Thứ ba, phẫu thuật đã góp phần bảo vệ chức năng nghe của tai giữa bằng việc tạo hình hòm nhĩ nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho tạo hình xương con; thêm vào đó, cửa tai nhỏ cũng giúp bệnh nhân sử dụng máy trợ thính dễ dàng hơn. Phẫu thuật này có thể phổ cập tới tuyến dưới. Lời cảm ơn Chúng tôi chân thành cảm ơn các bác sỹ, tập thể khoa Tai - Thần kinh và khoa Tai B5, bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung ương đã tạo điều kiện cho chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Glasscock and Shambaugh (1990). The open cavity mastoid operations, Surgery of the ear, 229 - 247. 2. Nguyễn Tấn Phong (2000). Phẫu thuật tai, Nhà xuất bản Y học. 3. Holt J.J. (2008). Transcanal antrotomy, The Laryngoscope, 118, 2036 - 2039. 4. Nguyễn Tấn Phong (2009). Phẫu thuật nội soi chức năng tai, Nhà xuất bản Y học. 5. Nguyễn Tấn Phong (2010). Khoét chũm tiệt căn tối thiểu kết hợp tạo hình tai giữa, Tạp chí Y học thực hành, 730 (8), 80 - 82. 6. Nguyễn Thị Tố Uyên, Nguyễn Tấn Phong (2012). Kết quả ban đầu của phẫu thuật tiệt căn xương chũm đường xuyên ống tai, Tạp chí Nghiên cứu y học, 78 (1), 48 - 53. 7. Marchioni D, Villary D, Alicandri Ciufelli M, et al (2011). Endoscopic open technique in patients with middle ear cho- lesteatoma, Eur Arch Otorhinolaryngol, Nov, 268 (11), 1557 - 1563. TCNCYH 82 (2) - 2013 71 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary THE MINIRADICAL TRANSCANAL MASTOIDECTOMY The recovery time and risk of recurrence of miniradical transcanal mastoidectomy in Viet Nam are currently unknown. In this study, we used a series of clinical cases to determine the recovery time and the recurrence of miniradical transcanal mastoidectomy. Forty (40) patients with cho- lesteatomas otitis, adhesive otitis grade IV, or attic inflammation containing small and localized lesion have been selected for this study. They are 29 female and 11 male, ages ranging from 16 to 71 years olds (mean age of 40.6). Thirty-five of forty patients (or 87.5%) had cholesteatoma. Twenty-seven of the forty (27/40) patients underwent reconstructive tympanal cavity. Within 14 + 4.4 days post-surgery, there were no visible signs of otorrhea. After 14 days post-surgery, 26/40 patients (65%) exhibited visible signs of otorrhea. After 8 weeks following the reconstructive sur- gery, all patients (100%) with miniradical mastoidectomies were stable. In these patients, minradi- cal mastoectomies were able to double the width of the external auditory canal and widen the ear- hole large enough for drainage. This is an effective mini-surgery that yields perfect cavities of mastoidectomy, and achieves a faster recover time and a better hearing ability. Keywords: cholesteatoma, adhesive otitis grade IV, retraction pocket, attic inflammation, transcanal antrotomy, miniradical mastoidectomy KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ XẸP NHĨ TẠI KHOA TAI MŨI HỌNG - BỆNH VIỆN BẠCH MAI Lê Công Định, Đào Trung Dũng Trường Đại học Y Hà Nội Xẹp nhĩ là một loại viêm tai giữa nguy hiểm vì có thể tiến triển thành cholesteatoma. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ. Kết quả cho thấy tổn thương các xương con gặp ở 42,4% trường hợp, hay gặp nhất là xương đe. Theo dõi trung bình 5,8 tháng sau phẫu thuật thấy tỷ lệ không tái phát xẹp nhĩ chiếm 92,4%, các trường hợp thất bại đều gặp ở xẹp nhĩ toàn bộ giai đoạn III và IV chiếm 7,6%. Kết quả phục hồi sức nghe sau mổ với PTA ≤ 30 dB chiếm 45,4%, ABG ≤ 20 dB chiếm 51,5%. Phẫu thuật chỉnh hình tai giữa là biện pháp can thiệp có hiệu quả cả về mặt giải phẫu và chức năng nghe trong điều trị xẹp nhĩ. Từ khoá: xẹp nhĩ, túi co kéo, chỉnh hình tai giữa I. ĐẶT VẤN ĐỀ Xẹp nhĩ là tình trạng màng nhĩ bị co lõm về phía trong, làm giảm thể tích hòm tai do hậu quả của rối loạn chức năng vòi nhĩ và tiêu lớp sợi màng nhĩ. Biểu hiện co lõm có thể ở toàn bộ màng nhĩ gọi là xẹp nhĩ toàn bộ hoặc một phần của màng nhĩ gọi là xẹp nhĩ khu trú. Xẹp nhĩ tiến triển qua nhiều giai đoạn; theo Magnan và Bremond có khoảng 30% xẹp nhĩ tiến triển thành cholesteatoma, vì vậy hiện nay trong phân loại viêm tai đã xếp xẹp nhĩ vào nhóm viêm tai giữa mạn tính nguy hiểm [1]. Việc chẩn đoán và đưa ra phương pháp điều Địa chỉ liên hệ: Lê Công Định, bộ môn Tai Mũi Họng, trường Đại học Y Hà Nội, điện thoại: 0913 557 808, Email: lecongdinh67@yahoo.com Ngày nhận: 06/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013
File đính kèm:
- ket_qua_phau_thuat_tiet_can_xuong_chum_toi_thieu_duong_xuyen.pdf