Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối

Đặt vấn đề: Hội chứng thận hư (HCTH) nguyên phát kháng steroid ở trẻ em là một trong những nguyên

nhân thường gặp nhất tiến triển tới bệnh thận giai đoạn cuối (BTGĐC). Nhiều chiến lược điều trị được áp dụng

nhưng chưa có chọn lựa tối ưu để chữa khỏi bệnh.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm 142 trẻ có HCTH

nguyên phát kháng steroid được điều trị tại khoa Thận Nội tiết bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 8 năm 2005 đến

tháng 2 năm 2019. Các biểu hiện lâm sàng lúc khởi bệnh, chẩn đoán mô bệnh học thận, điều trị và diễn tiến bệnh

được hồi cứu. Kết cục được phân tích là tiến tới BTGĐC. Tỷ lệ khả năng sống không BTGĐC được tính theo

Kaplan-Meier, kiểm định log-rank để so sánh các đường cong sống còn và phân tích tỷ lệ nguy cơ Cox để xác

định các yếu tố khác nhau trên sống còn của thận.

Kết quả: Tuổi trung vị lúc khởi bệnh là 4,54 tuổi (từ 1,03 đến 14,14 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 1,73/1. Biểu hiện

ban đầu của HCTH gồm phù 100%, cao huyết áp 11,3%, tiểu máu 36,6% và giảm độ lọc cầu thận phỏng đoán <

60ml/phút/1,73m2 7,8%. Kháng steroid sớm chiếm 45,8%. Sinh thiết thận ghi nhận 72,5% là sang thương tối

thiểu và 27,5% là xơ hóa cầu thận khu trú từng phần. Trong 133 ca được điều trị cyclosporin, 69,2% lui bệnh

hoàn toàn, 22,6% lui bệnh một phần và 8,3% không lui bệnh sau 6 tháng điều trị. Trong 22 ca kháng cyclosporin,

tacrolimus lần lượt gây lui bệnh ban đầu hoàn toàn, một phần và không lui bệnh ở 18,2%, 40,9% và 40,9%. Điều

trị kết hợp tacrolimus, mycophenolate mofetil và prednisone có thể gây đáp ứng thuận lợi ban đầu ở 6/10 ca

kháng tacrolimus (40% lui bệnh hoàn toàn và 20% lui bệnh một phần). Ở lần tái khám sau cùng, thời gian theo

dõi trung vị 50,6 tháng (từ 12 đến 162,2 tháng), 7 bệnh nhân (4,9%) đạt đến BTGĐC. Tỷ lệ sống không suy

thận lần lượt là 96% lúc 5 năm, 89,1% lúc 10 năm. Phân tích đơn biến chứng minh cao huyết áp, tiểu máu,

kháng steroid sớm và kháng với các thuốc ức chế miễn dịch là các yếu tố nguy cơ của BTGĐC. Hồi quy tỷ lệ

nguy cơ Cox xác nhận những bệnh nhân kháng với các thuốc ức chế miễn dịch có khả năng phát triển BTGĐC

nhiều hơn 19,83 lần những bệnh nhân đáp ứng với các thuốc ức chế miễn dịch.

Kết luận: Kháng với các thuốc ức chế miễn dịch được chứng minh là yếu tố nguy cơ duy nhất của BTGĐC

ở trẻ bị HCTH nguyên phát kháng steroid.

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 1

Trang 1

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 2

Trang 2

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 3

Trang 3

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 4

Trang 4

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 5

Trang 5

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 6

Trang 6

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 7

Trang 7

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 16260
Bạn đang xem tài liệu "Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối

Hội chứng thận hư nguyên phát kháng steroid ở trẻ em: theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 27
HỘI CHỨNG THẬN HƯ NGUYÊN PHÁT KHÁNG STEROID Ở TRẺ EM: 
THEO DÕI LÂU DÀI VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ 
CỦA BỆNH THẬN GIAI ĐOẠN CUỐI 
Nguyễn Đức Quang*, Vũ Huy Trụ*, Thân Thị Thúy Hiền*, Lê Minh Cường*, Võ Thị Thanh Trang* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Hội chứng thận hư (HCTH) nguyên phát kháng steroid ở trẻ em là một trong những nguyên 
nhân thường gặp nhất tiến triển tới bệnh thận giai đoạn cuối (BTGĐC). Nhiều chiến lược điều trị được áp dụng 
nhưng chưa có chọn lựa tối ưu để chữa khỏi bệnh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm 142 trẻ có HCTH 
nguyên phát kháng steroid được điều trị tại khoa Thận Nội tiết bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 8 năm 2005 đến 
tháng 2 năm 2019. Các biểu hiện lâm sàng lúc khởi bệnh, chẩn đoán mô bệnh học thận, điều trị và diễn tiến bệnh 
được hồi cứu. Kết cục được phân tích là tiến tới BTGĐC. Tỷ lệ khả năng sống không BTGĐC được tính theo 
Kaplan-Meier, kiểm định log-rank để so sánh các đường cong sống còn và phân tích tỷ lệ nguy cơ Cox để xác 
định các yếu tố khác nhau trên sống còn của thận. 
Kết quả: Tuổi trung vị lúc khởi bệnh là 4,54 tuổi (từ 1,03 đến 14,14 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 1,73/1. Biểu hiện 
ban đầu của HCTH gồm phù 100%, cao huyết áp 11,3%, tiểu máu 36,6% và giảm độ lọc cầu thận phỏng đoán < 
60ml/phút/1,73m2 7,8%. Kháng steroid sớm chiếm 45,8%. Sinh thiết thận ghi nhận 72,5% là sang thương tối 
thiểu và 27,5% là xơ hóa cầu thận khu trú từng phần. Trong 133 ca được điều trị cyclosporin, 69,2% lui bệnh 
hoàn toàn, 22,6% lui bệnh một phần và 8,3% không lui bệnh sau 6 tháng điều trị. Trong 22 ca kháng cyclosporin, 
tacrolimus lần lượt gây lui bệnh ban đầu hoàn toàn, một phần và không lui bệnh ở 18,2%, 40,9% và 40,9%. Điều 
trị kết hợp tacrolimus, mycophenolate mofetil và prednisone có thể gây đáp ứng thuận lợi ban đầu ở 6/10 ca 
kháng tacrolimus (40% lui bệnh hoàn toàn và 20% lui bệnh một phần). Ở lần tái khám sau cùng, thời gian theo 
dõi trung vị 50,6 tháng (từ 12 đến 162,2 tháng), 7 bệnh nhân (4,9%) đạt đến BTGĐC. Tỷ lệ sống không suy 
thận lần lượt là 96% lúc 5 năm, 89,1% lúc 10 năm. Phân tích đơn biến chứng minh cao huyết áp, tiểu máu, 
kháng steroid sớm và kháng với các thuốc ức chế miễn dịch là các yếu tố nguy cơ của BTGĐC. Hồi quy tỷ lệ 
nguy cơ Cox xác nhận những bệnh nhân kháng với các thuốc ức chế miễn dịch có khả năng phát triển BTGĐC 
nhiều hơn 19,83 lần những bệnh nhân đáp ứng với các thuốc ức chế miễn dịch. 
Kết luận: Kháng với các thuốc ức chế miễn dịch được chứng minh là yếu tố nguy cơ duy nhất của BTGĐC 
ở trẻ bị HCTH nguyên phát kháng steroid. 
Từ khóa: hội chứng thận hư nguyên phát, kháng steroid, điều trị, kết cục thận, bệnh thận mạn giai đoạn 
cuối, trẻ em 
ABSTRACT 
CHILDHOOD STEROID-RESISTANT IDIOPATHIC NEPHROTIC SYNDROME: LONG-TERM 
FOLLOW-UP AND RISK FACTORS FOR END-STAGE RENAL DISEASE 
Nguyen Duc Quang, Vu Huy Tru, Than Thi Thuy Hien, Le Minh Cuong, Vo Thi Thanh Trang 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 27 - 34 
Objectives: Childhood steroid-resistant idiopathic nephrotic syndrome (SRINS) is one of the most common 
causes of progression to end-stage renal diseases (ESRD). Many therapeutic strategies have been tried but the 
*Bệnh viện Nhi Đồng 1 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Đức Quang ĐT: 0908106434 Email: drquang73@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 28
optimal option to cure the disease has not been available. 
Methods: This retrospective cohort study included 142 children with SRINS treated at Department of 
Nephrology and Endocrinology, Children Hospital 1 from August 2005 to February 2019. Their clinical 
presentations, renal histopathology diagnoses, treatment and disease courses were reviewed. The analyzed 
outcome was the progression to ESRD. Renal survival probability rates were calculated according to Kaplan-
Meier, log-rank test to compare survival curves and Cox proportional hazards analysis to determine various 
factors on renal survival. 
Results: Median age at onset was 4.54 years (ranged from 1.03 to 14.14) with male to female ratio was 
1.73/1. First presentations of nephrotic syndrome encompassed edema 100%, hypertension 11.3%, hematuria 
36.6% and eGFR < 60ml/min/1,73m2 7.8%. Early steroid-resistance was observed in 45.8%. Initial renal biopsy 
showed minimal change disease in 72.5% and focal segmental glomerulosclerosis in 27.5% of remaining cases. Of 
133 cases treated with cyclosporin, 69.2% achieved complete remission, 22.6% partial remission and 8.3% no 
remission after the initial six-month period. Tacrolimus induced initial complete remission, partial remission and 
no remission in 18.2%, 40.9% and 40.9% of 22 cases with cyclosporin-resistance, respectively. Therapeutic 
strategy combined  ... 50% bệnh nhân nghiên cứu 
tiến tới BTGĐC sau thời gian theo dõi khoảng 
160 tháng (Hình 1). 
0
.0
0
0
.2
5
0
.5
0
0
.7
5
1
.0
0
X
aù
c 
su
aát
 c
h
ö
a 
su
y 
th
aän
 m
a
ïn
0 50 100 150
Thôøi gian tieán ñeán beänh thaän maïn giai ñoaïn cuoái (Thaùng)
Hình 1. Đồ thị Kaplan-Meier biểu thị thời gian tiến 
tới bệnh thận mạn giai đoạn cuối 
Bảng 1. So sánh đặc điểm các bệnh nhân HCTH nguyên phát kháng steroid có và không có BTGĐC 
Biến số 
BTGĐC 
(Số ca: 7) 
Không BTGĐC 
(Số ca: 135) 
P 
Tuổi lúc khởi phát (năm) 
< 10 tuổi 
≥ 10 tuổi 
Giới nam 
Cao huyết áp 
Tiểu máu 
eGFR < 60 ml/phút/1,73m
2 
Kháng steroid sớm 
Sang thương thận: 
STTT 
XHCTKTTP 
Đáp ứng điều trị: 
Lui bệnh 
Không lui bệnh 
Thời gian theo dỏi (tháng) 
4.9 (2 - 7,9) 
7 (100%) 
0 (0%) 
3 (42,9%) 
2 (28,6%) 
5 (71,4%) 
1 (14,3%) 
5 (71,4%) 
4 (57,1%)* 
3 (42,9%) 
1 (14,3%) 
6 (85,7%) 
35,2 (28,4 - 97,6) 
4.5 (2,2 - 7,1) 
120 (88,9%) 
15 (11,1%) 
87 (64,4%) 
14 (10,4%) 
47 (34,8%) 
10 (7,4%) 
60 (44,4%) 
99 (73,3%) 
36 (26,7%) 
127 (94,1%) 
8 (5,9%) 
51 (23,3 - 79,2) 
0,97 
0,66 
0,07 
0,004 
0,03 
0,375 
0,02 
0,83 
<0,001 
0,68 
*Cả 4 trường hợp sinh thiết lúc đầu là STTT đều chuyển thành XHCTKTTP khi sinh thiết thận lặp lại ở nhóm tiến tới STGĐC 
Phân tích đơn biến ghi nhận các yếu tố nguy 
cơ liên quan tới tiến triển đến BTGĐC gồm cao 
huyết áp, tiểu máu lúc khởi phát, kháng steroid 
sớm và không lui bệnh với các thuốc ức chế 
miễn dịch. Mô hình hồi quy đa biến chứng minh 
chỉ có yếu tố đáp ứng điều trị với thuốc ức chế 
miễn dịch là yếu tố nguy cơ duy nhất của bệnh 
BTGĐC. Bệnh nhân không đáp ứng điều trị có 
nguy cơ BTGĐC gấp 19,83 lần so với bệnh nhân 
có đáp ứng điều trị, p=0,008 (Bảng 2). 
Bảng 2. Các yếu tố nguy cơ tới BTGĐC theo phân 
tích hồi quy Cox 
Biến số HR Giá trị P 95% khoảng tin cậy 
Cao huyết áp 
Tiểu máu 
Kháng steroid 
muộn 
Không lui bệnh 
5,19 
2,58 
0,21 
19,83 
0,14 
0,30 
0,18 
0,008 
0,59 - 45,49 
0,42 - 15,70 
0,02 - 2,02 
2,21 - 177,88 
BÀN LUẬN 
Điều trị HCTH nguyên phát kháng steroid ở 
trẻ em tiếp tục là thách thức với các bác sĩ thận 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 32
nhi. Nhiều phác đồ điều trị tích cực bằng các 
thuốc ức chế miễn dịch khác nhau như 
methylprednisolone, dexamethasone, cyclophosphamide, 
thuốc CNI, MMF, rituximab đã được báo cáo với 
các kết quả khác nhau, nhưng chưa có phác đồ 
nào hoàn toàn đạt được khỏi bệnh và chặn đứng 
diễn tiến tới BTGĐC. 
Phân tích hệ thống y văn đã xuất bản, tổ 
chức KDIGO đã đưa ra các khuyến cáo thực 
hành lâm sàng dựa trên chứng cứ, trong đó 
thuốc CNI là chọn lựa hàng đầu để điều trị các 
bệnh nhân này(6). Nghiên cứu quan sát của 
Niaudet trên 65 trẻ HCTH kháng steroid được 
điều trị bằng cyclosporine uống 150 – 200 
mg/m2/ngày kết hợp với prednisone 30 
mg/m2/ngày trong 1 tháng và cách ngày trong 
5 tháng: 42 % lui bệnh hoàn toàn và 6% lui 
bệnh một phần, 52% không lui bệnh với điều 
trị kết hợp. Ở lần thăm khám sau cùng (trung 
bình 38 tháng), BTGĐC xảy ra ở 20% trường 
hợp (13 bệnh nhân: 1 lui bệnh một phần và 12 
không lui bệnh)(8). Trong 3 thử nghiệm ngẫu 
nhiên có nhóm chứng (gồm 49 trẻ), KDIGO 
báo cáo tỷ lệ lui bệnh tổng cộng trong 6 tháng 
đầu với điều trị cyclosporin là 69% (31% lui 
bệnh hoàn toàn và 38% lui bệnh một phần) cao 
hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng là 0 - 16%(6). 
Cyclosporin (150 mg/m2/ngày, uống) cũng 
được chứng minh có hiệu quả hơn 
cyclophosphamide (500 mg/m2/tháng, TTM): 
sau 24 tuần, lui bệnh hoàn toàn và một phần ở 
2/15 (13%) và 7/15 (46%) bệnh nhân trong 
nhóm cyclosporine so với 1/17 (5%) và 2/17 
(11%) bệnh nhân trong nhóm 
cyclophosphamide, (p <0,05)(11). Chúng tôi ghi 
nhận sau 6 tháng điều trị cyclosporin, tỷ lệ lui 
bệnh hoàn toàn, lui bệnh một phần và không 
lui bệnh lần lượt là 69,2%, 22,6% và 8,3%. Tỷ lệ 
lui bệnh tổng cộng với điều trị cyclosporin 
trong nghiên cứu của chúng tôi có cao hơn, có 
lẽ do chúng tôi đã cố gắng loại trừ trong tiêu 
chí chọn bệnh các trường hợp HCTH nguyên 
phát có nhiều khả năng do đột biến gien mà 
thường không đáp ứng với điều trị 
cyclosporin(3). Tương tự, tỷ lệ đáp ứng sau 6 
tháng điều trị tacrolimus trong nghiên cứu của 
chúng tôi cũng cao với lui bệnh hoàn toàn, lui 
bệnh một phần và không lui bệnh lần lượt là 
66,7%, 33,3% và 0%. Chúng tôi không ghi nhận 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong tỷ lệ 
đáp ứng ban đầu giữa cyclosporin và 
tacrolimus (p=0,73). Tương tự, hiệu quả gây lui 
bệnh của tacrolimus và cyclosporin lúc 6 tháng 
và 12 tháng là không có khác biệt trong một 
nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng, không 
mù trên 41 trẻ HCTH kháng steroid. Tuy 
nhiên, tỷ lệ tái phát cao hơn có ý nghĩa ở 
những bệnh nhân được điều trị cyclosporin so 
với tacrolimus, p=0,01(4). Ngược lại, Wang W 
lại báo cáo tacrolimus có hiệu quả hơn 
cyclosporin trong điều trị các trẻ bị HCTH 
kháng steroid (p=0,001), mặc dù không có sự 
khác biệt có ý nghĩa trong số lượng các đợt tái 
phát giữa 2 nhóm điều trị (năm thứ nhất: 
p=0,88; năm thứ hai: p=0,26)(15). Kết quả tương 
tự cũng được Shah SSH báo cáo khi tiến hành 
nghiên cứu bán thực nghiệm trên 84 bệnh nhi 
HCTH kháng steroid: lui bệnh hoàn toàn và 
một phần trong nhóm tacrolimus là 41 (97,6%) 
và 1 (2,4%) so với nhóm cyclosporine là 34 
(80,95%) và 8 (19,05%) với p=0,014(12). Mặc dù 
cả tacrolimus và cyclosporin kéo dài sự sống 
của ghép tạng đặc cùng loài, tacrolimus dường 
như có tác động ức chế miễn dịch vượt trội và 
cũng là một thuốc tiềm năng ức chế cytokines 
vượt trội hơn(2). Trong 22 ca HCTH kháng 
cyclosporin của chúng tôi, điều trị tacrolimus 
gây lui bệnh hoàn toàn 18,2% và lui bệnh một 
phần 40,9%. Tái phát HCTH là một vấn đề 
thường gặp, chiếm 70% các trường hợp đáp 
ứng điều trị với CNI khi giảm liều hoặc ngưng 
thuốc. Thời gian điều trị tối ưu vẫn chưa biết 
nhưng trong thực hành thông thường, các tác 
giả thường kéo dài thời gian điều trị CNI hơn 
12 tháng để ngăn ngừa tái phát dù hiệu quả 
lâu dài trên nguy cơ tái phát, độc thận và chức 
năng thận vẫn chưa rõ(6). Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, 75,4% trường hợp tái phát sau 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 33
lui bệnh ban đầu với cyclosporin trong khoảng 
thời gian điều trị trung vị 25,2 (khoảng tứ vị 
15,6 - 55,6) tháng và 55,6% trường hợp tái phát 
sau lui bệnh ban đầu với tacrolimus trong 
khoảng thời gian điều trị trung vị là 17 
(khoảng tứ vị 14,8 - 56,2) tháng. Do đó, điều trị 
HCTH kháng steroid cần kéo dài nhằm duy trì 
lui bệnh lâu dài và quản lý tái phát sau điều trị 
dẫn nhập. Tác dụng phụ quan trọng nhất của 
điều trị CNI kéo dài là độc tính trên thận 
không hồi phục được chúng tôi ghi nhận ở 4 ca 
(3,3%) điều trị cyclosporin và 3 ca (8,6%) điều 
trị tacrolimus. Trong nghiên cứu của 
Choudhry, độc thận kéo dài do cyclosporin là 
10% và do tacrolimus là 4,7%(4). 
Chọn lựa điều trị cho các trường hợp HCTH 
kháng steroid không đáp ứng với điều trị CNI 
vẫn chưa có hướng dẫn có chứng cớ đủ mạnh. 
Theo KDIGO, MMF, corticosteroid liều cao hoặc 
kết hợp các thuốc này có thể xem xét để điều trị 
dân số này(6). Một thử nghiệm ngẫu nhiên có 
nhóm chứng gồm 138 bệnh nhân (93 trẻ em) có 
HCTH nguyên phát kháng steroid và 
XHCTKTTP: lui bệnh hoàn toàn hoặc một phần 
trong 46% trường hợp điều trị cyclosporine so 
với 33% trường hợp điều trị MMF và 
dexamethasone liều cao. Tuy nhiên, sự khác biệt 
là không có ý nghĩa, có lẽ do cỡ mẫu nghiên cứu 
nhỏ đã cản trở việc phát hiện sự khác biệt của 
một hiệu quả điều trị trung bình(5). Hiệu quả của 
MMF cũng được chứng minh là kém hơn 
tacrolimus trong duy trì lui bệnh trẻ HCTH 
kháng steroid trong một nghiên cứu ngẫu nhiên 
có nhóm chứng, nhãn mở. Bệnh nhân lui bệnh 
hoàn toàn hoặc một phần sau 6 tháng điều trị 
bằng tacrolimus được phân ngẫu nhiên thành 2 
nhóm: 44,8% nhóm điều trị MMF so với 90,3% 
nhóm điều trị tacrolimus có kết cục thuận lợi (lui 
bệnh kéo dài, tái phát không thường xuyên) lúc 
12 tháng, có ý nghĩa thống kê(13). Một nghiên cứu 
quan sát kết hợp cyclosporin 5mg/kg/ngày, 
MMF 30 mg/kg/ngày và prednisone giảm liều 
cho 23 trẻ HCTH kháng steroid và cyclosporin 
đã được báo cáo. Tỷ lệ lui bệnh hoàn toàn và 
một phần sau 6 tháng điều trị lần lượt là 47,82% 
và 8,7%. Lui bệnh do MMF kết hợp với 
cyclosporin trong một số lượng đáng kể HCTH 
kháng steroid và cyclosporin và lui bệnh được 
duy trì với cyclosporin liều thấp(10). Trong 10 ca 
HCTH kháng cyclosporine và tacrolimus của 
chúng tôi, điều trị kết hợp tacrolimus với MMF 
và prednisone có tỷ lệ lui bệnh ban đầu sau 6 
tháng là 60% (lui bệnh hoàn toàn 40% và lui 
bệnh một phần 20%). Chúng tôi chỉ sử dụng 
MMF kết hợp prednisone cho các trường hợp có 
dấu hiệu ngộ độc mạn với CNI hoặc các trường 
hợp lệ thuộc CNI để duy trì lui bệnh mà không 
dựa vào CNI. 
Tỷ lệ sống không BTGĐC của HCTH 
kháng steroid sau 5 năm, 10 năm và 15 năm 
trong một số nghiên cứu đoàn hệ là khác nhau 
tùy vào dân số nghiên cứu: 78%, 58% và 53% 
trong 78 trẻ châu Âu(7); 71,5%, 58,45 và 55,3% 
trong 136 trẻ em Brazil(17); 74%, 58% và 48% 
trong 1354 trẻ từ một trang web quốc tế về 
HCTH nguyên phát kháng steroid(14). Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống không 
BTGĐC lúc 5 năm là 96% và 10 năm là 89,1%. 
50% bệnh nhân nghiên cứu tiến tới BTGĐC 
sau thời gian theo dõi khoảng 160 tháng. Mặc 
dù phân tích đơn biến ghi nhận các yếu tố 
nguy cơ liên quan tiến triển đến BTGĐC gồm 
cao huyết áp, tiểu máu lúc khởi phát, kháng 
steroid sớm và không lui bệnh với các thuốc 
ức chế miễn dịch, chỉ có yếu tố đáp ứng điều 
trị với thuốc ức chế miễn dịch là yếu tố nguy 
cơ duy nhất của BTGĐC trong mô hình hồi 
quy đa biến Cox. Đáp ứng với thuốc ức chế 
miễn dịch là yếu tố tiên đoán mạnh nhất cho 
kết cục thận thuận lợi(14,17). Nguy cơ STGĐC 
tăng 150% ở những bệnh nhân có chẩn đoán 
do gien và giảm gần 87% ở những bệnh nhân 
lui bệnh hoàn toàn và gần 50% ở những người 
lui bệnh một phần do đáp ứng điều trị ức chế 
miễn dịch tích cực trong năm đầu(14). Zagury A 
cũng nhận thấy những bệnh nhân kháng 
cyclosporin có khuynh hướng phát triển 
BTGĐC gấp 4,3 lần những bệnh nhân đáp ứng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 34
cyclosporin(17). Dù đạt được lui bệnh ngắn hạn 
với điều trị CNI, một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân 
vẫn có thể tiến triển đến BTGĐC, liên quan với 
các đợt tái phát của tổn thương thận cấp(1). 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi góp phần hiểu 
biết thêm về điều trị HCTH nguyên phát kháng 
steroid ở trẻ em Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan 
trọng của đáp ứng với điều trị ức chế miễn dịch 
để làm chậm tiến triển đến BTGĐC. Dù có một 
số hạn chế như thiết kế hồi cứu, đơn trung tâm, 
chưa thực hiện phân tích đột biến gien gây bệnh 
liên quan tới HCTH, nghiên cứu này có thể là 
tiền đề cho các nghiên cứu tiền cứu tiếp theo, so 
sánh các thuốc ức chế miễn dịch khác nhau 
trong điều trị HCTH nguyên phát kháng steroid, 
nhằm đạt được hiệu quả điều trị tối ưu và giảm 
được nguy cơ tiến triển đến BTGĐC. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Beins NT, Dell KM (2015). “Long-term outcomes in children 
with steroid-resistant nephrotic syndrome treated with 
calcineurines inhibitors”. Front Pediatr, 3:104 – 109. 
2. Bhimma R, Adhikari M, Asharam K, Connolly C (2006). 
“Management of steroid-resistant focal segmental 
glomerulosclerosis in children using tacrolimus”. Am J Nephrol, 
26(6):544–551. 
3. Buscher AK, Kranz B, Buscher R, et al (2010). 
“Immunosuppression and renal outcome in congenital and 
pediatric steroid resistant nephrotic syndrome”. Clin J Am Soc 
Nephrol, 5:2075– 2084. 
4. Choudhry S, Bagga A, Hari P, et al (2009). “Efficacy and safety 
of tacrolimus versus cyclosporine in children with steroid-
resistant nephrotic syndrome: a randomized controlled trial”. 
Am J Kidney Dis, 53(5):760–769. 
5. Gipson DS, Trachtman H, Kaskel FJ, et al (2011). “Clinical trial 
of focal segmental glomerulosclerosis in children and young 
adults”. Kidney Int, 80(8):868–878. 
6. Lombel RM, Hodson EM, Gipson DS (2013). “Treatment of 
steroid resistant nephrotic syndrome in children: new 
guidelines from KDIGO”. Pediatr Nephrol, 28(3):409–414. 
7. Mekahli D, Liutkus A, Ranchin B, et al (2009). “Long-term 
outcome of idiopathic steroid-resistant nephrotic syndrome: A 
multicenter study”. Pediatr Nephrol, 24:1525–1532. 
8. Niaudet P (1994). “Treatment of childhood steroid-resistant 
idiopathic nephrosis with a combination of cyclosporine and 
prednisone. French Society of Pediatric Nephrology”. J Pediatr, 
125(6 Pt 1):981–986. 
9. Niaudet P, Boyer O (2016). “Idiopathic nephrotic syndrome in 
children: clinical aspects”, in: Ellis D. Avner, William E. 
Harmonm, Patric Niaudet. Pediatric Nephrology, pp.839–882. 
Verlag Berlin Heidelberg, Berlin. 
10. Nikibakhsh AA, Mahmoodzadeh H, Karamyyar M, et al (2011). 
“Treatment of steroid and cyclosporine-resistant idiopathic 
nephrotic syndrome in children”. International Journal of 
Nephrology, doi: 10.4061/2011/930965. 
11. Plank C, Kalb V, Hinkes B, et al (2008). “Cyclosporine A is 
superior to cyclophosphamide in children with steroid-resistant 
nephrotic syndrome – a randomized controlled multicentre trial 
by the Arbeitsgemeinschaft fur Padiatrische Nephrologie”. 
Pediatr Nephrol, 23(9):1483 – 1493. 
12. Shah SSH, Hafeez F (2016). “Comparision of efficacy of 
tacrolimus versus cyclosporine in childhood steroid-resistant 
nephrotic syndrome”. Journal of the College of Physicians and 
Surgeons Pakistan, 26(7):589 – 593. 
13. Sinha A, Gupta A, Kalaivani M, et al (2017). “Mycophenolate 
mofetil is inferior to tacrolimus in sustaining remission in 
children with idiopathic steroid –resistant nephrotic syndrome”. 
Kidney International, pp.248-257. 
14. Trautmann A, Schnaidt S, Lipska-Zietkiewicz BS, et al (2017). 
“Long-term outcome of Steroid-resistant nephrotic syndrome in 
children”. J Am Soc Nephrol, 28:3055–3065. 
15. Wang W, Xia Y, Mao J, et al (2012). “Treatment of tacrolimus or 
cyclosporine A in children with idiopathic nephrotic 
syndrome”. Pediatr Nephrol, 27(11):2073–2079. 
16. Yap HK, Resontoc LPR, Ng KH (2015). “Chronic kidney disease 
staging”, in: Yap HK, Liu ID, Ng KH. Pediatric Nephrology, 
pp.311–313. Children's Kidney Centre, Singapore 
17. Zagury A, Oliveira AL, Montalvao JA, et al (2013). “Steroid-
resistant idiopathic nephrotic syndrome in children: Long-term 
follow-up and risk factors for end-stage renal disease”. J Bras 
Neurol, 35(3):191–199. 
Ngày nhận bài báo: 20/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019 
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019 

File đính kèm:

  • pdfhoi_chung_than_hu_nguyen_phat_khang_steroid_o_tre_em_theo_do.pdf