Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh

Tóm tắt

Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ giao lưu văn hóa - văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc có điều kiện

phát triển mạnh mẽ. Bang Hyeon-seok 방현석 là một trong những nhà văn Hàn Quốc quan tâm nhiều về đề

tài Việt Nam, nhất là cuộc chiến tranh mà người Hàn Quốc can dự. Tác phẩm của ông, tiêu biểu là tiểu thuyết

Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, đã thể hiện những nỗ lực vượt qua các ký ức đau buồn của cả

hai dân tộc. Mối liên hệ giao lưu văn học Việt - Hàn là tín hiệu cho thấy những nỗ lực hội nhập của văn học

Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Thành công trong Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2012, kịch bản Cội nguồn của

Lê Duy Hạnh (do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn) cùng gặp gỡ với

Bang Hyeon-seok trên phương diện chủ đề. Đây là một trong số ít những tác phẩm viết về đề tài quan hệ Việt

- Hàn trong loại hình sân khấu kịch hát dân tộc. Những nỗ lực tìm kiếm phạm vi biểu hiện mới, cùng với

những tố chất nội tại của bản thân loại hình cho thấy khả năng thích ứng cao của kịch hát dân tộc trong xu thế

toàn cầu hóa.

Từ khóa: Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, Cội nguồn, Lê Duy Hạnh,

giao lưu văn học Việt - Hàn, kịch bản cải lương.

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 1

Trang 1

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 2

Trang 2

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 3

Trang 3

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 4

Trang 4

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 5

Trang 5

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 6

Trang 6

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 7

Trang 7

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 8

Trang 8

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 9

Trang 9

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang baonam 10720
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh

Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017 
 Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: 
 Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của 
 Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh 
 Literary exchange and genre shifting: A case study of comparing novel Time for 
 lobster eating by Bang Hyeon-Seok and script The origins by Le Duy Hanh 
 CN. Trần Xuân Tiến, Trường Đại học Văn Hiến 
 Tran Xuan Tien, B.A., Van Hien University 
 CN. Vương Hoài Lâm, Nhà Xuất bản Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM 
 Vuong Hoai Lam, B.A., Ho Chi Minh City Culture – Literature and Arts Publishing House 
Tóm tắt 
Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ giao lưu văn hóa - văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc có điều kiện 
phát triển mạnh mẽ. Bang Hyeon-seok 방현석 là một trong những nhà văn Hàn Quốc quan tâm nhiều về đề 
tài Việt Nam, nhất là cuộc chiến tranh mà người Hàn Quốc can dự. Tác phẩm của ông, tiêu biểu là tiểu thuyết 
Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, đã thể hiện những nỗ lực vượt qua các ký ức đau buồn của cả 
hai dân tộc. Mối liên hệ giao lưu văn học Việt - Hàn là tín hiệu cho thấy những nỗ lực hội nhập của văn học 
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. 
Thành công trong Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2012, kịch bản Cội nguồn của 
Lê Duy Hạnh (do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn) cùng gặp gỡ với 
Bang Hyeon-seok trên phương diện chủ đề. Đây là một trong số ít những tác phẩm viết về đề tài quan hệ Việt 
- Hàn trong loại hình sân khấu kịch hát dân tộc. Những nỗ lực tìm kiếm phạm vi biểu hiện mới, cùng với 
những tố chất nội tại của bản thân loại hình cho thấy khả năng thích ứng cao của kịch hát dân tộc trong xu thế 
toàn cầu hóa. 
Từ khóa: Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, Cội nguồn, Lê Duy Hạnh, 
giao lưu văn học Việt - Hàn, kịch bản cải lương. 
Abstract 
Since the 1990s, the cultural and literary exchanges between Vietnam and South Korea have been remarkably 
developed. Bang Hyeon-seok 방현석 is among the Korean writers whose writing interest concerns Vietnam, 
especially the war in which many Koreans were involved. His works, especially Time for lobster eating 
랍스터 를 먹는 시간, manifested effort to overcome sorrowful memories of both nations. Literary exchange 
between Vietnam and South Korea indicates Vietnam’s effort for integration in the globalization context. 
The script The origins by Le Duy Hanh, which was adapted to “cai luong” by Composer Hoang Song Viet 
and Director Hoa Ha and succeeded in National Festival for Professional Cai luong Performance in 2012, is 
similar in theme to Bang Hyeon-seok’s novel. The origins is among very few compositions in the genre of 
Vietnamese traditional musical theater about the Vietnam-South Korea relationship. Vietnamese traditional 
musical theater, thanks to its effort to expand realm of reflection and its internal flexibility, has proves its 
high adaptability in the globalization context. 
Keywords: Time for lobster eating 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, The origins, Le Duy 
Hanh, literary exchange, Vietnam - South Korea relationship, cai luong’s script. 
 85 
GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 
 1. Giao lưu văn học Việt - Hàn: cả bán đảo Triều Tiên) đã được hình thành 
Một tín hiệu của xu hướng toàn cầu hóa từ thế kỷ XIV nhưng phải đến giữa thế kỷ 
trong văn học XX, công tác dịch văn học của hai nước 
 1.1. Ở một khía cạnh nhất định, giao mới có dấu hiệu của sự khởi động. Với 
lưu văn học có thể được nhìn nhận với tư việc chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại 
cách là sự tự ý thức về chính văn học thông giao qua Tuyên bố chung về việc thiết lập 
qua việc thể hiện song song hai nhu cầu quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ vào ngày 
tưởng chừng như đối nghịch là nhu cầu tìm 22/12/1992, hoạt động dịch thuật và giới 
hiểu, tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa thiệu văn học Hàn Quốc ở Việt Nam thực 
của đối tượng khác (tha nhân) và nhu cầu sự đi vào quỹ đạo của sự phát triển. Tháng 
giới thiệu, quảng bá những giá trị riêng có 8/2001, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên 
của bản thân. Hai nhu cầu ấy, tùy theo bối Đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI, và đến 
cảnh chính trị - xã hội, tùy theo tư duy của tháng 10/2009 tiếp tục nâng cấp thành Đối 
những người trong cuộc mà có lúc bên tác hợp tác chiến lược. Chính những cơ sở 
nặng bên nhẹ khác nhau. Hai nhu cầu ấy, chính trị này đã tạo tiền đề cho quá trình 
thú vị thay, lại rất phù hợp với tích cách/ giao lưu văn học Việt - Hàn phát triển. 
bản chất của quá trình toàn cầu hóa Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng 
(Globalization). Toàn cầu hóa là khái niệm tôi, tính đến tháng 11/2016, đã có gần 130 
được đặt ra nhằm biểu đạt sự trao đổi, liên đầu sách văn học Hàn Quốc được dịch và 
kết đang ngày càng được tăng cường giữa giới thiệu ở Việt Nam. Hiện nay, nhiều đơn 
các quốc gia, các khu vực, các vùng lãnh vị xuất bản có định hướng đẩy mạnh công 
thổ. Thuật ngữ này xuất hiện vào nhữn ... hăm Việt Nam, cũng là để gặp mẹ chiến tranh không chỉ là mất mát, đau 
mình đang kinh doanh ở đó. Tại Việt Nam, thương giản đơn, mà còn là cả một khối 
Su-dâng rơi vào tình huống khó xử khi xung đột dằng dai giữa tối và sáng. Có tác 
Thủy, bạn thân của An lúc nhỏ, hiện là phẩm viết về chiến tranh để thấy hệ lụy di 
công nhân trong công ty của mẹ mình, vì hại của nó, cũng có tác phẩm viết về chiến 
đình công yêu cầu tăng lương nên bị công tranh để nhận thức lại nó, nhưng cũng có 
ty bắt phạt phơi nắng đến đổ bệnh. Bà Sáu tác phẩm viết về chiến tranh để xoa dịu nó, 
Bình, bà nội của Thủy, vốn có mối hiềm dỗ dành con người hãy gác những khắc 
khích sâu sắc với người Hàn Quốc, đã đến khoải ấy sang một bên và nhìn về tương lai. 
giành công bằng cho cháu gái. Tại gia đình Cội nguồn chính là tác phẩm như vậy. 
Su-dâng, bà Sáu Bình gặp lại đại úy Li Kịch bản đã đặt người thưởng thức vào 
Sơn-du, viên sĩ quan quân y trong đội quân hai chiều hướng nghịch nhau. Một bà Sáu 
Đại Hàn đã thảm sát cả làng bà ngày trước. Bình với nỗi hận xương máu không nguôi, 
Sự thật phơi bày, trong đêm thảm sát đen tối để rồi trong mắt bà chỉ cần là người Đại 
đó, Sơn-du với tấm lòng của một lương y, Hàn đều là những kẻ bất nhân. Nhưng cũng 
đã cứu Sáu Bình và mang đứa con mới sinh có một cậu An, một cô Kim Su-dâng đại 
của bà đi để bảo toàn mạng sống cho nó. diện cho những thế hệ thanh niên trẻ, họ 
Đứa bé năm xưa chính là Li Hi-sô, mẹ ruột lớn lên trong hòa bình sung túc, dĩ vãng 
của Su-dâng. Bà Sáu Bình nhận lại con gái đau thương đối với họ mù mờ, nhạt nhòa. 
và cháu ngoại. Và trước những lời khẩn cầu Hai xu hướng cực đoan đều đẩy con người 
của người vừa là kẻ thù vừa là người ơn, vào bế tắc. Nói như nhân vật Su-dâng khi 
cũng như của những đứa cháu, bà Sáu Bình đang hòa cảm vào vai diễn nhân vật Lý 
đã chấp nhận khép lại hận thù xưa. Chiêu Hoàng “nửa bên này khóc cho cái 
 Cội nguồn không hẳn là một trường mất, nửa b n kia cười cho cái được. Cái 
hợp loại biệt trong đời sống sân khấu Việt mất giày xéo trái tim ta bật ra thành tiếng 
Nam. Trình bày về kịch nói Việt Nam, tác khóc. Cái được kích thích tâm hồn ta tạo ra 
 92 
 TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 
tiếng cười. Được và mất của một kiếp ban đầu của việc dịch chuyển loại hình là 
người, đang ra sức mạnh phá tan từng ý phục vụ thị hiếu của đại chúng, nhưng thao 
nghĩ. hà rần - nhà Lý, được - mất đã tác nghệ thuật này đã đem đến cho sân 
gạch nối ngang trên cuộc đời ta”. Chỉ có khấu cải lương tinh thần rộng mở, không 
nhìn vào quá khứ để biết, để thấu hiểu giá bó hẹp mình trong khung cửa hạn hẹp mà 
trị sống hiện mới có thể đi về tương lai vươn lên tìm đến những bản diện mới. 
bằng đôi chân vững vàng. Song cũng 3.2. Không dừng lại ở việc trình bày 
không để quá khứ câu thúc con người, giới một vấn đề lịch sử - xã hội, kịch bản Cội 
hạn con người trong những cái vươn mình nguồn còn là một cuộc tra vấn không 
lên cao. Lê Duy Hạnh đã tìm thấy nơi nhà ngừng trong tư duy nghệ thuật của soạn giả 
văn Hàn Quốc Bang Hyeon-seok một cái Lê Duy Hạnh. Nhận xét về Lê Duy Hạnh, 
nhìn đồng điệu. Trong chiến tranh, số phận nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành cho 
con người không do chính họ quyết định. rằng ông là “một cây bút không ngừng 
Con người nói cho cùng là nạn nhân của thao thức, tìm kiếm cái mới từ bình diện 
một ý đồ, một tư tưởng “ hững người Đại nội dung đến cung cách diễn tả, nhằm mở 
Hàn cũng chẳng đáng thương sao? ếu là rộng khả năng bao quát hiện thực kết hợp 
một nước giàu có và hùng mạnh thì tại sao với tăng cường chiều sâu vở diễn”12. 
lại phải cầm súng cho Mỹ và xa qu hương, Sài Gòn - Gia Định trước kia, 
xa gia đ nh để đến tận cái đất nước xa xôi TP.HCM ngày nay vốn là một trung tâm 
này? Chúng ta cũng đáng thương nhưng kinh tế - chính trị - văn hóa thuộc vào loại 
dường như người Đại Hàn còn đáng quy mô của đất nước. Đặc điểm địa lý tự 
thương hơn nữa. Chúng ta vì giữ mảnh đất nhiên cùng với những biến động xã hội 
của mình mà không còn cách nào khác, nhân văn đã sớm cấp cho đô thị trung tâm 
phải chiến đấu và phải chết; nhưng còn khu vực Nam bộ này một năng lượng sống 
những người Đại Hàn, sao lại phải đến tràn trề, biết đón nhận và tiếp biến nhiều 
một đất nước không hề có quan hệ để rồi bị dòng chảy, nhiều thành tố văn hóa, tạo nên 
thương và chết?”11. một tổng thể văn hóa chung phong phú 
 Trong thực tế, dịch chuyển thể loại là nhiều màu sắc. Nhìn riêng từ bình diện sân 
con đường tắt, tuy nhanh nhưng không tròn khấu, từ thế kỷ XVII - XVIII, loại hình hát 
vẹn về việc tiếp nhận những nền văn hóa bội đã định hình ở khu vực Đàng trong, đặc 
khác. Sân khấu cải lương nói riêng, sân biệt ở thành Gia Định với sự ủng hộ tích 
khấu Việt Nam nói chung nằm trong phạm cực của quan Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng 
vi ảnh hưởng của vùng văn hóa chữ Hán trấn Gia Định. Đầu thế kỷ XX, khi văn hóa 
( 漢 字 文 化 圏 ), cho nên những tác phẩm phương Tây du nhập và trở nên lớn mạnh ở 
“hương xa” ngày trước, hay những tác Việt Nam, tại Nam kỳ, cải lương - một 
phẩm dịch chuyển loại hình hôm nay hình thức sân khấu mới - ra đời trên cơ sở 
không thoát ra được hệ tư tưởng, hình thái kế thừa âm nhạc tài tử, kếp hợp phong cách 
văn hóa của khu vực. Chính vì vậy, dù viết diễn xướng hiện đại. Sân khấu cải lương 
về con người, đất nước Hàn Quốc, nhưng trở thành “đặc sản” văn hóa tinh thần của 
phong thái, cách nghĩ, cách cảm vẫn còn cư dân các tỉnh Nam kỳ, và đặc biệt là ở đô 
nặng màu sắc Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn thị Sài Gòn. Năm 1985, Hội diễn sân khấu 
nhận một cách công bằng, có thể dụng ý chuyên nghiệp toàn quốc là điều kiện xúc 
 93 
GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 
tác cho nghệ thuật kịch nói tiếp nhận từ quát cao, và phá vỡ những logic thông 
phương Tây bén duyên với môi trường nghệ thường trong tư duy và thói quen sáng tạo 
thuật Nam bộ. Như vậy, qua những biến của kịch hát truyền thống phương Đông. 
chuyển của lịch sử con người, TP.HCM trở Tuy vậy, kịch Lê Duy Hạnh thường biểu 
thành giao điểm của nhiều kịch chủng nghệ hiện tốt trong hình thái kịch hát truyền 
thuật. Phối cảnh sôi động đó cho thấy thống. Nhiều kịch bản của ông được dàn 
TP.HCM là môi trường cực kỳ năng động, dựng trước nhất ở lĩnh vực kịch hát, tiêu 
thu hút/ đón nhận một cách tích cực những biểu như kịch bản Cội nguồn trước khi 
loại hình sân khấu từ truyền thống đến hiện được cải lương hóa, nó đã được giới thiệu 
đại, làm nên một bản sắc riêng. đến công chúng bằng hình thức sân khấu 
 Sinh ra trên quê hương đất võ Bình tuồng (do Nhà hát Tuồng Đào Tấn dàn 
Định, nhưng hành trang nghệ thuật của Lê dựng, đạo diễn: Hoàng Ngọc Đình). Sở dĩ 
Duy Hạnh lại gắn liền với vùng đất Sài vậy là vì kịch Lê Duy Hạnh giải quyết tốt 
Gòn - TP.HCM. Đời sống sân khấu vừa mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. 
giàu sức sống vừa bộn bề những vấn đề đó Giữ được căn cốt truyền thống nhưng vẫn 
chính là nguồn cội cho những sáng tạo hết mang đậm dấu ấn sáng tạo mới mẻ. 
sức táo bạo của ông. Kịch Lê Duy Hạnh là Câu chuyện truyền thống và hiện đại 
một thương hiệu kịch rất mới, rất hiện đại. đặt ra trong kịch bản là một nan đề trong 
Nó không vấp phải căn bệnh trần thuật lại văn hóa, nhận thức luận của con người thời 
sự kiện, nhân vật bằng hình tượng sân khấu đại mới. Mở cửa, giao lưu quốc tế là con 
mà được xây dựng bằng cách chiết xuất đường sống còn trong xu thế thời đời đại 
những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đời sống xã của đất nước, của toàn dân tộc, nhưng con 
hội đương đại, nâng lên thành một luận đề, người đương thời phải biết làm chủ bản thân 
trong đó có sự tương tranh không ngừng. bằng những nền tảng vững chắc, hòa nhập 
Có thể thấy được đặc trưng này rất rõ trong chứ không hòa tan. Tâm thức truyền thống 
hiện tượng kịch độc diễn của Lê Duy Hạnh. chính là ký ức bản năng trong con người 
Nhà nghiên cứu Đỗ Hương từng nhận xét Su-dâng, cô gái người Hàn gốc Việt. Bằng 
“ ác giả Lê Duy Hạnh với chùm kịch dành việc sử dụng một hình mẫu vốn quen thuộc 
cho một người diễn như Lý Chiêu Hoàng, trong những kịch bản của mình - Lý Chiêu 
Độc thoại đêm, Hoàng hậu của hai vua, Hoàng - hay đúng hơn là hình mẫu người 
Diễn kịch một mình, Hồn thơ ngọc. Ngoài phụ nữ trong bối cảnh chuyển giao thời đại, 
tác giả Vũ Minh với một Ông già và biển cả, Lê Duy Hạnh vừa khắc họa sâu sắc tâm 
thì tác giả Lê Duy Hạnh đến giờ phút này thức truyền thống, vừa chuyển tải những 
gần như có thể đăng ký “thương hiệu” độc ngổn ngang thời đại đặt ra cho con người. 
quyền cho loại hình kịch một m nh này”13. Đặt “gói” nội dung Cội nguồn trong 
Kịch độc diễn là một hình thức kịch đòi hỏi diện mạo cải lương là một lựa chọn phù 
sự điêu luyện trong sáng tạo và biểu diễn. hợp. Sân khấu cải lương ra đời như một 
Người sáng tác - người diễn đồng thời phải kịch chủng hiện đại, phát triển dung hợp 
đặt mình vào trạng thái phân mảnh ý thức, giữa hai dòng văn hóa Đông - Tây, sự kết 
xoay chuyển thường xuyên, không ngừng hợp tài tình của yếu tố truyền thống và 
tra vấn phản biện với chính mình. Kịch độc cách tân, giữa bản sắc cội nguồn dân tộc và 
diễn nâng mâu thuẫn kịch lên tầm khái ánh sáng văn minh tân thời. Bản thân thuật 
 94 
 TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM 
ngữ “cải lương” đi từ tên gọi của một trào tế So sánh văn học Việt Nam - Hàn Quốc 
lưu tư tưởng chính trị phương Tây cũng thu hút được nhiều nhà khoa học, 
(réformisme), phát triển thành một tính từ chuyên gia hai nước tham dự. 
biểu thị tính chất hiện đại của loại hình sân 2. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt 
khấu mới (cải lương = tân kỳ/kim thời), am ở Hàn uốc, 
rồi được định hình thành một danh từ 
chung chỉ một loại hình sân khấu. Hình viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim-
thức cải lương đã tiếp thêm cho nội dung ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam-
 o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016. 
“luận đề” Cội nguồn một minh chứng cho 
khả năng tìm kiếm những chân trời đón đợi 3. Kể từ năm 2002, Viện Dịch thuật Văn học 
 Hàn Quốc tổ chức giải thưởng thường niên 
mới của sân khấu dân tộc giữa thời đại toàn 
 cho các tác phẩm dịch văn học Hàn và xuất 
cầu hóa. bản ngoài lãnh thổ Hàn Quốc ở năm trước. 
 Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn 
 4. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc 
cầu hóa đã trở thành xu hướng khó thể 
 Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt 
khước từ, mỗi đất nước, mỗi dân tộc luôn ý Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ 
thức được tác dụng của việc quảng bá cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM, 
thương hiệu quốc gia từ văn hóa, tư tưởng. TP.HCM, tr.139-140. 
Giao lưu văn chương nghệ thuật, với tư 5. Trong bài viết có một số tài liệu tham khảo 
cách là một thành tố cấu thành nên văn hóa phiên âm thành Bang Hyun Suk, do cách 
- đã, đang và sẽ là cầu nối hiệu quả trong phiên âm này gắn tới tên bài viết nên chúng 
tiến trình giao lưu và phổ biến văn hóa. tôi giữ nguyên văn. 
Với việc tiếp nhận cảm hứng về tư tưởng 6. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là 
sám hối và hòa giải trong thời hậu chiến từ mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại 
tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của nhà 
văn Bang Hyeon-seok, soạn giả Lê Duy ien-dan/item/12170802, ngày truy cập: 
Hạnh đã sáng tạo nên kịch bản Cội nguồn 04/9/2016. 
mang nhiều thông điệp nhân văn. Tác 7. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ 
phẩm là sự nối kết giữa quá khứ và hiện tại, Hàn..., tại 
 nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo, 
nối kết giữa người Việt Nam và người Hàn 
 ngày truy cập: 04/9/2016. 
Quốc, nối kết giữa văn học và sân khấu. 
Bài viết phần nào chỉ ra những nối kết này 8. Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006), Mỹ học, 
 Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.229. 
trên tinh thần gợi mở và chờ đợi những 
hướng tiếp cận, lý giải sâu sắc hơn trong 9. Do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, 
 Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn. Thành phần 
tương lai. 
 diễn viên: NSƯT. Thoại Miêu (bà Sáu Bình), 
Chú thích: NSƯT. Vũ Luân (Li Sơn-du), NSƯT. Tú 
1. Tháng 6/2014, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á Sương (Kim Su-dâng), NSƯT. Trọng Phúc 
 và Viện Nghiên cứu Hàn Quốc học Trung (An), Mai Thanh Phượng (Li Hi-sô), Thoại 
 ương (Academy of Korean Studies) phối hợp An (Thủy), Minh Hòa (Kim Đa-dung). 
 tổ chức Hội thảo quốc tế Nghiên cứu Hàn 10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến 
 Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ 
 hướng; Tháng 5/2016, Trường Đại học Đà Lạt XX”, Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, 
 (Lâm Đồng) tổ chức Tọa đàm khoa học quốc tr.582. 
 95 
GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH 
11. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm 8. Hoàng Nghĩa Nam (2005), Một nhà văn Hàn 
 hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.240-241. Quốc nổi tiếng với đề tài Việt Nam, tại 
12. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb 
 Sân khấu, Hà Nội, tr.6-7. van-han-quoc-noi-tieng-voi-de-tai-viet-nam-
 3540.tpo, ngày truy cập: 04/9/2016. 
13. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất 
 kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, 9. Nguyễn Thị Thắm chủ biên (2015), Nghiên cứu 
 Nxb Sân khấu, Hà Nội, tr.165. Hàn Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương 
 hướng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến 
 trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ 
1. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm 
 XX”, in trong Nhìn lại văn học Việt Nam thế 
 hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
 kỷ XX, tr.562-590. 
2. Denis Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006), 
 11. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ 
 Mỹ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
 Hàn..., tại 
3. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo, 
 Sân khấu, Hà Nội. ngày truy cập: 04/9/2016. 
4. Phan Thị Thu Hiền (2014), “Giao lưu dịch 12. Trần Thúc Việt (2009), “Nghiên cứu văn học 
 thuật văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc Hàn Quốc tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo 
 với vai trò “cửa sổ văn hóa””, Tuần báo Văn quốc tế tiếng Hàn Quốc, Trường ĐH Ngoại 
 nghệ TP.HCM, Số 327 (ngày 13/11/2014). ngữ - ĐHQG Hà Nội, 
5. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất 
 kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, 56789/1308; ngày truy cập: 11/11/2015. 
 Nxb Sân khấu, Hà Nội. 13. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2015), “Sám hối 
6. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt và hòa giải trong hai tiểu thuyết Hàn Quốc 
 am ở Hàn uốc, viết về Việt Nam (Đọc Cái bóng của vũ khí - 
  무기의 그늘 của Hwang Suk Young và Thời 
 viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim- gian ăn tôm hùm - 시간 바다 가재 của Bang 
 ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam- Hyun Suk)”, Tạp chí Khoa học Đại học Văn 
 o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016. Hiến số 06 (tháng 02/2015), trang 71-80. 
7. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc 14. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là 
 Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại 
 Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ 
 cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM, dien-dan/item/12170802, ngày truy cập: 
 TP.HCM. 04/9/2016. 
Ngày nhận bài: 19/12/2016 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017 
 96 

File đính kèm:

  • pdfgiao_luu_van_hoc_va_dich_chuyen_loai_hinh_truong_hop_tieu_th.pdf