Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận

Luật Thủy lợi ra đời và có hiệu lực từ 01/7/2018 đã thể hiện cách tiếp cận mới trong

quản lý, khai thác công trình thủy lợi khi quan điểm chuyển từ phục vụ sang dịch vụ và lấy người

sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi làm trung tâm. Theo đó, nhiều quy định liên quan đến quản lý,

khai thác công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng cũng thay đổi so với trước, như quy định về

mô hình, số lượng thành viên, điều lệ, quy chế hoạt động tổ chức thủy lợi cơ sở; yêu cầu năng lực

của tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, khai thác công trình thủy lợi, vì vậy, các tổ chức dùng

nước hiện có cần phải được củng cố để phù hợp với Luật Thủy lợi. Thời hạn hoàn thành theo quy

định là 3 năm kể từ ngày Luật có hiệu lực.

Thực thi Luật Thủy lợi trong bối cảnh hầu hết các tổ chức dùng nước chưa đáp ứng được quy định

là thách thức không nhỏ đối với các địa phương, đặc biệt đây là vấn đề phụ thuộc vào rất nhiều yếu

tố khác nhau, đối tượng chịu tác động lớn,. do vậy, nếu không có giải pháp phù hợp thì khó có thể

hoàn thành theo kế hoạch yêu cầu. Trong bài viết này, dựa trên kinh nghiệm thực hiện thành lập,

củng cố các TCDN trong khuôn khổ Hợp phần “Nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống

thủy lợi tỉnh Ninh Thuận”, tác giả sẽ đề xuất một số giải pháp chính cho việc củng cố các TCDN

hiện có đáp ứng được quy định của Luật Thủy lợi đối với tổ chức thủy lợi cơ sở.

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 1

Trang 1

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 2

Trang 2

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 3

Trang 3

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 4

Trang 4

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 5

Trang 5

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 6

Trang 6

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 7

Trang 7

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 8

Trang 8

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 15620
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận

Giải pháp củng cố các tổ chức thủy lợi cơ sở đáp ứng quy định của luật thủy lợi - Bài học kinh nghiệm từ hợp phần nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh Thuận
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 1
GIẢI PHÁP CỦNG CỐ CÁC TỔ CHỨC THỦY LỢI CƠ SỞ 
ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THỦY LỢI - BÀI HỌC 
KINH NGHIỆM TỪ HỢP PHẦN NGHIÊN CỨU, NÂNG CAO 
NĂNG LỰC VẬN HÀNH HỆ THỐNG THỦY LỢI TỈNH NINH THUẬN 
Nguyễn Xuân Thịnh 
Trung tâm Tư vấn PIM 
Tóm tắt: Luật Thủy lợi ra đời và có hiệu lực từ 01/7/2018 đã thể hiện cách tiếp cận mới trong 
quản lý, khai thác công trình thủy lợi khi quan điểm chuyển từ phục vụ sang dịch vụ và lấy người 
sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi làm trung tâm. Theo đó, nhiều quy định liên quan đến quản lý, 
khai thác công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng cũng thay đổi so với trước, như quy định về 
mô hình, số lượng thành viên, điều lệ, quy chế hoạt động tổ chức thủy lợi cơ sở; yêu cầu năng lực 
của tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, khai thác công trình thủy lợi, vì vậy, các tổ chức dùng 
nước hiện có cần phải được củng cố để phù hợp với Luật Thủy lợi. Thời hạn hoàn thành theo quy 
định là 3 năm kể từ ngày Luật có hiệu lực. 
Thực thi Luật Thủy lợi trong bối cảnh hầu hết các tổ chức dùng nước chưa đáp ứng được quy định 
là thách thức không nhỏ đối với các địa phương, đặc biệt đây là vấn đề phụ thuộc vào rất nhiều yếu 
tố khác nhau, đối tượng chịu tác động lớn,... do vậy, nếu không có giải pháp phù hợp thì khó có thể 
hoàn thành theo kế hoạch yêu cầu. Trong bài viết này, dựa trên kinh nghiệm thực hiện thành lập, 
củng cố các TCDN trong khuôn khổ Hợp phần “Nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống 
thủy lợi tỉnh Ninh Thuận”, tác giả sẽ đề xuất một số giải pháp chính cho việc củng cố các TCDN 
hiện có đáp ứng được quy định của Luật Thủy lợi đối với tổ chức thủy lợi cơ sở. 
Từ khóa: TCDN, Tổ chức hợp tác dùng nước, tổ chức thủy lợi cơ sở. 
Summary: The Law on Irrigation which was promulgated and took effects since 01 July 2018 has 
reflected a new approach to the management and exploitation of irrigation work through shifting 
from non-profit services to paid services and irrigation service user-centered approach. The Law 
on Irrigation has been followed by many new legislations relating to management and operation 
of small scale and on-farm irrigation works which regulate new provisions on water user 
organization models, membership, operation charters and regulations, capacity requirements for 
organizations and individuals involving in the management and operation of irrigation works. As 
a result, existing water user organization (WUOs) should be reinforced accordingly to be in line 
with the Law on Irrigation. The deadline for a completed reinforcement process is 3 years since 
the effective date of the Law on Irrigation. 
While capacity of existing WUOs is not adequate, the enforcement of Law on Irrigation is such a big 
challenge to localities. A successful WUO reinforcement process depends significantly on various 
factors whereas the targets for interventions are large and vastly located. Without proper solutions, 
the deadline cannot be met. Building on best practices of WUO establishment/reinforcement in the 
Component “Strengthening Management and Operation Capacity of irrigation system in Ninh Thuan 
province”, the article will propose some key solutions to the establishment/reinforcement of existing 
WUOs to meet requirements of the Law on Irrigation. 
Key words: Water user organization, WUO, WUG. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Luật thủy lợi số 08/2017/QH14 được Quốc hội 
thông qua ngày 19/6/2017, có hiệu lực từ 
1/7/2018, với nhiều thay đổi trong cách tiếp 
Ngày nhận bài: 09/10/2018 
Ngày thông qua phản biện: 19/11/2018 
cận, ngoài việc chuyển từ quan điểm phục vụ 
sang dịch vụ (chuyển từ phí sang giá) còn chú 
trọng đến huy động cộng đồng tham gia phát 
triển, quản lý khai thác công trình thủy lợi thông 
Ngày duyệt đăng: 05/12/2018 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 2
qua các hình thức xã hội hóa và đối tác công 
tư, cũng như xác định rõ vai trò trung tâm, chủ 
thể của người sử dụng nước trong các hoạt 
động quản lý, khai thác công trình thủy lợi khi 
quy định “Quản lý, khai thác công trình thủy 
lợi phải có sự tham gia của người sử dụng sản 
phẩm, dịch vụ thủy lợi và các bên có liên 
quan”. 
Quản lý tưới có sự tham gia (PIM) là một trong 
số các hình thức xã hội hóa công tác quản lý 
khai thác công trình thủy lợi đã được thực hiện 
trong nhiều năm qua ở nước ta thông qua việc 
thành lập các tổ chức dùng nước (TCDN1) và 
phân cấp quản lý, khai thác công trình thủy lợi 
nhỏ, thủy lợi nội đồng cho các tổ chức dùng 
nước quản lý. Tuy nhiên, trước khi Luật thủy 
lợi có hiệu lực, ở nước ta không có quy định cụ 
thể về loại mô hình tổ chức dùng nước ngoài mà 
chỉ có các văn bản mang tính chất hướng dẫn 
như Thông tư 75/2004/TT-BNNPTNT ngày 
20/12/2004 của Bộ Nông nghiẹp và PTNT 
Hướng dẫn việc thành lập, củng cố và phát triển 
tổ chức hợp tác dùng nước hoặc một số sổ tay 
hướng dẫn thành lập, củng cố các T ...  do người 
sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi bầu cử dân 
chủ mà do UBND xã lựa chọn, chỉ định; 
Điều lệ, quy chế hoạt động chưa được UBND 
cấp xã xác nhận; 
Năng lực đội ngũ cán bộ của các TCDN còn rất 
2 Theo ngôn ngữ địa phương sử dụng chỉ việc cho thuê 
mặt ruộng sau khi đã thu hoạch lúa để chăn thả vịt. 
3 Nhiều tổ chức trước đây được coi là phù hợp (Luật HTX 
chỉ yêu cầu 7 thành viên; Nghị định 151 quy định tổ hợp 
hạn chế, có khoảng với 81,5% số cán bộ quản 
lý; 100% số thủy nông viên chưa có bằng cấp, 
chứng chỉ chuyên môn phù hợp với lĩnh vực 
công việc phụ trách. 
Bên cạnh những tồn tại nêu trên, xu hướng 
chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ cây kém hiệu quả, 
sử dụng nhiều nước sang cây trồng có giá trị kinh 
tế cao, sử dụng ít nước nhằm nâng cao giá trị gia 
tăng và thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là 
hạn hán, đang diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh 
Ninh Thuận. Việc chuyển đổi này kết hợp với 
những thay đổi về hạ tầng tưới tiêu; phương pháp 
và chế độ tưới tiêu sẽ đặt ra cho các cán bộ quản 
lý, vận hành điều tiết nước nội đồng những yêu 
cầu và thách thức mới cần phải thích ứng. Vì vậy, 
việc củng cố các TCDN là để thực thi Luật Thủy 
lợi cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các 
TCDN hiện có. 
Để đáp ứng Luật Thủy lợi và các quy định hiện 
hành, những vấn đề chính cần thực hiện khi củng 
cố các TCDN hiện có trên địa bàn bao gồm: 
Chuyển đổi tất cả các mô hình tổ chức hiện 
không phải là HTX hoặc THT, không do người 
sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi lập ra, hoạt 
động phụ thuộc vào chính quyền địa phương 
sang một trong hai hình thức HTX hoặc THT 
(xét về bản chất, không phụ thuộc tên gọi) và 
hoạt động độc lập; 
Bổ sung đầy đủ các hộ sử dụng sản phẩm, dịch 
vụ thủy lợi trong phạm vi tổ chức thủy lợi cơ sở 
phục vụ là thành viên của tổ chức thủy lợi cơ sở 
(trung bình phải bổ sung thêm 89,5%); 
Điều chỉnh, bổ sung điều lệ, quy chế hoạt động 
của tổ chức thủy lợi cơ sở phù hợp với những 
thay đổi, thống nhất tại đại hội và trình UBND 
cấp xã xác nhận; 
Hoàn thiện các thủ tục pháp lý khác (nếu cần); 
tác chỉ cần 3 thành viên) nhưng kể từ 1/7/2018 Luật Thủy 
lợi có hiệu lực thì các tổ chức thủy lợi cơ sở phải tuân thủ 
theo Luật Thủy lợi. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 6
Đào tạo, tập huấn cho Ban quản lý tổ chức thủy 
lợi cơ sở và các tổ chuyên môn, nghiệp vụ đáp 
ứng quy định về năng lực đối với tổ chức, cá 
nhân quản lý khai thác công trình thủy lợi nhỏ, 
thủy lợi nội đồng tho Nghị định 67/2018/NĐ-
CP. 
Giải pháp củng cố các TCDN hiện có đáp 
ứng yêu cầu Luật Thủy lợi 
Cách tiếp cận và phương pháp thực hiện: 
Để đạt được mục tiêu đặt ra thì cách tiếp cận “có 
sự tham gia” được áp dụng theo một phương 
pháp tổng hợp “trên xuống - dưới lên” thông qua 
việc thiết lập các phương pháp tham vấn trong 
từng hoạt động như một điều kiện tiên quyết để 
đảm bảo quyền tham gia, đặc biệt là của các hộ 
sử dụng sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi, và 
tính bền vững của các TCDN sau khi được thành 
lập hoặc củng cố. 
Bên cạnh đó, phương pháp “cùng học-cùng làm” 
cũng được áp dụng trong quá trình thực hiện 
nhằm mục tiêu tất cả các bên liên quan được được 
cung cấp đầy đủ thông tin và nâng cao nhận thức 
để dễ dàng đạt được sự đồng thuận cũng như có 
thể thực hiện tốt việc phát triển PIM sau này khi 
không còn sự hỗ trợ từ dự án. 
Với cách tiếp cận và phương pháp thực hiện nêu 
trên, trong khuôn khổ dự án đã đề xuất thành 
lập nhóm hỗ trợ thực hiện PIM. 
Nhóm hỗ trợ cấp tỉnh được UBND tỉnh Ninh 
Thuận thành lập tại Quyết định số 835/QĐ-
UBND ngày 23/5/2018 với thành phần gồm các 
đại diện: Chi cục thủy lợi, IMC, Ban quản lý dự 
án, lãnh đạo phòng Nông nghiệp và PTNT hoặc 
phòng kinh tế các huyện, thành phố vùng dự án. 
Nhiệm vụ chính của nhóm là tham gia hỗ trợ 
các hoạt động PIM trong khuôn khổ dự án để 
tích lũy kinh nghiệm; Tuyên truyền, huy động 
người sử dụng nước tham gia xây dựng các 
TCDN, liên hiệp TCDN; Hỗ trợ giải quyết các 
thủ tục cần thiết để đảm bảo tư cách pháp nhân, 
tài khoản, con dấu cho các TCDN, liên hiệp 
TCDN được thành lập, củng cố trên địa bàn 
theo quy định của nhà nước và pháp luật; Hỗ trợ 
và tham mưu cho chính quyền địa phương trong 
quá trình chỉ đạo phát triển PIM, là nhân tố 
đóng vai trò kết nối các hoạt động liên quan đến 
PIM sau này. Sau khi dự án kết thúc, nhóm hỗ 
trợ PIM sẽ trở thành lực lượng nòng cốt để mở 
rộng và phát triển PIM trên địa bàn các huyện, 
thành phố. 
Ngoài ra, dự án cũng đã thử nghiệm thành lập 01 
nhóm hỗ trợ PIM cấp huyện tại Ninh Phước với 
vai trò, nhiệm vụ tương tự nhóm hỗ trợ thực hiện 
PIM cấp tỉnh, chỉ khác nhau về phạm vi hoạt động 
được giới hạn trong địa bàn huyện. 
Kết quả củng cố các tổ chức dùng nước: 
Do hạn chế về thời gian và kinh phí, trong 
khuôn khổ Hợp phần PIM thực hiện tại Ninh 
Thuận chỉ có thể lựa chọn 20/25 TCDN đã được 
khảo sát để thí điểm hỗ trợ củng cố; các TCDN 
khác sẽ được địa phương thực hiện sau dựa trên 
các kinh nghiệm được tích lũy trong quá tình 
thực hiện dự án. 
Căn cứ quy định và hiện trạng các TCDN, giải 
pháp để củng cố các TCDN hiện có trên địa bàn 
tỉnh sẽ theo 4 phương án sau: 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 7
Sơ đồ 1. Phương án bổ sung thành viên 
của TCDN hiện có 
Sơ đồ 2. Phương án thành lập THTDN 
gắn với HTX hiện có 
Sơ đồ 3. Phương án ghép các TCDN quy mô 
nhỏ thành tổ chức TLCS có quy mô lớn hơn 
Sơ đồ 4. Phương án thành lập THTDN 
 chung của của các HTX cùng sử dụng nước 
 từ một tuyến kênh 
Hình thức 1: Bổ sung thành viên 
Với các TCDN hiện có chưa đáp ứng được quy 
định về số lượng thành viên, cơ cấu bộ máy tổ 
chức, tính pháp lý, và được các hộ sử dụng 
nước thống nhất giữ nguyên mô hình thì chỉ cần 
đăng ký bổ sung thành viên, chỉnh sửa điều lệ, 
quy chế hoạt động để thông qua đại hội và trình 
UBND cấp xã xác nhận, không cần thành lập 
Tổ chức thủy lợi cơ sở mới. 
Các trường hợp cụ thể như sau: 
Đối với TCDN là HTX: theo quy định, để tham 
gia thành viên HTX thì thành phải đóng góp 
vốn điều lệ. Do vậy, nếu quy định mức góp vốn 
điều lệ tối thiểu quá cao sẽ gây khó khăn cho 
các hộ sử dụng nước tham gia thành viên do các 
hộ có điều kiện kinh tế và nhu cầu tham gia 
HTX khác nhau, vì thế cần thống nhất mức góp 
vốn điều lệ tối thiểu phù hợp với khả năng đóng 
góp của các hộ sử dụng nước, tạo điều kiện tối 
đa để tất cả các hộ sử dụng nước tham gia thành 
viên (thường là cố gắng thống nhất mức góp 
vốn điều lệ tối thiểu ở mức rất thấp để các hộ sử 
dụng nước dễ dàng tham gia). 
Đối với TCDN là THT: việc bổ sung thành viên 
là thuận lợi hơn do không yêu cầu bắt buộc góp 
vốn điều lệ. Tuy nhiên, THT không phải là pháp 
nhân nên các hộ sử dụng nước phải ủy quyền 
cho Tổ trưởng (và BQL); các giao dịch của 
THT cần phải có xác nhận của UBND cấp xã 
nên sẽ khó khăn hơn trong quá trình hoạt động. 
Đối với các TCDN hiện trực thuộc thôn, xã thì 
ngoài việc bổ sung thành viên còn phải chuyển 
đổi sang mô hình THT hoặc HTX, tách khỏi 
chính quyền địa phương. Trường hợp này thực 
hiện tương tự như thành lập mới TCDN. 
Hình thức 2: Thành lập THTDN gắn với HTX 
Hình thức này được đề xuất lựa chọn áp dụng cho 
các trường hợp HTX hiện có đang kinh doanh đa 
dịch vụ, trong đó có dịch vụ thủy nông, nhưng gặp 
khó khăn trong việc bổ sung thành viên là các hộ 
sử dụng nước chưa tham gia thành viên HTX do 
gặp phải các vấn đề như: 
Các vấn đề liên quan đến tài sản, vốn góp của 
HTX rất khó xác định được bởi lịch sử hình 
thành HTX từ nhiều năm trước, các hình thức 
đóng góp đa dạng (hiện vật, công lao động, 
tiền,), nhiều thành viên nay đã mất nhưng 
khó xác định quyền thừa kế, sở hữu cổ phần, 
v.v. 
Có những hộ sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy 
lợi nhưng không muốn tham gia HTX vì chỉ có 
nhu cầu sử dụng nước chứ không có nhu cầu 
các dịch vụ khác hoặc không có đủ khả năng 
đóng góp vốn điều lệ tối thiểu để tham gia HTX. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 8
Các thành viên HTX hiện có không muốn bổ 
sung thêm thành viên do tâm lý e ngại ảnh 
hưởng đến quyền lợi và các hoạt động kinh 
doanh của HTX. 
Mặc dù vậy, các HTX này lại là tổ chức đang 
được giao quản lý, khai thác công trình thủy lợi 
nhỏ, thủy lợi nội đồng trên địa bàn theo Quyết 
định phân cấp của UBND tỉnh, thậm chí trong 
nhiều trường hợp, các HTX đã bỏ cả kinh phí 
để đều tư xây dựng một số công trình, nên việc 
thu hồi quyền quản lý công trình thủy lợi nhỏ, 
thủy lợi nội đồng từ các HTX để giao cho một 
tổ chức thủy lợi cơ sở được thành lập mới là khó 
khả thi. Do đó, phương án phù hợp là thành lập 
THTDN hoặc Tổ thủy nông với thành viên là 
tất cả hộ sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi trên 
địa bàn HTX phục vụ (có thể là thành viên HTX 
hoặc không) và gắn THTDN này với HTX. Tuy 
nhiên, trong trường hợp này, để đảm bảo tính 
pháp lý và hài hòa lợi ích của các thành viên, 
đặc biệt là không gây ảnh hưởng đến lợi ích của 
các thành viên HTX hiện có tham gia nhiều dịch 
vụ khác của HTX thì khi xây dựng điều lệ, quy 
chế hoạt động của HTX và THTDN cần phải 
lưu ý làm rõ những vấn đề sau: 
Phân bổ số lượng đại biểu tham dự đại hội thành 
viên, bầu Ban quản lý, điều hành và biểu quyết 
thông qua những vấn đề quan trọng của HTX 
phải dựa trên tỷ lệ doanh thu của các loại dịch 
vụ trong năm gần nhất hoặc cũng có thể quy 
định thành viên tham gia dịch vụ nào thì chỉ có 
quyền và trách nhiệm liên quan đến dịch vụ đó. 
Chẳng hạn, bầu Ban điều hành THTDN, thống 
nhất mức phí thủy lợi nội đồng, phải do các 
thành viên là những hộ sử dụng sản phẩm, dịch 
vụ thủy lợi quyết định. 
Quy định tiêu chuẩn của Hội đồng quản trị, Ban 
giám đốc, kiểm soát phù hợp, đảm bảo các 
thành viên tham gia nhiều dịch vụ hơn, đóng 
góp nhiều hơn thì có quyền và lợi ích lớn hơn, 
chẳng hạn như đối với các thành viên chỉ tham 
gia 1 dịch vụ thủy lợi nội đồng thì chỉ được đảm 
nhiệm những vị trí nào đó trong bộ máy quản 
lý, điều hành HTX. 
Trên thực tế, phương án phổ biến được các địa 
phương lựa chọn là chọn phó giám đốc HTX 
kiêm nhiệm tổ trưởng tổ thủy nông (trưởng ban 
điều hành THTDN) hoặc theo chiều hướng dân 
chủ hơn là Tổ trưởng tổ thủy nông (do đại hội 
thành viên bầu) đương nhiên là phó giám đốc 
HTX phụ trách dịch vụ thủy lợi nội đồng. Trong 
cả hai trường hợp nêu trên đều phải được đại hội 
thành viên HTX và người sử dụng sản phẩm, 
dịch vụ thủy lợi đồng ý thông qua. 
Hình thức 3: Ghép các TCDN quy mô nhỏ 
thành tổ chức TLCS có quy mô lớn hơn 
Một trong những lý do khiến các TCDN hoạt 
động kém hiệu quả, kém bền vững là kinh phí 
cho hoạt động của tổ chức không đảm bảo. 
Theo kết quả nghiên cứu của một số đề tài khoa 
học và thực tế hoạt động của các TCDN ở địa 
phương, khi quy mô phục vụ tưới tiêu nhỏ hơn 
35 ha thì mức thù lao cho cán bộ quản lý TCDN, 
thủy nông viên và mức chi cho sửa chưa, bảo 
dưỡng công trình quá thấp so với mức trung 
bình chung, do vậy hầu như không thể hoạt 
động được hoặc hoạt động không hiệu quả. Do 
vậy, trong trường hợp này cần nghiên cứu ghép 
vào TCDN lân cận có điều kiện phù hợp để 
thành tổ chức mới có quy mô phục vụ lớn hơn, 
đảm bảo nguồn thu đủ chi cho các hoạt động 
của TCDN và duy tu, bảo dưỡng công trình. 
Hình thức 4: Thành lập THTDN chung của 2 
HTX cùng sử dụng nước từ một tuyến kênh 
Thực tế vùng dự án, có những công trình thủy 
lợi nhỏ hoặc tuyến kênh phục vụ chung cho 
nhiều TCDN nhưng các công trình này được 
phân cấp cho các TCDN quản lý. Trong trường 
hợp này, nếu các TCDN thực hiện quản lý dựa 
trên địa giới hành chính sẽ dễ dẫn đến sự tranh 
chấp giữa, vì vậy, phương án phù hợp là thành 
lập TCDN chung của các TCDN cùng sử dụng 
nước từ một công trình; các thành viên TCDN 
là những thành viên của 02 HTX có sử dụng 
nước và toàn bộ người sử dụng nước từ công trình 
chung này. Hình thức này đã được áp dụng trong 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 9
trường hợp TCDN Bàu Zôn, được thành lập 
chung giữa 02 HTX Hữu Đức và Hậu Sanh với 
một số thành viên, bao gồm cả BQL, là thành viên 
của 02 HTX và bổ sung thêm các hộ sử dụng nước 
không phải thành viên của 02 HTX tham gia 
TCDN Bàu Zôn. 
Trong tất cả các trường hợp, việc lựa chọn mô 
hình tổ chức sẽ do người sử dụng nước quyết 
định, ít nhất phải được từ 75% số hộ sử dụng 
nước đồng ý. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Thực thi Luật thủy lợi đặt ra yêu cầu củng cố 
một số lượng rất lớn các tổ chức quản lý công 
trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng hiện có 
thành các tổ chức thủy lợi cơ sở vì hầu hết trong 
số 20.034 tổ chức quản lý thủy nông cấp cơ sở 
hiện nay đều có ít nhiều những vấn đề tồn tại 
cần củng cố, như: mô hình chưa phù hợp, chưa 
đủ số lượng thành viên, ban quản lý không do 
người sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi bầu 
ra, trong bối cảnh thời hạn phải hoàn thành là 
03 năm kể từ ngày 01/07/2018. Điều đó tạo ra 
những áp lực nhất định cho các địa phương, vì 
vậy, việc xác định được giải pháp phù hợp là 
nền tảng, định hướng quan trọng cho việc thực 
hiện nhiệm vụ này. 
Để củng cố số lượng lớn các TCDN hiện có 
trong thời gian ngắn không thể chỉ dựa vào sự 
hỗ trợ của các dự án mà cần phải phát huy nội 
lực của địa phương thông qua việc huy động tất 
cả các bên liên quan, bao gồm từ chính quyền 
các cấp, bộ máy quản lý nhà nước về thủy lợi, 
các công ty quản lý thủy nông thuộc khu vực 
nhà nước đến các tổ chức dùng nước hiện có, 
đặc biệt là người sử dụng sản phẩm, dịch vụ 
thủy lợi. Tuy nhiên, do thông tin và hiểu biết về 
các cơ chế, chính sách mới cũng như năng lực 
của các tổ chức dùng nước hiện có còn hạn chế 
nên cần thành lập tổ hỗ trợ thực hiện PIM nhằm 
hỗ trợ các địa phương, thúc đẩy sự tham gia 
giữa các bên trong quá trình thực hiện để thực 
thi các quy định theo đúng nội dung và kế 
hoạch. 
Không có hình mẫu và các giải pháp chung cho 
việc củng cố các tổ chức dùng nước hiện có do 
mỗi tổ chức được hình thành đều gắn với những 
mục tiêu, ý nghĩa và nguyện vọng của các thành 
viên; bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội 
khác nhau. Do vậy, các giải pháp đề xuất có thể 
là kinh nghiệm tốt để tham khảo nhưng mô hình 
và giải pháp phù hợp phải là mô hình, giải pháp 
nhận được sự đồng thuận của các thành viên của 
tổ chức hiện có cũng như các hộ sử dụng sản 
phẩm, dịch vụ thủy lợi trên địa bàn và không 
trái với quy định hiện hành. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Ninh Thuận, 2017, Báo cáo đánh giá 
thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức hợp tác dùng nước. 
[2] Tổng cục Thủy lợi, 2018, Thống kê số lượng đơn vị quản lý công trình thủy lợi cấp xã. 
[3] Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, 2018, Kết quả đánh giá hiện trạng các tổ chức dùng 
nước thuộc Hợp phần “Nghiên cứu, nâng cao năng lực vận hành hệ thống thủy lợi tỉnh Ninh 
Thuận”. 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_cung_co_cac_to_chuc_thuy_loi_co_so_dap_ung_quy_din.pdf