“Giờ vàng” các biện pháp can thiệp nhằm giảm tử vong chu sinh
“Giờ vàng” của trẻ sơ sinh là giờ đầu tiên sau sanh. Các biện pháp can thiệp trong “giờ vàng” gồm tất
cả thực hành dựa trên chứng cớ cho trẻ non tháng và đủ tháng, được thực hiện trong trong 60 phút đầu
tiên ngay sau sanh cho dự hậu lâu dài tốt hơn. Các biện pháp gồm hồi sức sơ sinh, chăm sóc sau hồi sức,
chuyển sơ sinh bệnh lý và trẻ sanh rất non đến đơn vị chăm sóc tăng cường sơ sinh, hỗ trợ hô hấp và tuần
hoàn và các chăm sóc ban đầu tại khu dưỡng nhi. Các nghiên cứu lượng giá các biện pháp chăm sóc trong
giờ vàng ở trẻ non tháng cho thấy giảm rõ hạ thân nhiệt, hạ đường huyết, xuất huyết trong não thất, loạn
sản phế quản phổi, và bệnh lý võng mạc. Mặc dù vẫn chưa đủ bằng chứng có lợi của giờ vàng áp dụng cho
trẻ đủ tháng, nhưng các nhà sơ sinh trên thế giới đồng thuận về tầm quan trọng của giờ vàng cho cả trẻ
non tháng và đủ tháng. Trong bài tổng quan nầy chúng tôi sẽ giới thiệu về các biện pháp can thiệp áp dụng
trong “Giờ vàng” trong chăm sóc trẻ non tháng và trẻ đủ tháng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: “Giờ vàng” các biện pháp can thiệp nhằm giảm tử vong chu sinh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Tổng Quan Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 1 “GIỜ VÀNG” CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP NHẰM GIẢM TỬ VONG CHU SINH Phạm Thị Thanh Tâm* TÓM TẮT “Giờ vàng” của trẻ sơ sinh là giờ đầu tiên sau sanh. Các biện pháp can thiệp trong “giờ vàng” gồm tất cả thực hành dựa trên chứng cớ cho trẻ non tháng và đủ tháng, được thực hiện trong trong 60 phút đầu tiên ngay sau sanh cho dự hậu lâu dài tốt hơn. Các biện pháp gồm hồi sức sơ sinh, chăm sóc sau hồi sức, chuyển sơ sinh bệnh lý và trẻ sanh rất non đến đơn vị chăm sóc tăng cường sơ sinh, hỗ trợ hô hấp và tuần hoàn và các chăm sóc ban đầu tại khu dưỡng nhi. Các nghiên cứu lượng giá các biện pháp chăm sóc trong giờ vàng ở trẻ non tháng cho thấy giảm rõ hạ thân nhiệt, hạ đường huyết, xuất huyết trong não thất, loạn sản phế quản phổi, và bệnh lý võng mạc. Mặc dù vẫn chưa đủ bằng chứng có lợi của giờ vàng áp dụng cho trẻ đủ tháng, nhưng các nhà sơ sinh trên thế giới đồng thuận về tầm quan trọng của giờ vàng cho cả trẻ non tháng và đủ tháng. Trong bài tổng quan nầy chúng tôi sẽ giới thiệu về các biện pháp can thiệp áp dụng trong “Giờ vàng” trong chăm sóc trẻ non tháng và trẻ đủ tháng. Từ khóa: giờ vàng, chăm sóc sơ sinh, non tháng, đủ tháng ABSTRACT “GOLDEN HOUR” MANAGEMENT FOR REDUCING PERINATAL MORTALITY RATE Pham Thi Thanh Tam * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 01 – 09 “Golden hour” of neonate is defined as the first hour after birth. The “Golden hour” concept includes practicing all the evidence based intervention for term and preterm neonates, in the initial sixty minutes of postnatal life for better long-term outcome. There are neonatal resuscitation, post-resuscitation care, transportation of sick newborn to NICU, respiratory and cardiovascular support and initial course in nursery. The studies that evaluates the concept of golden hour in preterm neonates showed marked reduction in hypothermia, hypoglycemia, intraventricular hemorrhage (IVH), bronchopulmonary dysplasia (BPD), and retinopathy of prematurity (ROP). Although still there is no evidence seeking the benefit of golden hour approach in term neonates, the neonatologists around the globe agreed with the importance of golden hour concept equally in both preterm and term neonates. In this review article, we discuss various components of neonate care in “golden hour” of preterm and term neonatal care. Key words: golden hour, neonatal care, preterm, term ĐẠI CƯƠNG “GIỜ VÀNG” TRONG HỒI SỨC SAU SANH CHO TRẺ SƠ SINH Khái niệm “Giờ vàng – Golden hour” – Thuật ngữ rất quen thuộc trong chấn thương người lớn – gần đây được phổ biến trong ngành sơ sinh, nhấn mạnh tầm quan trọng trong chăm sóc sơ sinh trong 60 phút đầu sau sanh, được tác giả Reynolds và cộng sự lần đầu tiên áp dụng(13). Xử trí sơ sinh trong giờ đầu của cuộc sống có tầm quan trọng ngay lập tức và cả tiên lượng lâu dài cho mọi trẻ, nhất là các trẻ có tuổi thai cực thấp (extremly low gestatinal age neonates- ELGAN)(14). *Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tác giả liên lạc: ThS.BSCK2. Phạm Thị Thanh Tâm ĐT: 0918205626 Email: tamptt@nhidong.org.vn Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4* 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 2 “Giờ vàng” của trẻ sơ sinh là giờ đầu tiên sau sanh. Các biện pháp can thiệp trong “giờ vàng” gồm tất cả thực hành dựa trên chứng cớ cho trẻ non tháng và đủ tháng, được thực hiện trong trong 60 phút đầu tiên ngay sau sanh cho dự hậu lâu dài tốt hơn. Các biện pháp gồm hồi sức sơ sinh, chăm sóc sau hồi sức, chuyển sơ sinh bệnh lý và trẻ sanh rất non đến đơn vị chăm sóc tăng cường sơ sinh, hỗ trợ hô hấp và tuần hoàn và các chăm sóc ban đầu tại khu dưỡng nhi. Các nghiên cứu lượng giá các biện pháp chăm sóc trong giờ vàng ở trẻ non tháng cho thấy giảm rõ hạ thân nhiệt, hạ đường huyết, xuất huyết trong não thất, loạn sản phế quản phổi, và bệnh lý võng mạc. Mặc dù vẫn chưa đủ bằng chứng có lợi của giờ vàng áp dụng cho trẻ đủ tháng nhưng các nhà sơ sinh trên thế giới đồng thuận về tầm quan trọng của giờ vàng cho cả trẻ non tháng và đủ tháng. Trong bài tổng quan nầy chúng tôi giới thiệu về các biện pháp can thiêp áp dụng trong “Giờ vàng” trong chăm sóc trẻ non tháng và trẻ đủ tháng(14) (Bảng 1). Bảng 1. Các nội dung chăm sóc khác nhau theo từng trường hợp cho trẻ đủ tháng và trẻ non tháng trong giờ vàng 1 Tham vấn trước sanh & chuẩn bị ekip 2 Kẹp rốn trễ 3 Phòng hạ thân nhiệt / Ổn định thân nhiệt 4 Hỗ trợ hô hấp 5 Hỗ trợ tuần hoàn 6 Chăm sóc dinh dưỡng sớm 7 Phòng ngừa hạ đường huyết 8 Dinh dưỡng sữa mẹ sớm 9 Phòng ngừa nhiễm trùng 10 Chuyển viện 11 Tiến hành hạ thân nhiệt điều trị cho sanh ngạt 12 Khảo sát cận lâm sàng 13 Theo dõi / ghi chú 14 Tư vấn với gia đình Trẻ càng non tháng thì tỉ lệ sống sót càng thấp và tỉ lệ biến chứng di chứng càng cao. Ở các nước có thu n ... hí mặt nạ và đặt nội khí quản quá khó khăn, có thể dùng mặt nạ thanh quản để cứu sống trẻ. Hẹp mũi sau có thể gây suy hô hấp ngay sau sanh. Cần giữ miệng trẻ mở bằng núm vú cao su bú sữa hoặc núm vú giả cắt đầu (núm vú McGovern), ống thông miệng hầu. Trẻ bị nghẽn tắt đường thở trên bẩm sinh, dùng mặt nạ thanh quản hay mở khí quản. Nếu trẻ đã được chẩn đoán tiền sản, cần đội ngũ có thể xử trí cấp cứu đường thở tại phòng sanh. Trẻ có suy hô hấp sau sanh cần chuyển đến NICU để tìm nguyên nhân và điều trị. HỖ TRỢ TUẦN HOÀN Mục đích: thời gian đổ đầy mao mạch, nhịp tim, huyết áp bình thường ở trẻ đủ tháng và non tháng. Chỉ số đầu tiên để chỉ hiệu quả của hồi sức là cải thiện nhịp tim. Nghe và đếm nhịp tim bên trái lồng ngực trong 6 giây x 10 là phương pháp khám chính xác nhất để đánh giá nhịp tim trong các bước hồi sức ban đầu(2,6,14). Nếu trẻ cần thông khí áp lực dương, đo ECG 3 chuyển đạo sẽ cho giá trị nhịp tim tin cậy hơn là theo dõi nhịp tim qua máy pulse oxymeter. Trong hướng dẫn hồi sức sơ sinh 2015, dùng ECG 3 chuyển đạo được khuyến cáo để theo dõi nhịp tim nhanh và chính xác khi cần hồi sức tuần hoàn, thông khí áp lực dương, ấn ngực, dùng Adrenaline tại phòng sanh. Thiết lập đường truyền từ tĩnh mạch rốn (catheter luồn sauu 2-4 cm cho đến khi có máu chảy ra). Thuốc Adrenaline hàm lượng 1:10.000 cho qua tĩnh mạch rốn, qua ống nội khí quản, tĩnh mạch khác, trong tủy xương. Liều lượng theo hướng dẫn hồi sức SS 2015. Trẻ có sốc giảm thể tích do mất máu cấp (XH mẹ-thai nhi cấp; nhau tiền đạo, XH âm đạo ồ ạt, chấn thương thai nhi, vỡ cuống rốn, sa dây rốn, chèn ép cuống rốn nặng) cần được bồi hoàn thể tích khẩn cấp. Truyền hồng cầu lắng để bồi hoàn thể tích nếu trẻ bị thiếu máu nặng. Nếu phản ứng chéo không thực hiện được thì truyền hồng cầu lắng nhóm O, Rh âm. Thể tích bồi hoàn liều đầu là 10 ml/kg trong 5-10 phút. Lập lại nếu không cải thiện sau liều đầu. Nguyên nhân của sốc ở trẻ non tháng và đủ tháng: non tháng (thứ phát do trương lực mạch kém, cơ tim chưa trưởng thành), ngạt, nhiễm trùng khởi phát sớm, hội chứng rò rỉ khí, rối loạn chức năng cơ tim, giảm thể tích, gây mê ở mẹ, rối loạn nhịp tim thai, mất máu thai (hội chứng XH trước sanh, XH mẹ-thai, hội chứng truyền máu song thai. Cao áp phổi tồn tại (PPHN) cũng đôi khi găp ở trẻ bệnh trong giờ vàng, do tăng kháng lực mạch máu phổi hoặc chênh áp giữa mạch máu phổi/mạch máu hệ thống, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trẻ cần được hỗ trợ tuần hoàn phải được chuyến đến NICU càng nhanh càng tốt, để xử trí cấp cứu tuần hoàn và tìm trị nguyên nhân. HỖ TRỢ DINH DƯỠNG SỚM - PHÒNG NGỪA HẠ ĐƯỜNG HUYẾT Khi cuống rốn đã được cắt, cần hỗ trợ dinh dưỡng ngay cho trẻ. Các trẻ đủ tháng mà không có chống chỉ định của dinh dưỡng qua tiêu hóa, cần được bú mẹ trong vòng nữa giờ sau sanh, tiếp xúc da kề da(1,5,21). Ở trẻ rất nhẹ cân, cực nhẹ cân, cực non, và trẻ đủ tháng mà không thể ăn qua tiêu hóa ngay, cần được hỗ trợ dinh dưỡng. Mục tiêu của hỗ trợ dinh dưỡng là cung cấp năng lượng, protein, lipid và dịch mất thích hợp. Các trẻ có bệnh lý ngoại khoa như hở thành bụng bẩm sinh, thoát vị cuống rốn vỡ cần được ổn định ngay từ phòng sanh để giảm mất nước qua khoang thứ ba và bảo vệ ruột tránh tổn thương thanh mạc. Ở các trẻ sơ sinh mà có nguy cơ cao hạ đường huyết (trẻ non tháng, chậm phát triển trong tử cung, trẻ lớn cân, trẻ bệnh, mẹ bị tiểu đường, ngạt) cần được theo dõi đường huyết Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4* 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 6 trong giờ vàng. Và các trẻ có triệu chứng hoặc có ngưỡng đường huyết thấp cần được chuyển đến NICU. PHÒNG NGỪA NHIỄM KHUẨN Nhiễm khuẩn sơ sinh và non tháng là 2 nguyên nhân gây tử vong và di chứng thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh. Biểu hiện lâm sàng nhiễm khuẩn huyết sơ sinh thay đổi và các trẻ nghi ngờ cần được chẩn đoán sớm nhiễm trùng huyết(14,19). Các biện pháp phòng ngừa: rửa tay và các khuyến cáo vô khuẩn phải được thực hiện ngay từ sau sanh. Các dụng cụ hồi sức, dây máy thở CPAP, nước bình làm ẩm cần được vô khuẩn. Các thủ thuật xâm lấn: đặt catheter tĩnh mạch (TM) rốn, tĩnh mạch ngoại biên, bơm surfactant, dịch dinh dưỡng tĩnh mạch và tiêm truyền thuốc kháng sinh phải được thực hiện vô khuẩn theo các khuyến cáo về kiểm soát nhiễm khuẩn hiện hành. Nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm, liều kháng sinh đầu tiên phải được cho trong giờ vàng sau khi cấy máu bằng biện pháp vô khuẩn. Ở các nước đang phát triển, tác nhân thường gặp nhất là Klebsiella spp, Enterobacter spp, E.coli và Coagulase Negative Staphylococi, trong khi ở các nước đã phát triển, tác nhân thường gặp nhất là GBS (đủ tháng) và E.coli (non tháng). Kháng sinh điều trị cần hướng đến tác nhân thường dùng nhất là Ampicillin cho GBS và Aminoglycoside cho tác nhân Gram âm. Chiến lược điều trị kháng sinh theo khuyến cáo từng vùng. Thử CPR trong giờ vàng không giúp chẩn đoán nhiễm khuẩn vì CRP tăng sau 10-12 giờ sau khởi phát nhiễm khuẩn. Quản lý sử dụng kháng sinh chặt chẽ để không bị lạm phát hoặc dùng kéo dài tránh đề kháng kháng sinh. Các trẻ sanh ra bất kỳ tuổi thai và cân nặng có mẹ có nhiễm viêm gan siêu vi (VGSV) B, cần được tiêm HB immuoglobulin và 1 liều đơn vaccin HB trong vòng 12 giờ sau sanh nếu không có chống chỉ định. Các trường hợp (TH) trẻ có mẹ bị giang mai, nhiễm HSV, Toxoplasmosis và HIV theo các khuyến cáo chi tiết. HẠ THÂN NHIỆT ĐIỀU TRỊ CHO SANH NGẠT Bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ (HIE) là bệnh cảnh não do ngạt chu sinh với tần suất HIE trung bình-nặng là 1-3/1.000 trẻ sinh sống ở các nước phát triển và đến 20/1.000 trẻ sinh sống ở các nước đang phát triển. Sự khác biệt trong tần suất sanh ngạt là do sự khác biệt ở cấp độ chăm sóc tiền sản mà bà mẹ nhận được, có những nơi còn sanh ngoài bệnh viện mà không đủ các biện pháp chăm sóc và xử trí(17). Trẻ đủ tháng và gần đủ tháng có ngạt trung bình hoặc nặng cần phải được hạ thân nhiệt điều trị nếu có đầy đủ các tiêu chuẩn sau: - CN ≥ 2.000 g, tuổi thai ≥ 36 tuần. - Bằng chứng ngạt chu sinh: Bệnh sử có biến cố chu sinh cấp (nhau bong non, sa dây rốn, nhịp tim thai bất thường nặng); pH ≤7,0 hoặc BE lớn hơn 16 mmol/L (khí máu cuống rốn, khí máu sau sanh trong vòng 1 giờ); Apgar ở phút thứ 10 ≤ 5 điểm; Thông khí hỗ trợ từ lúc sanh và liên tục ít nhất 10 phút. - Bằng chứng HIE trung bình đến nặng bằng khám lâm sàng (theo Sarnat Staging): Lâm sàng: li bì, lơ mơ, hôn mê, co giật. (Lưu ý bị nhiễu bởi các thuốc an thần và dãn cơ); và/hoặc trên aEEG: trong vòng 20 phút: biên độ bờ trên <10 V; bờ trên >10V và bờ dưới <5V; co giật. Hạ thân nhiệt điều trị ở mức 33,50C (33-340C) phải được thực hiện càng sớm càng tốt và trong vòng 6 giờ sau sanh cho các trẻ có chỉ định, điều trị trong 72 giờ và thêm 6-8 giờ để làm ấm lại từ từ sau điều trị. Biện pháp điều trị đã được phân tích gộp của Cochrane chứng minh hiệu quả làm giảm tử vong và di chứng. Các biến chứng của điều trị hạ thân nhiệt cũng thường gặp ở trẻ sơ sinh như: chậm nhịp tim, giảm tiểu cầu, hoại tử mô mỡ dưới da, hạ huyết áp, tăng tiêu sợi huyết, kéo dài thời gian PT và aPTT. Cho nên bác sĩ (BS) sơ sinh phải xác định ca bệnh có đúng tiêu chuẩn điều trị và cần thực hiện nhanh nhất có thể trong giờ vàng ở NICU. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Tổng Quan Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 7 KHẢO SÁT CẬN LÂM SÀNG Tùy thuộc vào từng trẻ, can thiệp tối thiểu cho BN(14). Các XN cần làm Tổng phân tích tế bào máu, cấy máu, đường huyết, khí máu (động mạch/ mao mạch), X quang ngực (giúp chẩn đoán nguyên nhân gây suy hô hấp). Trong TH ngạt Khí máu và lactate máu giúp chẩn đoán và xử trí, Lactate máu cũng giúp theo dõi điều trị thiếu oxy mô. Trong TH phù nhau thai Bilirubin, Coombs test trực tiếp, hồng cầu lưới, Hct để hướng dẫn thay máu hoặc chiếu đèn. THEO DÕI/GHI CHÚ Là phần quan trọng nhất trong giờ vàng. Các chỉ số theo dõi: nhịp tim, nhịp thở, độ bảo hòa oxy, huyết áp xâm lấn hoặc không xâm lấn, thời gian đổ đầy mao mạch cần được theo dõi định kỳ và ghi chú cẩn thận(14). Các phương tiện theo dõi các chức năng sống, chức năng não, độ bão hòa oxy máu não đắc tiền cũng giúp theo dõi, can thiệp khi cần và can thiệp kịp thời. Các phiếu theo dõi và bảng kiểm các thủ thuật, kỹ thuật, y lệnh thuốc đã thực hiện, cần được ghi chú cẩn thận theo từng mốc thời gian là cơ sở hồi cứu và cho các can thiệp tiếp theo. THÔNG BÁO – TƯ VẤN VỚI GIA ĐÌNH BÉ Là khía cạnh quan trọng trong giờ vàng cung cấp các thông tin cập nhật đến cha mẹ của bé và người liên quan về tình trạng sau sanh của bé(12,14,15). Các trẻ đủ tháng khỏe mạnh nằm với mẹ: gia đình cần được hướng dẫn bảo vệ thân nhiệt trẻ, duy trì bú mẹ thường xuyên, chăm sóc vệ sinh và các dấu hiệu trẻ bệnh. Các trẻ non tháng, trẻ bệnh cần phải chuyển đến trung tâm chăm sóc sơ sinh: cần tư vấn cho gia đình về tình trạng hiện tại, lý do cần chuyển trẻ, các biện pháp cần làm và các điều trị tiếp theo và cần ghi lại bằng biên bản. Trả lời các câu hỏi của gia đình về các vấn đề liên quan, bên cạnh chuyên môn. CHUYỂN VIỆN TRONG GIỜ VÀNG Mục tiêu của chuyển viện: chuyển các trẻ đến nơi có cấp độ chăm sóc phù hợp với tình trạng của trẻ an toàn và kịp thời(9,13,18). Ổn định trẻ trước và trong khi chuyển như: Ổn định đường huyết (S sugar), Ổn định thân nhiệt (Temperature): tùy theo bệnh lý có cần điều trị hạ thân nhiệt trên đường chuyển viện không, Đảm bảo đường thở, Hỗ trợ hô hấp với CPAP/thở máy khi trẻ có suy hô hấp, sử dụng vận mạch khi trẻ có sốc, Dịch truyền tĩnh mạch (khi cần). KẾT LUẬN “Giờ vàng” là một chiến lược tiếp cận mới cho dự hậu tốt hơn cho trẻ non tháng và trẻ đủ tháng. Tất cả nhân viên y tế nên được hướng dẫn về các biện pháp chăm sóc và tầm quan trọng trong các tiếp cận trong giờ vàng. Bác sĩ sơ sinh chịu trách nhiệm cho các cuộc sanh của trẻ rất nhẹ cân, cực nhẹ cân, cực non hoặc trẻ đủ tháng nguy cơ cao nên được huấn luyện và nên thực hành đầy đủ tất cả các biện pháp chăm sóc của giờ vàng trong giờ đầu tiên sau khi trẻ được sanh ra. Bảng kiểm trước sanh nên được thực hiện thành qui trình. Các biện pháp can thiệp trong giờ vàng gồm tham vấn trước sanh & chuẩn bị ekip, kẹp rốn trễ, phòng hạ thân nhiệt, hỗ trợ hô hấp – tuần hoàn, hỗ trợ dinh dưỡng, phòng ngừa nhiễm khuẩn, điều trị hạ thân nhiệt, xét nghiệm cận lâm sàng, theo dõi – ghi chú và tham vấn cho gia đình trẻ. Các bằng chứng hiện có hỗ trợ cho việc áp dụng Giờ vàng đã chỉ ra làm giảm tỉ lệ di chứng não (hạ thân nhiệt điều trị), giảm biến chứng loạn sản phế quản phổi và bệnh lý võng mạc trẻ non tháng vì vậy giúp giảm tử vong và di chứng cho trẻ non tháng và trẻ đủ tháng. Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4* 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 8 Hình 1: Lưu đồ các biện pháp can thiệp trong “Giờ vàng” ngay sau sanh(14) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Tổng Quan Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 9 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Adamkin DH, Radmacher PG (2014). Current trends and future challenges in neonatal parenteral nutrition. J Neonatal-Perinat Med, 7(3):157–64. 2. Bhat BV, Plakkal N (2015). Management of Shock in Neonates. Indian J Pediatr, 82(10):923–9. 3. Chang HY, Sung YH, Wang SM, Lung HL, Chang JH, Hsu CH, et al (2015). Short and Long-Term Outcomes in Very Low Birth Weight Infants with Admission Hypothermia. PloS One, 10(7): e0131976. 4. Committee on Fetus and Newborn (2012). Policy Statement: Level of Neonatal Care. Pediatrics, 130(3):587-597. 5. Howson ECP, Kinney MV, Lawn JE (2012). Born too soon: the global ation report on preterm birth. World Health Organization, Geneva. 6. Kalish BT (2017). Management of Neonatal Hypotension. Neonatal Netw, 36(1):40–7. 7. Kim AJH, Warren JB (2015). Optimal Timing of Umbilical Cord Clamping: Is the Debate Settled? Part 2 of 2: Evidence in Preterm and Term Infants, Alternatives and Unanswered Questions. NeoReviews, 16(5):e270–7. 8. Kim AJH, Warren JB (2015). Optimal Timing of Umbilical Cord Clamping: Is the Debate Settled? Part 1 of 2: History, Rationale, Influencing Factors and Concerns. NeoReviews, 16(5):e263–9. 9. Kumar PP, Kumar CD, Shaik F, Yadav S, Dusa S, Venkatlakshmi A (2011). Transported neonates by a specialist team - how STABLE are they. Indian J Pediatr, 78(7):860–2. 10. Lasswell SM, Barfield WD, Rochat RW, Blackmon L (2010). Perinatal regionalization for very low-birth-weight and very preterm infants: a meta-analysis. JAMA, 304(9):992-1000. 11. Mathur NB, Krishnamurthy S, Mishra TK (2005). Evaluation of WHO classification of hypothermia in sick extramural neonates as predictor of fatality. J Trop Pediatr, 51(6):341-5. 12. Phạm Thị Thanh Tâm (2017). Tỉ lệ tử vong và chi phí điều trị trẻ sơ sinh non tháng nhẹ cân suy hô hấp tại khoa HSSS-BVNĐ1. Y học TP. Hồ Chí Minh, 21(S4):54-61. 13. Reynolds RD, Pilcher J, Ring A, Johnson R, McKinley P (2009). The Golden Hour: care of the LBW infant during the first hour of life one unit’s experience. Neonatal Netw, 28(4):211-219. 14. Sharma D (2017). Golden hour of neonate life: Need of the hour. Maternal Health, Neonatology and Perinatology, https://mhnpjournal.biomedcentral.com/articles. 15. Smith PB, Ambalavanan N, Li L, Cotten CM, Laughon M, Walsh MC, et al (2012). Approach to Infants Born at 22 to 24 Weeks’ Gestation: Relationship to Outcomes of More-Mature Infants. Pediatrics, 129(6):e1508–16. 16. Sweet DG, Carnielli V, Greisen G, Hallman M, Ozek E, Plavka R, et al (2017). European Consensus Guidelines on the Management of Respiratory Distress Syndrome. Neonatology, 111(2):107–25. 17. Tagin MA, Woolcott CG, Vincer MJ, Whyte RK, Stinson DA (2012). Hypothermia for neonatal hypoxic ischemic encephalopathy: an updated systematic review and meta- analysis. Arch Pediatr Adolesc Med, 166(6):558–66. 18. Ventoa M, Cheungc PY, Aguar M (2009). The First Golden Minutes of the Extremely-Low-Gestational-Age Neonate: A Gentle Approach. Neonatology, 95:286–298. 19. Verani JR, McGee L, Schrag SJ (2010). Division of Bacterial Diseases, National Center for Immunization and Respiratory Diseases, Centers for Disease Control and Prevention (CDC), Prevention of perinatal group B streptococcal disease–revised guidelines from CDC. MMWR, 59(RR-10):1–36. 20. Weiner GM, et al (2015). Textbook of Neonatal resuscitation, 7th edition, eBook:978-1-61002-025. American Academy of Pediatrics, 21. WHO (2015). Recommendations on interventions to improve preterm birth outcomes, pp.46-47. Ngày nhận bài báo: 20/07/2019 Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019
File đính kèm:
- gio_vang_cac_bien_phap_can_thiep_nham_giam_tu_vong_chu_sinh.pdf