Giá trị của các ca khúc viết về Thanh Hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa quê hương đất nước
Phát triển văn hóa Việt Nam theo tinh thần Đại hội của Đảng
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất,
cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nền tảng
đó đã giúp cho nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm
lược, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
ta đã đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về văn hóa, được thể hiện thông qua các chỉ
thị, nghị quyết, nhất là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa
XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước”.
Kế thừa các quan điểm trước đây về phát triển văn hóa, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII đã nêu tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Tại văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII cũng
đã chi tiết hóa “Tạo điều kiện thuận lợi để văn học nghệ thuật tỉnh nhà phát triển; khuyến
khích các văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, xứng đáng với tầm vóc và bề dày
lịch sử, văn hóa của mảnh đất, con người xứ Thanh”[1, tr 89].
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của các ca khúc viết về Thanh Hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa quê hương đất nước
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI GIÁ TRỊ CỦA CÁC CA KHÖC VIẾT VỀ THANH HÓA TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA QUÊ HƢƠNG ĐẤT NƢỚC (Tiếp theo và hết) Nhạc sĩ.GVC. Đoàn Dũng1 3. Phát triển văn hóa Việt Nam theo tinh thần Đại hội của Đảng Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nền tảng đó đã giúp cho nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về văn hóa, được thể hiện thông qua các chỉ thị, nghị quyết, nhất là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Kế thừa các quan điểm trước đây về phát triển văn hóa, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nêu tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tại văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII cũng đã chi tiết hóa “Tạo điều kiện thuận lợi để văn học nghệ thuật tỉnh nhà phát triển; khuyến khích các văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, xứng đáng với tầm vóc và bề dày lịch sử, văn hóa của mảnh đất, con người xứ Thanh”[1, tr 89]. Quá trình xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật như: văn hóa đã được Đảng, Nhà nước quan tâm đúng mức trong các chính sách kinh tế - xã hội; quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người và những đặc trưng của văn hóa, đặc tính của con người Việt Nam được xác định đầy đủ hơn; vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa được đề cao. Hệ thống thể chế, thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từng vùng, miền được kế thừa và có bước khởi sắc, nhất là trong điều kiện hội nhập, giao lưu văn hóa với thế giới. Nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo; xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới; nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được quan tâm đầu tư gìn giữ; nhiều tác phẩm về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới đất nước có chất lượng tốt. Bởi vậy, những năm qua, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, “bước đầu hình 1 Khoa Âm nhạc - Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa 47 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên”[2, tr 123]. Tuy nhiên, so với các lĩnh vực khác, việc đầu tư phát triển và thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, còn dàn trải. Điều đó đã làm cho “đời sống văn hóa, tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị còn nhiều khoảng cách. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao”[2, tr 125]. Đáng chú ý là, “hệ thống thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”[2, tr 125]... Để khắc phục tình trạng đó và đảm bảo cho văn hóa phát triển, Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian tới. Đây là định hướng hết sức quan trọng cần được quán triệt, thống nhất nhận thức về một số vấn đề chủ yếu sau: Một là, nắm vững tư tưởng chỉ đạo phát triển văn hóa Kế thừa, phát triển quan điểm chỉ đạo, những định hướng lớn của Đảng và tình hình phát triển văn hóa Việt Nam thời gian qua, văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [2, tr 126]. Hai là, thống nhất nhận thức về mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam Mục tiêu trước mắt là, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa; làm cho văn hóa tham gia tích cực vào thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng những giá trị văn hóa mới đi đôi với việc mở rộng giao lưu quốc tế. Nâng cao mức hưởng thụ, tham gia hoạt động, sáng tạo văn hóa của nhân dân; từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tăng cường đầu tư của Nhà nước, nâng cao tỷ lệ ngân sách cho văn hóa, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa; coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững. Mục tiêu lâu dài là, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng môi trường, lối sống văn hóa; phát huy tinh thần tự nguyện, tự chủ, sức sáng tạo, vai trò chủ thể văn hóa của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng về bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phát huy tiềm năng, 48 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, sáng tác những tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu phản ánh sức sống của nền văn hóa mới. Ba là, quán triệt, thực hiện tốt nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo; giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán. Để làm được điều đó, cần quán triệt, thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp mà Đại hội XII đã nêu lên, đó là: xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống; xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế; làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa; chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa; đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa... Bốn là, tích cực đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái thù địch trên lĩnh vực văn hóa Hiện nay, trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, thậm chí phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trong sáng tác và lý luận, phê bình văn hóa, nghệ thuật, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan... Bởi vậy, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, nhất là trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đấu tranh với quan điểm sai trái và mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng văn hóa để chống Đảng và chế độ ta. Phát triển nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là mục tiêu xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nắm vững tinh thần đó, trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc, ca khúc với những ưu thế của mình đó là có thể cập nhật nhanh, đa dạng những nội dung, vấn đề mang tính thời sự, có sự lan tỏa mạnh đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 4. Giải pháp phát huy giá trị các ca khúc viết về Thanh Hóa phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa quê hƣơng đất nƣớc Trong quá trình thực tế đi khảo sát để thu thập các ca khúc viết về Thanh Hóa cho thấy, trước năm 1965 hầu như chưa có sáng tác mới nào ở thể loại ca khúc. Sau sự kiện lịch sử, chỉ trong 2 ngày 03 và 04/4/1965, lưới lửa phòng không của quân dân Hàm Rồng - Nam 49 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Ngạn đã thiêu rụi 47 máy bay hiện đại của đế quốc Mỹ thì xứ Thanh nói chung và một số địa danh nổi tiếng trong tỉnh mới được giới thiệu, được ca ngợi qua nhiều phương tiện, loại hình nghệ thuật, trong đó ca khúc đã phát huy được vai trò, ưu điểm của mình trong việc giới thiệu, làm lan tỏa một cách nhanh nhất hình ảnh con người và quê hương với bạn bè trong và ngoài nước. Thông qua các ca khúc, những tấm gương anh dũng như Ngô Thị Tuyển, Nguyễn Bá Ngọc, các cụ lão dân quân Hoằng Trường (Hoằng Hóa) và các danh lam, di tích lịch sử như biển Sầm Sơn, biển Nghi Sơn, sông Mã, Hàm Rồng, vườn quốc gia Bến En, khu Di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh được khắc họa qua giai điệu âm nhạc kết hợp với lời ca, đã được hát vang khắp mọi miền, kéo dài theo năm tháng, góp phần thúc dục tinh thần anh dũng của các chiến sĩ trong chiến đấu bảo vệ, giải phóng đất nước và động viên tinh thần hăng say, khám phá, sáng tạo trong xây dựng quê hương giàu đẹp. Thông qua các ca khúc và các loại hình văn hóa, nghệ thuật khác, bạn bè trong và ngoài nước đã biết đến Thanh Hóa, biết đến Việt Nam nhiều hơn. Từ năm 1965 đến năm 2018, đã có khoảng gần 1000 ca khúc (không tính các bài viết về các thôn xóm, phố, hội, nhóm) viết về các huyện, thị xã, thành phố, về các ngành nghề, lực lượng vũ trang, ca ngợi tấm gương các anh hùng, các địa danh, danh lam thắng cảnh tại Thanh Hóa và mới đây là ca ngợi về phong trào xây dựng “Nông thôn mới”. Có thể nói, số lượng và chất lượng các bài hát còn khiêm tốn so với một tỉnh đất rộng người đông, có nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích và bề dày lịch sử trong các cuộc kháng chiến nhưng đó cũng là một kho tàng sáng tác về nghệ thuật có giá trị của các nhạc sĩ chuyên và không chuyên, trong và ngoài tỉnh, đã gửi gắm những tình cảm của mình với đất và người quê Thanh. Tuy nhiên, việc lưu giữ, hệ thống các bản nhạc, CD, DVD tại các địa phương, đơn vị chưa tốt, phần lớn bị thất lạc, chỉ được biết qua truyền miệng, thậm chí không biết ai sáng tác, kể cả ở các đơn vị được xem là có truyền thống về phong trào văn hóa, văn nghệ, nhiều năm tham dự liên hoan, hội diễn nghệ thuật trong và ngoài tỉnh luôn đạt giải cao, nhưng khi cần tìm bản nhạc viết về chính đơn vị mình thì không có Vẫn còn một vài nơi chưa thực sự quan tâm tới đời sống tinh thần của cán bộ nhân dân, ví dụ như, trong một thời gian dài, qua nhiều nhiệm kỳ lãnh đạo, có rất nhiều thành tích đáng tự hào cần quảng bá, giới thiệu nhưng đơn vị đó chưa mời nhạc sĩ tới viết bài, để mỗi khi cần tổ chức sự kiện của đơn vị hoặc giao lưu văn hóa với các đơn vị khác thì chỉ biết lấy các bài hát viết chung về quê hương để hát Để phát huy giá trị của các ca khúc viết về Thanh Hóa trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa quê hương đất nước ngày nay, tác giả bài viết xin được đưa ra một số đề xuất, giải pháp sau: Thứ nhất, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (VH,TT&DL TH) phối hợp với Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) Thanh Hóa giao trách nhiệm cho một bộ phận quản lý về mặt nhà nước phụ trách mảng văn hóa phi vật thể. Thứ hai, Cần phải hoàn thiện danh mục các bài hát viết về Thanh Hóa. Hàng năm, danh mục phải được cập nhật, bổ sung (nguồn bổ sung do Ban âm nhạc Hội VHNT, Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam, các tác giả sáng tác cung cấp). 50 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Thứ ba, Ban âm nhạc Hội VHNT, Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam tại Thanh Hóa và Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa hàng năm phối hợp mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sáng tác âm nhạc cho hội viên chuyên ngành sáng tác nhằm nâng cao chất lượng sáng tác âm nhạc. Lập trang Website của Ban âm nhạc nhằm trao đổi nghiệp vụ sáng tác; công bố, giới thiệu tác phẩm mới. Thứ tư, Đề xuất với Ban âm nhạc Hội VHNT Thanh Hóa, Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam tại Thanh Hóa phối hợp với các địa phương, các sở, ban, ngành trong tỉnh tổ chức cho các nhạc sĩ đi thực tế cơ sở để viết bài. Hàng năm, Hội VHNT phối hợp với Sở VH,TT&DL TH và các huyện, thị xã, thành phố, các cơ quan đơn vị tổ chức sáng tác, viết bài nhân kỷ niệm thành lập; Tổ chức hội thi, liên hoan văn nghệ cấp huyện, thị, thành phố, các sở, ban, ngành trong tỉnh, trong đó phải có quy chế về nội dung chương trình của mỗi đơn vị, có tỉ lệ nhất định về ca khúc viết về Thanh Hóa và có điểm khuyến khích các đơn vị thực hiện, trừ điểm các chương trình không đảm bảo nội dung theo quy chế hội thi, liên hoan... Thứ năm, Hội đồng nghệ thuật của tỉnh (gồm đại diện: cán bộ quản lý Nhà nước về lĩnh vực VHNT, nhạc sĩ sáng tác âm nhạc, nhà lý luận phê bình âm nhạc, ca sĩ đại diện các dòng nhạc, đạo diễn âm nhạc) hàng năm tổ chức lựa chọn các ca khúc có chất lượng, lập danh mục, báo cáo Sở VH,TT&DL TH, Sở Giáo dục và Đào tạo, Tỉnh đoàn để đưa bài hát viết về Thanh Hóa vào các hoạt động của Đoàn Thanh niên; hoạt động tại các trường học; đưa vào danh mục bài hát tại các điểm Karaoke trên địa bàn toàn tỉnh; Cần có quy định về tỷ lệ ca khúc viết về xứ Thanh trong các hội diễn, liên hoan văn nghệ, hát về quê hương, trong các sự kiện lớn của tỉnh. Thứ sáu, Các phòng văn hóa, trung tâm văn hóa huyện, thị, thành phố, phường, xã, phố, thôn dành thời lượng phát sóng hàng ngày để giới thiệu các ca khúc đã được Hội đồng nghệ thuật tỉnh lựa chọn hàng năm; Triển khai giới thiệu các ca khúc viết về quê hương, về các phong trào trong địa phương, đơn vị. Thứ bảy, Ngành Du lịch, Hiệp hội Du lịch, công ty du lịch, trung tâm tổ chức sự kiện trong tỉnh lựa chọn sử dụng sản phẩm sáng tác có chất lượng, đã được hội đồng nghệ thuật, công chúng thừa nhận để đưa vào phục vụ các tour du lịch (đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không), phát sóng giới thiệu tại điểm du lịch, các bãi biển theo khung giờ phù hợp... Thứ tám, Phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình Thanh Hóa hàng tháng phát chương trình giới thiệu tác phẩm mới viết về quê hương Thanh Hóa. 5. Kết luận Là một tỉnh đất rộng người đông, có đủ các vùng địa lý (miền núi, đồng bằng, miền biển), hiện nay Thanh Hóa đang trong thời kỳ thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII mà mục tiêu là phấn đấu xây dựng thành tỉnh kiểu mẫu như lời Bác Hồ hằng mong muốn. Với nhiệm vụ ca ngợi tinh thần anh dũng của quân và dân ta trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; tuyên truyền chủ trương chính sách, quảng bá hình ảnh quê hương, đất nước với bạn bè trên thế giới; động viên tinh thần học tập, lao động sáng tạo trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa quê hương đất nước hiện nay, cùng 51 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI với nhiều phương tiện thông tin đại chúng, nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật, ca khúc đã và đang phát huy tốt vai trò của mình, điều đó đã được được khẳng định bởi rất nhiều bài hát đã đi cùng năm tháng, đi cùng lịch sử oai hùng của dân tộc. Tài liệu tham khảo [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII, Nxb Thanh Hóa, 2015, tr. 89. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2016, tr.123 - 126. [3]. Đỗ Hồng Lâm, “Phát triển văn hóa Việt Nam theo tinh thần Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, ngày 10/2/2017. [4]. Sở Văn hóa Thông tin - Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa (2003), Nửa thế kỷ ca khúc xứ Thanh, Nxb Âm nhạc. [5]. Hội nhạc sĩ Việt Nam (2005), 30 năm ca khúc Việt Nam, Nxb Âm nhạc. Người phản biện: TS. Đỗ Thị Thanh Nhàn (ngày nhận bài 14/8/2018; ngày gửi phản biện 24/8/2018; ngày duyệt đăng 15/9/2018). 52
File đính kèm:
- gia_tri_cua_cac_ca_khuc_viet_ve_thanh_hoa_trong_su_nghiep_co.pdf