Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy

Tóm tắt: Thổ cẩm là một trong những mặt hàng dệt thủ công truyền thống với sắc màu rực

rỡ bởi kỹ thuật đan kết của sợi tạo nên những dạng thức hoa văn trên bề mặt vải, đã trở thành sản

phẩm mỹ nghệ của nhiều dân tộc thiểu số. Cùng với tiếng nói và chữ viết, hoa văn thổ cẩm cũng

là một trong nét văn hóa đặc trưng của từng tộc người, nó hiện lên không chỉ làm đẹp, thỏa mãn

nhu cầu thẩm mỹ ở dạng nghệ thuật hóa bằng ngôn ngữ tạo hình hay kỹ xảo thể hiện màu sắc hoa

văn mà còn mang tính khoa học, tiềm ẩn một mục đích thông báo về giá trị văn hóa, tinh thần

trong không gian sinh tồn của họ.

Từ khóa: Văn hóa, thổ cẩm, kế thừa, phát huy, Việt Nam

Abstract: Brocade is one of the traditional handicraft items with sprawling colors due to

the weaving technique of fibers, which forms patterns on the fabric surface, has become a fine art

product of many ethnic minorities. Along with the language and writing, brocade pattern is also

one of the cultural characteristics of each ethnic group, it appears not only to beautify, satisfy the

artistic aesthetic needs in visual language or techniques show colors but also scientific, potentially

a purpose of announcing the cultural and spiritual values in their living space.

Keywords: Culture, brocade, inheritance, promotion, Vietnam

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy trang 1

Trang 1

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy trang 2

Trang 2

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy trang 3

Trang 3

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy trang 4

Trang 4

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy trang 5

Trang 5

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy trang 6

Trang 6

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 4740
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy

Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy
14 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 54 (04/2019) 14-20 
GIÁ TRỊ VĂN HÓA THỔ CẨM CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 
KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY 
PREVENTING AND PROMOTING VIETNAMESE PEOPLES’ BROCADE 
PATTERN CULTURAL VALUE 
Đoàn Thị Tình*‡ 
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 8/10/2018 
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/4/2019 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/4/2019 
Tóm tắt: Thổ cẩm là một trong những mặt hàng dệt thủ công truyền thống với sắc màu rực 
rỡ bởi kỹ thuật đan kết của sợi tạo nên những dạng thức hoa văn trên bề mặt vải, đã trở thành sản 
phẩm mỹ nghệ của nhiều dân tộc thiểu số. Cùng với tiếng nói và chữ viết, hoa văn thổ cẩm cũng 
là một trong nét văn hóa đặc trưng của từng tộc người, nó hiện lên không chỉ làm đẹp, thỏa mãn 
nhu cầu thẩm mỹ ở dạng nghệ thuật hóa bằng ngôn ngữ tạo hình hay kỹ xảo thể hiện màu sắc hoa 
văn mà còn mang tính khoa học, tiềm ẩn một mục đích thông báo về giá trị văn hóa, tinh thần 
trong không gian sinh tồn của họ. 
Từ khóa: Văn hóa, thổ cẩm, kế thừa, phát huy, Việt Nam 
Abstract: Brocade is one of the traditional handicraft items with sprawling colors due to 
the weaving technique of fibers, which forms patterns on the fabric surface, has become a fine art 
product of many ethnic minorities. Along with the language and writing, brocade pattern is also 
one of the cultural characteristics of each ethnic group, it appears not only to beautify, satisfy the 
artistic aesthetic needs in visual language or techniques show colors but also scientific, potentially 
a purpose of announcing the cultural and spiritual values in their living space. 
Keywords: Culture, brocade, inheritance, promotion, Vietnam 
1. Văn hóa sắc tộc qua thổ cẩm 
Trên thế giới, một số tộc người như ở 
các nước Đông Nam Á lục địa và hải đảo đều 
có thổ cẩm. Nhưng mỗi nước lại có những sắc 
thái riêng biệt không nhòa lẫn. Ở Việt Nam 
cũng vậy, nhiều dân tộc trong cộng đồng hay 
cùng ngữ hệ trong một nhóm người cũng có 
thổ cẩm, nhưng lại khác nhau tùy vào khu vực 
văn hóa, môi trường địa lý, sinh thái vùng 
miền, mặc dù cùng một công việc tạo tác cho 
*‡Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc 
ra sản phẩm chất liệu vải, và cũng trong một 
chu trình kỹ thuật dệt thủ công: giăng sợi, đan 
sợi trên khung cửi cố định hoặc không cố 
định, con go nhiều hay ít đều chung nguồn 
vật liệu từ sợi bông, lanh, tơ tằm với màu nền 
cơ bản gần giống nhau ở sắc độ thẫm đậm, 
tông màu đen, xanh chàm... Các hoa văn 
trang trí đều hướng tới miêu tả các đối tượng 
hiện thực trong thiên nhiên, đời sống của con 
người mà nó luôn gắn bó với họ. Những hình 
ảnh ấy được cách điệu hóa và trong một quy 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 15 
tắc đồng nhất là tạo hình mặt phẳng, phương 
thức thể hiện bằng đường kỷ hà (thuật ngữ 
mỹ học gọi là hình kỷ hà). Song mỗi sản 
phẩm thổ cẩm ấy lại mang cái hồn cốt riêng, 
bởi phong cách thể hiện đa dạng về hoa văn 
trang trí của tư duy mỹ cảm, ý niệm về thế 
giới tâm linh, sự sáng tạo kỹ thuật cũng như 
trong quá trình giao lưu tiếp biến... đã làm 
nên giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo mang 
biểu trưng của từng tộc người. 
Ví như cách bố cục, nghệ thuật sử 
dụng màu sắc, sự sắp xếp các hình thể, đường 
nét, tạo mảng khối trang trí hoa văn... Ở thổ 
cẩm tộc người Mông Hoa thì sử dụng màu 
chính sắc (xanh lơ, chàm sẫm, tím, đỏ, vàng, 
trắng) độ tương phản mạnh với gam màu 
nóng (đỏ, vàng cam) chủ đạo, tổ hợp hoa văn 
đối xứng trong dải băng ngang dọc, xen kẽ 
giữa mảng lớn, bé kế tiếp, chồng chất lên 
nhau tạo khối dày, đậm với các mô típ hoa 
văn tiêu biểu: hình con cua, con ốc (biểu 
tượng cho sấm chớp); chữ vạn (卐), sao 8 
cánh, hoa cúc (biểu tượng của mặt trời); hoa 
tỏi (tỏi vừa là gia vị, vừa là thuốc chữa bệnh 
và theo quan niệm của người Mông, mùi 
hương của tỏi còn có thể trị tà ma); hình chữ 
thập (+), chữ (x) tượng trưng cho sừng trâu 
(trâu là con vật không chỉ gắn với đời sống 
nông nghiệp của con người trong sự sinh tồn, 
mà còn là biểu tượng cho sự vận hành của mặt 
trăng - mang tính âm dương - sự sinh sôi phát 
triển... Đặc biệt là đồ án hình tròn, hình xoáy 
ốc được biến thể tạo hình móc đối xứng của 
trụ quay hình chữ S (là sự biến chuyển của 
mặt trời, thời tiết trong không gian vũ trụ)... 
Những dạng hình tròn với sự biến ảo 
của sắc màu đỏ, vàng, gây cảm giác rực rỡ lan 
tỏa sưởi ấm cho thị giác nơi vùng cao sương 
giá, đã trở thành một ngôn ngữ nghệ thuật tạo 
hình đậm sắc tộc của thổ cẩm này. 
- Thổ cẩm của người Mường lại sử 
dụng màu nguyên (tím, trắng, đen, đỏ, vàng, 
xanh) như một sự chuyển tiếp lẩn chìm làm 
đường biên, tạo nhịp điệu cho tổng thể đồ án 
hoa văn và lấy gam trầm làm chủ đạo. 
Ngoài các mô típ hoa văn thường gặp 
như hoa móc, sao 8 cánh, quả trám; các động 
vật rồng, phượng, gà lôi, con nhện... gắn với 
đời sống cả về quan niệm tâm linh, còn có 
những hoa văn mang nhiều ý nghĩa quan hệ 
với thơ ca và văn học dân gian: 
"Hươu đứng dưới b ...  lại được chắp nối khớp nhau trên 
các đường thẳng song song, hoặc bố cục cân 
xứng trong cách phối màu tương phản nhưng 
rất hài hòa. Đặc biệt màu xanh lá cây (xanh 
lục) bên cạnh màu trắng, màu hồng cứ mơn 
mởn như những chồi non vươn trào sức sống 
của con người, hòa với cảnh sắc thiên nhiên 
nơi non ngàn tươi đẹp. 
- Thổ cẩm của người Chăm: Tuy sử 
dụng năm màu cơ bản (trắng, đen, đỏ, vàng, 
xanh) nhưng lại cho ta một bảng màu đa sắc 
phong phú. Với cách bố cục của đồ án hoa 
văn, kết nối là dải, nhưng nó được phân chia 
ra từng ô, có đường ngang, dọc giữa các đồ 
án như hoa văn quả trám, hạt lúa, đường zích 
zắc, răng cưa (tượng trưng cho sông nước) 
gắn với việc trồng lúa nước; hình mỏ neo, mắt 
lưới (nghề đi biển); hoa văn hình sao 8 cánh 
(thờ thần mặt trời). Hoa văn chim thần 
Garuda, Makla (mang biểu tượng tôn giáo Bà 
La Môn), hình lá hay đuôi ngỗng thần (trong 
kiểu thức Ăngko). Các hoa văn động vật 
phong phú: rồng, phượng, chim trĩ, công, con 
voi... trong đồ án trang trí đối xứng, đăng đối 
nhưng xếp so le ở dạng hình thoi liên kết trên 
nền màu đỏ, trắng đen dàn trải tạo nhịp điệu 
chỗ thưa, chỗ mau khắp bề mặt của cách phân 
hai mảng màu đối lập giữa hai gam nóng và 
lạnh. Nóng (dương), lạnh (âm), màu sắc đối 
chọi giữa nền và hoa văn còn thể hiện tính 
phồn thực của văn hóa Chăm. 
Nghệ thuật phối màu trên vải này đã 
làm nên độ hài hòa, mặc dù là sử dụng gam 
nóng (đỏ, vàng) nhưng bên cạnh lại bật lên 
màu sắc trắng óng ánh của chỉ kim tuyến tạo 
cho thổ cẩm mang tính huyền bí, sâu lắng gợi 
tới không gian kiến trúc đền, tháp và cái chói 
lòa của nắng biển cát trắng miền Trung. 
- Thổ cẩm một số tộc người Tây 
Nguyên: Thổ cẩm nơi đây, ta bắt gặp dạng bố 
cục thành dải quen thuộc, khá phổ biến ở 
nhiều thổ cẩm trong và ngoài nước. Tuy có 
nét tương đồng, nhưng lại hoàn toàn khác về 
phong cách trang trí xếp hoa văn theo dải 
ngang, với các hình được giản lược trong cấu 
trúc đồ án trang trí nét và mảng như các hoa 
văn: hạt dưa, cái rìu, mũi tên, gùi, cối giã gạo, 
chiêng ché, chim đại bàng, con rùa, voi, 
bướm... Hoặc các tổ hợp hình học: "Hla pơi" 
là hình lá quạt gồm bốn hình tam giác xếp lại 
với nhau (giống hình chong chóng), "Ngkao 
kờn tờp" gồm nhiều hình tam giác nhỏ nằm 
gối lên nhau (mô phỏng mảng cườm trên cổ 
con chim cu gáy), "Klồng loốp" là những 
hình quả trám có dạng to, nhỏ liên kết đặt 
lồng gợi khối (rỗng), mô phỏng con kỳ đà... 
Các chi tiết hình học được phối hợp thành dải 
băng ngang, dọc, dày, mỏng. Trong những 
dải băng lớn thường có nhiều mô típ trang trí 
được xếp theo ô vuông hoặc chéo, phân cách 
chúng là những đường kẻ chỉ màu chạy song 
song. Trên nền đen, đôi khi là trắng; lấy màu 
đỏ chủ đạo, màu trắng đan xen, màu vàng làm 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 17 
đường viền... Trong bảng màu chung cơ bản, 
song cách phối màu với liều lượng phân bổ 
khác nhau: 
Thổ cẩm của Ba Na: hút sắc đỏ nóng 
rực vào nền đen, tạo độ đậm ấm, sâu lắng. 
Thổ cẩm của Gia Rai: dùng màu 
trắng, vàng để bật lên độ tươi sáng, thoáng 
nhẹ. 
Thổ cẩm Ê Đê: có bố cục cân đối giữa 
màu đỏ và đen cho sự vững chãi về mảng. 
Cách bố cục dải cũng vậy, tùy vào 
thị hiếu thẩm mỹ mà có sự thể hiện đậm 
đặc, nhẹ nhàng hay đan xen giữa dải đơn 
thuần chỉ là màu và dải có trang trí đồ án 
họa tiết hoa văn. 
Nhìn chung, thổ cẩm Tây Nguyên, 
đặc biệt là cấu tạo dải ngang, màu sắc không 
chói chang rực rỡ, nhưng tinh tế về cách phối 
màu trong tổng thể nhịp điệu của đồ án trang 
trí; bố cục có trọng điểm, nhẹ thoáng, vui 
mắt, mang lại sự khỏe khoắn, khoáng đạt của 
thẩm mỹ con người nơi cao nguyên đất đỏ, ẩn 
tàng nhiều sản vật, giàu sức sống của đại 
ngàn. 
Vài nét phác họa thổ cẩm của một số 
tộc người, còn nhiều nữa thổ cẩm của cộng 
đồng 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên 
dải đất hình chữ S, đã kết tinh trí tuệ từ cuộc 
sống lao động. Với bàn tay khéo léo, sự cảm 
thụ thẩm mỹ của tâm hồn, cùng nhân sinh 
quan trong thế giới thiên nhiên, có giá trị văn 
hóa riêng biệt độc đáo, hòa vào sắc màu rực 
rỡ trong vườn hoa di sản của văn hóa mỹ 
thuật dân tộc Việt Nam. 
2. Thổ cầm truyền thống trong mỹ 
thuật ứng dụng hiện đại 
Như sự dẫn giải ở trên, nhận biết 
chung về thổ cẩm, nó đã vượt lên tính năng 
của sản phẩm thực dụng, trở thành những tác 
phẩm nghệ thuật tạo hình dân gian, hàm chứa 
trong đó những giá trị văn hóa tộc người, 
mang đặc trưng của xã hội văn minh mà nó 
đại diện. 
Trước đây, giá trị mỹ thuật cũng như 
giá trị sử dụng sản phẩm thổ cẩm chỉ trong 
phạm vi tộc người, nhóm và gia đình; mang 
tính tự cung, tự cấp cho cái mặc (áo, quần, 
váy, khố...), đồ dùng sinh hoạt (chăn, gối, mũ, 
khăn...), một phần phục vụ cho tâm linh, làm 
hàng hóa trao đổi, vật phẩm quà tặng... 
Ngày nay, thổ cẩm của cộng đồng các 
dân tộc nói chung, đã vượt ranh giới địa phận 
bản làng, không những mở rộng ở phạm vi 
vùng miền trong nước hay khu vực, mà con 
vươn xa đến một số địa danh của Châu lục, 
có mặt trên thị trường thời trang thế giới. Nó 
đã đóng vai trò quan trọng trong sự giao lưu 
văn hóa và phát triển kinh tế của xã hội, cũng 
như cầu nối giữa nghiên cứu với sáng tạo để 
tới nghệ thuật thiết kế sản phẩm mang giá trị 
thẩm mỹ và công năng cao; đáp ứng nhu cầu 
thị hiếu của con người, trong đời sống công 
nghiệp phát triển mang tính toàn cầu hóa hiện 
nay. 
Với tính năng của vật liệu từ sợi tự 
nhiên, cho độ bền đẹp, thoáng, cùng ngôn 
ngữ nghệ thuật tạo hình phong phú, đa dạng 
về bố cục, mảng khối, đường nét, họa tiết hoa 
văn trang trí... Thổ cẩm đang được khai thác 
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của thiết kế 
hiện đại. Các sản phẩm dân dụng, đồ chơi trẻ 
em, đồ lưu niệm, vào trang trí nội, ngoại thất, 
kiến trúc, thiết kế đồ họa, bìa sách, lô gô, sự 
kiện, tranh thổ cẩm (thư pháp, sơn dầu, 
thêu...). 
Một trong lĩnh vực của ngành mỹ 
thuật ứng dụng, có mối tương tác với thổ cẩm 
trong quy luật sáng tạo của cái đẹp tôn vinh 
con người, đó là mỹ thuật trang phục. 
Đã bao đời nay, từ thổ cẩm mà cộng 
đồng các dân tộc Việt Nam đã tạo dựng cho 
mình những bộ trang phục truyền thống độc 
đáo đậm sắc tộc, mỗi bộ một vẻ, có bộ nền nã 
nhẹ nhàng, đơn giản từ hình thức đến màu sắc 
(như trang phục phụ nữ Tày, Nùng, Ê Đê, Ba 
Na...). Có bộ lại rực rỡ, mang nhiều chi tiết 
18 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
rất đa dạng phong phú, gây ấn tượng mạnh 
(như trang phục phụ nữ Pà Thẻn, Dao Đỏ, Lô 
Lô, Mông...) đang hiện hữu và vẫn tiếp tục 
duy trì sự trao truyền ấy. 
Ngoài kiểu dáng, màu sắc và bố cục 
cộng hưởng để làm nên cái dấu ấn của sắc 
phục tộc người mang những thông điệp có 
sức truyền cảm bằng ngôn ngữ hình tượng 
nghệ thuật thì phải kể đến thành tố hoa văn. 
Hoa văn thổ cẩm là nguồn cảm hứng vô tận 
cho các nhà thiết kế trang phục hiện đại 
không những ở trong nước mà cả nhiều nhà 
thiết kế nước ngoài của châu Á, châu Âu cũng 
đều say mê ngợp trào cảm xúc trước kho tàng 
tiềm năng giàu có của họa tiết hoa văn chứa 
đựng những dấu ấn văn hóa đặc trưng này. 
Họ đã bắt gặp tính nhân văn, những giá trị 
thẩm mỹ tương đồng về cá tính sáng tạo, tính 
ứng dụng đa chiều để đưa cái đẹp truyền 
thống vào cuộc sống hiện đại, mang một 
phong cách mới, với những ý tưởng mới trên 
bình diện rộng cả về không gian và thời gian, 
phổ cập nhiều đối tượng, thị trường tiêu dùng 
mang đến sự hài hòa giữa lý trí và cảm xúc 
của đối tượng sáng tạo và đối tượng cảm thụ 
cùng thăng hoa. 
Dưới góc độ của mỹ thuật, với nhiều 
phương thức ứng dụng: kết hợp giữa chất liệu 
cùng kỹ thuật hiện đại, hoặc tích hợp một vài 
bố cục về màu sắc hay các đồ hình hoa văn 
đặc trưng của thổ cẩm, để làm phong phú cho 
các thể loại trang phục, phù hợp với mọi lứa 
tuổi. Từ tà áo dài truyền thống của người 
Kinh (cách tân), đến áo, váy quần kiểu châu 
Âu, trang phục công sở, thể thao, dạ hội; các 
phụ trang: túi sách, giày, đai lưng cùng các 
bộ sưu tập trên sàn diễn thời trang trong và 
ngoài nước...Thổ cẩm trở thành nhân tố phổ 
biến, nhập vào với xu hướng thời trang quốc 
tế, hòa trộn nhiều họa tiết, (mixed prints), hay 
đối lập về màu sắc để tạo độ nhấn tương phản 
bắt mắt... Ta có thể thấy những nét chấm phá 
hay đậm đặc của nó ở bất cứ nơi đâu trên thị 
trường thời trang giữa thời hiện đại. 
Thổ cẩm đã góp phần vào sự phát 
triển của thời trang nói chung và trang phục 
hiện đại nói riêng. Trên cơ sở những thế mạnh 
vốn có của hoa văn thổ cẩm truyền thống 
trong sự biến tấu linh hoạt, sống động tương 
thích với nhu cầu phát triển về cái mặc của 
con người. Đồng thời nó đã mang lại cho 
trang phục hiện đại một giá trị thẩm mỹ mới 
mẻ, độc đáo về phong cách, có tính kế thừa, 
phát huy nhưng vẫn mang hơi thở của thời 
đại. 
Vẻ đẹp của trang phục hiện đại còn 
mang trong nó việc bảo tồn di sản văn hóa thổ 
cẩm làm phong phú tinh thần cảm xúc trong 
mối tổng hòa giữa con người với môi trường 
thiên nhiên, con người với văn minh, văn hóa 
và sự phát triển kinh tế của đời sống xã hội. 
3. Một số ý kiến gợi mở 
Hoa văn trang trí của thổ cẩm là 
những nét riêng độc đáo, mang tín hiệu biểu 
trưng trên trang phục, bằng ngôn ngữ nghệ 
thuật tạo hình, hàm chứa những giá trị biểu 
tượng thông tin về lịch sử, văn hóa, nó luôn 
ẩn tàng sức sống trong tâm thức của mỗi tộc 
người. 
Trong đời sống hôm nay, trang phục 
là một trong những hoạt động văn hóa sôi 
động bằng những con đường thông qua hội 
nhập, gia thương, quảng bá du lịch... Qua đó 
mà những đặc trưng về văn hóa để thế giới 
biết đến đất nước con người Việt Nam là ở 
những sản phẩm trang phục. Ngoài trang 
phục truyền thống thì trang phục hiện đại, lấy 
ý tưởng từ hoa văn thổ cẩm của các dân tộc 
thiểu số, ứng dụng cho những thiết kế mới đã 
thu hút được thị trường thời trang. Từ thực 
tiễn trong cuộc sống thường nhật, trên sàn 
diễn hội chợ triển lãm, đến nơi kinh đô thời 
trang thế giới, các bộ sưu tập đầy ấn tượng 
với các tác phẩm dành được giải thưởng quốc 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 19 
tế, đậm sắc thái Á Đông - Việt Nam. Nhiều 
sản phẩm may mặc được đánh giá cao về sự 
tinh tế, khác biệt, mới lạ mang sức hấp dẫn 
trong xu hướng chung tìm về truyền thống. 
Bên cạnh đó nó cũng góp phần cho sự tăng 
trưởng kinh tế của đất nước. 
Tuy nhiên, để bảo tồn và giữ gìn phát 
huy được những di sản văn hóa thổ cẩm 
truyền thống của từng tộc người, trong xu 
hướng biến đổi hiện nay, cần có những định 
hướng mang tính bền vững như nguồn vật 
liệu: trước kia, đồng bào thường dành những 
mảnh đất màu mỡ nhất để trồng bông, đay, 
lanh... lấy sợi dệt thành thổ cẩm. Chất vải này 
nó có cái đẹp tự thân, trong sản phẩm đồ mặc, 
làm lợi cho sức khỏe con người, thân thiện 
với môi trường. Phẩm màu thiên nhiên với 
sợi chỉ tơ tằm óng mượt, tiếp nhận ánh sáng 
mặt trời - tạo nên hiệu ứng chuyển màu đa 
sắc, cùng bàn tay khối óc tài hoa, tinh khéo, 
sáng tạo đầy biểu cảm của con người. 
Sợi công nghiệp hiện nay ngày càng 
phát triển, ta phải thừa nhận mặt tích cực của 
nó đối với sản phẩm mỹ thuật ứng dụng, đã 
làm cho các mặt hàng thêm phong phú, đa 
dạng. Đặc biệt là công lao động ít, nhanh, giá 
thành rẻ so với hàng dệt thủ công với chất liệu 
truyền thống. Song cái "giá đắt" của những 
bất cập cũng không phải là nhỏ - nếu không 
có sự tham gia đồng tâm hiệp lực liên ngành, 
liên cấp, cân bằng về chính sách quy hoạch, 
đãi ngộ cũng như việc đào tạo lớp người kế 
cận cho nghề dệt thủ công. Bên cạnh đó, cũng 
cần có đội ngũ nghiên cứu, hệ thống khoa học 
giải mã những giá trị văn hóa của kho tàng 
hoa văn này, cung cấp những hiểu biết nhất 
định cho đội ngũ sáng tạo, sản xuất cũng như 
người tiêu dùng, thì liệu thổ cẩm truyền thống 
Việt Nam có còn duy trì và phát triển? 
Vì đang diễn ra hiện tượng: đến các 
phiên chợ hay một số lễ hội vùng cao, ta bắt 
gặp không ít những bộ trang phục của bà con 
(đa phần là người trẻ) thường mặc, thoáng 
nhìn về phom dáng khá là "truyền thống" 
nhưng sử dụng chất vải "thổ cẩm" thêu máy 
lập trình công nghiệp hoa văn mới lạ với chỉ 
kim tuyến lóng lánh, bảng màu pha tạp như 
vàng chanh "chát chúa", xanh lơ cô ban (gam 
lạnh) lấn át, làm nhạt nhòa sắc màu ấm đậm, 
chiều sâu tinh tế vốn có đặc trưng của thổ cẩm 
từng tộc người. Hoặc hoa văn thổ cẩm của 
dân tộc này lại lắp ghép tùy tiện vào trang 
phục của tộc người khác, làm khó khăn cho 
việc tìm hiểu giá trị mạch nguồn văn hóa, tính 
thẩm mỹ nguyên bản của nó. 
Thổ cẩm là một phần không thể thiếu 
trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng 
bào các dân tộc, nó thuộc lĩnh vực văn hóa, 
có vai trò quan trọng góp vào sự đa dạng văn 
hóa cộng đồng. Vì vậy, việc bảo tồn các giá 
trị di sản văn hóa thổ cẩm cần đặc biệt quan 
tâm toàn diện hơn nữa, để thổ cẩm truyền 
thống của từng vùng miền, địa phương, tộc 
người vốn dĩ đã đẹp lại càng hoàn mỹ hơn 
trong bức tranh văn hóa chung của Việt Nam. 
Và đó cũng là thực hiện tiêu chí có tính nhân 
loại trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu về văn 
hóa mà UNESCO quan tâm: "giáo dục", 
"biến đổi khí hậu", "đa dạng văn hóa" - mà đa 
dạng văn hóa là sự sinh tồn của văn hóa trong 
mỗi quốc gia./. 
Tài liệu tham khảo: 
1. Diệp Trung Bình (1997), Hoa văn trên vải các 
dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam, 
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
2. Diệp Trung Bình (2005), Hoa văn trên vải 
Dân tộc HMông, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
3. Từ Chi (2004), Góp phần tìm hiểu văn hóa tộc 
người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
4. Bế Viết Đẳng (2006), Dân tộc học Việt Nam - 
Định hướng thành tựu nghiên cứu (1973 - 1998), 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
5. Đỗ Thị Hòa (2003), Trang phục các dân tộc 
thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày - 
Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
20 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
6. Hải Liên (2001), Trang phục cổ truyền Raglai, 
Nxb Đại học quốc gia. 
7. Hoàng Lương (1988), Hoa văn Thái, Nxb Văn 
hóa dân tộc, Hà Nội. 
8. Hoàng Thị Mong, Ma Thị Tiên (1994), Trang 
trí dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
9. Linh Nga Nie Kdam (2010), Nghề thủ công 
truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên, Nxb 
Văn học. 
10. Nhiều tác giả (1984), Các dân tộc ít người ở 
Bình Trị Thiên, Nxb Thuận Hóa. 
11. Nhiều tác giả (2012), Người Gia Rai ở Tây 
Nguyên, Nxb Thông tấn. 
12. Lò Văn Sủn (2001), Hoa văn thổ cẩm, Nxb 
Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
13. Chu Thái Sơn chủ biên(2000), Hoa văn cổ 
truyền Dăclăk, Nxb Khoa học Xã hội. 
14. Lê Ngọc Thắng - Lâm Bá Nam (1990), Bản 
sắc văn hóa các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa 
dân tộc, Hà Nội. 
15. Lê Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang 
phục Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
16. Đoàn Thị Tình (2017), Tính dân tộc trong 
trang phục sân khấu, Nxb Sân khấu, Hà Nội. 
17. Trần Từ (1996), Hoa văn Mường ở Hòa 
Bình, Nxb Thời đại, Hà Nội. 
Địa chỉ tác giả: Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn 
và phát huy văn hóa dân tộc 
Email: havt68@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_van_hoa_tho_cam_cac_dan_toc_viet_nam_ke_thua_va_phat.pdf