Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan

Hiện nay già hóa dân số là xu hướng biến

đổi dân số mạnh mẽ nhất, ước tính người cao

tuổi (NCT) trong tổng dân số thế giới sẽ tăng

từ 10% (năm 2010) đến 25% (năm 2050).¹ Số

liệu thống kê cho thấy, hiện nay Việt Nam có

khoảng 10,2% dân số ở độ tuổi trên 60 tuổi,

tương đương với gần 10 triệu người.2

Già hóa dân số nhanh ảnh hưởng trực tiếp

đến mọi khía cạnh cuộc sống của NCT, kéo

theo đó những thách thức về kinh tế và xã hội.

Vì vậy già hóa chủ động chính là giải pháp cho

vấn đề này. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đang

thúc đẩy các chính sách nhằm tăng quá trình

già hóa chủ động - được hiểu là quá trình tối

ưu hóa các cơ hội về sức khỏe, điều kiện sống

và làm việc để NCT tiếp tục cống hiến và cải

thiện chất lượng cuộc sống.3 Khái niệm về già

hóa chủ động nhấn mạnh sự bình đẳng, đoàn

kết và công bằng xã hội, nhận ra ý nghĩa quan

trọng của giới khi xác định các chiến lược phát

triển sức khỏe.

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan trang 1

Trang 1

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan trang 2

Trang 2

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan trang 3

Trang 3

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan trang 4

Trang 4

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan trang 5

Trang 5

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan trang 6

Trang 6

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 15300
Bạn đang xem tài liệu "Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan

Già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố liên quan
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020170
GIÀ HÓA CHỦ ĐỘNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI
NĂM 2018 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Vũ Thị Huệ, Nguyễn Hà Lâm, Phạm Hải Thanh 
Nguyễn Ngọc Khánh và Nguyễn Hữu Thắng 
Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 502 người cao tuổi nhằm mô tả thực trạng già hóa chủ 
động của người cao tuổi tại Hà Nội và xác định một số yếu tố liên quan. Chúng tôi tiến hành kiểm định lại bộ 
câu hỏi ASS-Thai-36 câu trước khi đưa vào nghiên cứu chính thức. Phân tích ROC curve và phân tích phân 
lớp LCA được sử dụng để xác định điểm phân nhóm đối tượng. Phân tích hồi quy tuyến tính được sử dụng để 
xác định các yếu tố liên quan. Kết quả cho thấy 78,1% NCT (người cao tuổi) có già hóa chủ động chưa tốt 
và 21,9% NCT có già hóa chủ động tốt. Các yếu tố người chăm sóc chính và thu nhập có ảnh hưởng tới già 
hóa chủ động của NCT với p < 0,05. Kết luận, hơn 3/4 NCT tại thành phố Hà Nội có tình trạng già chủ động 
chưa tốt. Thực trạng già hóa chủ động của người cao tuổi bị ảnh hưởng bởi người chăm sóc và thu nhập. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Người cao tuổi, già hóa chủ động, Việt Nam
Hiện nay già hóa dân số là xu hướng biến 
đổi dân số mạnh mẽ nhất, ước tính người cao 
tuổi (NCT) trong tổng dân số thế giới sẽ tăng 
từ 10% (năm 2010) đến 25% (năm 2050).¹ Số 
liệu thống kê cho thấy, hiện nay Việt Nam có 
khoảng 10,2% dân số ở độ tuổi trên 60 tuổi, 
tương đương với gần 10 triệu người.2
Già hóa dân số nhanh ảnh hưởng trực tiếp 
đến mọi khía cạnh cuộc sống của NCT, kéo 
theo đó những thách thức về kinh tế và xã hội. 
Vì vậy già hóa chủ động chính là giải pháp cho 
vấn đề này. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đang 
thúc đẩy các chính sách nhằm tăng quá trình 
già hóa chủ động - được hiểu là quá trình tối 
ưu hóa các cơ hội về sức khỏe, điều kiện sống 
và làm việc để NCT tiếp tục cống hiến và cải 
thiện chất lượng cuộc sống.3 Khái niệm về già 
hóa chủ động nhấn mạnh sự bình đẳng, đoàn 
kết và công bằng xã hội, nhận ra ý nghĩa quan 
trọng của giới khi xác định các chiến lược phát 
triển sức khỏe.4
Một nghiên cứu tại Brazil cho thấy 40,2% 
NCT tham gia các hoạt động văn hóa xã hội, 
25,3% NCT hoạt động thể chất trong thời gian 
rảnh rỗi, 21,7% NCT sử dụng Internet, 22,1% 
NCT thực hiện công việc được trả lương và 
chỉ 2,6% NCT tham gia các khóa học.⁵ Tại Thái 
Lan, NCT đã sử dụng thời gian của họ trong 
các hoạt động khác nhau, phần lớn dành thời 
gian để ngủ và nghỉ ngơi.⁶ Mỗi yếu tố đều có 
sự ảnh hưởng đến già hóa chủ động theo cách 
khác nhau tùy từng khu vực. Một số nghiên cứu 
cho thấy, mức độ già hóa chủ động của NCT 
phụ thuộc vào tuổi tác, nơi cư trú, giáo dục, tình 
trạng hôn nhân, hỗ trợ xã hội, giới, thu nhập, 
công việc, sức khỏe, kiểm tra sức khỏe, chăm 
sóc tập trung và tập thể dục.7,8
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hữu Thắng, 
Bộ môn Tổ chức và Quản lý Y tế - Viện Đào tạo 
YHDP & YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Email: thangtcyt@gmail.com
Ngày nhận: 15/12/2019
Ngày được chấp nhận: 20/02/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020 171
Dựa vào đó, việc nghiên cứu tìm ra các yếu 
tố liên quan ảnh hưởng đến già hóa chủ động 
tại Việt Nam là cần thiết để đưa ra các chính 
sách phù hợp. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về 
già hóa chủ động và các yếu tố liên quan ảnh 
hưởng đến già hóa chủ động ở Việt Nam còn 
hạn chế. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
này nhằm: (1) Kiểm định bộ câu hỏi già hóa 
chủ động ASS-Thái Lan; (2) Mô tả tình trạng già 
hóa chủ động người cao tuổi tại Hà Nội và (3) 
Xác định yếu tố liên quan đến già hóa chủ động 
người cao tuổi tại Hà Nội, năm 2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Người được chọn để trả lời phỏng vấn phải 
là người từ 60 tuổi trở lên sống trong cộng đồng; 
không bị khuyết tật nặng, mất trí nhớ nghiêm 
trọng hoặc rối loạn tâm thần và có thể hiểu, nói 
tiếng Việt. Nếu hộ gia đình nào có nhiều hơn 
một người lớn tuổi đáp ứng các tiêu chí trên 
thì chúng tôi thực hiện lấy mẫu ngẫu nhiên đơn 
bằng cách đặt tất cả tên của họ vào 1 nhóm và 
chọn ra 1 người.
2. Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện 
trên 540 NCT. Mẫu được chọn ngẫu nhiên từ 6 
quận của Hà Nội bằng cách sử dụng kỹ thuật 
lấy mẫu phân tầng để đảm bảo tính đại diện 
cho NCT tại Hà Nội. Phương pháp đã được 
sử dụng để chọn đối tượng nghiên cứu là lấy 
mẫu ngẫu nhiên gồm bốn giai đoạn: Chọn quận 
(6 quận/huyện) gồm 3 quận nội thành (huyện 
Đống Đa, huyện Long Biên, huyện Nam Từ 
Liêm) và 3 quận ngoại thành (huyện Đông Anh, 
huyện Thanh Trì và huyện Thanh Oai), chọn 
ra 2 xã/phường ở mỗi quận/huyện xã/phường 
(12 xã/phường), chọn ra 3 thôn/tổ dân phố ở 
mỗi quận/huyện (36 thôn/tổ dân phố) và chọn 
đối tượng phỏng vấn tại từng hộ gia đình (540 
người). Tổng số 540 người đã được chọn để 
trả lời phỏng vấn. Có 502/540 người đã hoàn 
thành bảng câu hỏi. Tỷ lệ phản hồi là 92,96%.
Bộ câu hỏi gồm 2 phần: Phần một là nhân 
khẩu học, bao gồm các biến: tuổi, giới, tôn giáo, 
tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập 
từ công việc, nợ nần, bệnh đang mắc, sức khỏe 
tự đánh giá, người sống cùng, người chăm sóc 
chính, chủ hộ gia đình, con cái, khu vực sống. 
Phần hai là già hóa chủ động, sau khi kiểm định 
còn 20 câu chia làm 6 phần: Tự chăm sóc (5 
câu), Tham gia các hoạt động xã hội (5 câu), 
Khả năng tài chính (3 câu), Duy trì lối sống lành 
mạnh (3 câu), Chủ động tìm tòi, học hỏi (2 câu), 
Gắn kết gia đình (2 câu).
Bộ câu hỏi AAS 36 bằng tiếng Anh được 
Việt hóa, sau đó thử nghiệm trên 30 NCT. Kết 
quả phân tích nhân tố khẳng định CFA nhằm 
kiểm định cấu trúc bộ câu hỏi AAS-36 được. 
20 ác câu đảm bảo hệ số tải nhân tố > 0,5, 
Giá trị tương quan > 0,5, AVE > 0,5, CR > 0,7, 
Eigenvalues khởi tạo > 1, Hệ số Cronbach’s 
Alpha > 0,8.⁹
3. Xử lý số liệu
Kết quả của phân tích được khẳng định 
bằng mô hình cấu trúc SEM với các hệ số: 
CMIN/DF < 3, RMSEA < 0,08, SRMR < 0,08, 
GFI > 0,9, CF > 0,9.⁹ Về tìm điểm chia hợp lý, 
chúng tôi xác định phân lớp đối tượng bằng 
phân tích Lantent class analysis (LCA). Số 
phân lớp tốt nhật được dựa vào các thông số: 
sự thấp nhất của tiêu chí thông tin Bayes (BIC) 
và tiêu chí thông tin Akaike (AIC) cùng sự cao 
nhất của chỉ số biện pháp Entropy. Phân tích 
biểu đồ đường cong ROC được sử dụng với 
từng phân lớp của LCA để xác định điểm chia 
phù hợp nhất. Điểm chia tốt nhất tương ứng 
với chỉ số Youden’s Index cao nhất. Để tìm ra 
yếu tố liên quan của già hóa chủ động, hồi quy 
đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố 
ảnh hưởng. Kết quả có ý nghĩa thống kê với giá 
trị p < 0,05.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020172
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu là một phần trong nghiên cứu 
được thực hiện tại 5 nước châu Á doTrường 
Đại học Mahidol, Thái Lan chịu trách nhiệm 
chính và đã được phê duyệt tại hội đồng kiểm 
định của Trường Đại học Manhidol Thái Lan 
ngày 10/03/2018 với mã số 2018/218.2809.
III. KẾT QUẢ
1. Thông tin đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên 
cứu là 68,3 ± 7,3 tuổi, gần 2/3 đối tượng thuộc 
nhóm tuổi 61 - 70 tuổi, nữ nhiều hơn nam và 
75,5% NCT đã từng kết hôn. Bên cạnh đó tỉ 
lệ người chưa tốt nghiệp cấp 3 chiếm hơn 4/5 
tổng số. Chiếm 77% NCT không có thu nhập 
và hầu hết họ không có bất kỳ khoản nợ nào. 
Chiếm gần 2/3 NCT cho biết họ không mắc 
bệnh nào. Đa số NCT sống cùng người thân 
(91,4%) trong đó xấp xỉ 5% người cao tuổi 
không có con cái. Hơn ½ NCT là chủ sở hữu 
nhà ở. Khoảng 30% người già không thể tự 
chăm sóc được cho bản thân mà cần đến sự 
giúp đỡ của người khác.
2. Kiểm định thang đo
Biểu đồ 1. Biểu đồ SEM
Các chỉ số của mô hình: CMIN/DF = 3,163; RMSEA = 0,066; SRMR = 0,059; GFI = 0,909; CFI = 
0,909. 
Bộ công cụ được sắp xếp lại theo một trình tự hợp lý và chia thành 6 nhóm, gồm 20 câu: Tự chăm 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020 173
sóc (5 câu), Tham gia các hoạt động xã hội (5 câu), Khả năng tài chính (3 câu), Duy trì lối sống lành 
mạnh (3 câu), Chủ động tìm tòi, học hỏi (2 câu), Gắn kết gia đình (2 câu).
3. Thực trạng già hóa chủ động của người cao tuổi tại Hà Nội
Bảng 1. Bảng kết quả ROC với các phân lớp của LCA
Phân nhóm 
đối tượng
N
Trung 
bình
ĐLC p-value
Điểm 
chia
Độ 
nhạy
Độ 
đặc hiệu
Chỉ số 
Youden
Phân nhóm 1 106 71,2 4,7
0,00
67,5 79,2% 6,6% 72,7%
Phân nhóm 2 129 63,7 3,9 61,5 83,0% 19,5% 63,5%
Phân nhóm 3 69 60,9 4,3 60,5 81,0% 15,2% 66,1%
Phân nhóm 4 118 55,0 6,6 56,5 80,6% 12,5% 68,1%
Phân nhóm 5 80 49,1 6,4 - - - -
Có 5 mức độ già hóa chủ động đã được tìm thấy bởi LCA. Kết quả cho thấy, điểm cắt tối ưu là 
67,5 với độ nhạy là 79,20%, độ đặc hiệu là 6,60% và chỉ số Youden cao nhất là 72,70%. Người cao 
tuổi có điểm già hóa chủ động ≥ 67,5 có mức độ già hóa chủ động tốt.
Biểu đồ 2. Biểu đồ phân nhóm già hóa chủ động
Biểu đồ 2 cho thấy hơn 3/4 đối tượng nghiên cứu có mức già hóa chủ động chưa tốt.
4. Yếu tố ảnh hưởng đến già hóa chủ động
Kết quả phân tích hồi quy đơn biến cho người chăm sóc, thu nhập có ảnh hưởng tới già hóa chủ 
động của người cao tuổi với p < 0,05. NCT tự chăm sóc có phân mức già hóa chủ động không tốt 
hơn gấp 2,8 lần so với NCT có người chăm sóc. NCT có thu nhập có phân mức già hóa chủ động 
không tốt cao hơn 1,9 lần so với NCT không có thu nhập.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020174
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi quy đơn biến
Đặc điểm
Phân mức già hóa 
chủ động OR
95% CI
p-value
Không tốt Tốt Mức dưới Mức trên
Người 
chăm sóc
Tự chăm sóc 294(74,2%)
91
(85,8%)
2,8 1,8 4,2 0,00
Người khác 102(25,8%)
15
(14,2%)
Thu nhập
Có 128 (32,3%)
21
(19,8%)
1,9 0,1 0,4 0,00
Không 268 (67,7%)
85
(80,2%)
IV. BÀN LUẬN
Bộ công cụ kiểm định của Việt Nam sử dụng 
bộ AAS-Thai-36 câu sau khi đã kiểm định còn 
20 câu và còn 6/7 lĩnh vực được giữ lại, trừ lĩnh 
vực Tâm linh. Hiện nay, bộ công cụ đánh giá 
già hóa chủ động dựa vào chỉ số AAS được 
phát minh và sử dụng bởi 28 quốc gia trong 
khối Liên minh châu Âu EU.10 Do sự chênh lệch 
lớn về trình độ phát triển giữa các quốc gia phát 
triển của EU và Việt Nam nên chúng tôi không 
sử dụng bộ công cụ này. Sở dĩ chúng tôi sử 
dụng bộ công cụ AAS-Thai 36 câu vì sự tương 
đồng giữa nền văn hóa, kinh tế, xã hội, chủng 
tộc, tôn giáo của hai nước và tính khả thi có thể 
nhìn thấy của bộ công cụ.
Thái Lan và Việt Nam đều là các quốc gia 
đa tôn giáo, đặc biệt phần lớn dân cư theo đạo 
Phật.11,12 Từ năm 2004 đến nay, khu vực miền 
Nam Thái Lan phải hứng chịu nhiều cuộc xung 
đột tôn giáo.11 Tại Việt Nam đã công nhận nhiều 
tôn giáo hoặc có những biện pháp pháp lý phù 
hợp làm dịu căng thẳng giữa các tôn giáo.12 
Nhờ vậy, tôn giáo vẫn nằm trong tầm kiểm soát 
của chính phủ Việt Nam, chưa gây ra những 
thiệt hại lớn và ảnh hưởng sâu đến đời sống 
nhân dân giống như những cuộc biểu tình và 
khủng bố tại Thái Lan. 
Nghiên cứu của chúng tôi đã đưa ra bằng 
chứng về có 78,1% NCT tại Hà Nội có mức 
già hóa chủ động chưa tốt và 21,9% NCT có 
mức già hóa chủ động tốt. Nghiên cứu tại Thái 
Lan của Autchariya Punyakaew (2019) có tỷ lệ 
già hóa chủ động tốt cao hơn với gần 60% đối 
tượng tham gia đạt giá hóa chủ động ở mức 
cao.13 Sự khác nhau giữa hai nghiên cứu có thể 
giải thích do sự chênh lệch về phát triển kinh tế 
xã hội và văn hóa giữa hai quốc gia. Mặt khác, 
việc hạn chế về quy mô nghiên cứu và phạm 
vi nghiên cứu không trải dọc trên cả nước như 
nghiên cứu tại Thái Lan cũng khiến cho kết quả 
giữa hai nghiên cứu có sự chênh lệch.
Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy 
yếu tố người chăm sóc và thu nhập có ảnh 
hưởng tới già hóa chủ động của người cao 
tuổi với p < 0,05. Các yếu tố như tuổi, giới, con 
cái, khu vực sống, giáo dục, bệnh tật không 
ảnh hưởng đến già hóa chủ động của người 
cao tuổi. Mặt khác, nghiên cứu của Autchariya 
Punyakaew chỉ ra rằng, mức độ già hóa chủ 
động không phụ thuộc vào các yếu tố khác như 
tuổi, hôn nhân, học vấn, tình trạng sức khỏe, 
việc làm và tình trạng gia đình.13 Sự khác biệt 
này có thể được giải thích bởi trình độ phát triển 
kinh tế xã hội, chế độ hưu trí có sự chênh lệch 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020 175
nhất định giữa hai quốc gia. Tại Thái Lan, hệ 
thống hưu trí phát triển từ năm 2009 cho phép 
90% NCT được nhận lương hưu hoặc bất kỳ 
loại trợ cấp nào từ nguồn ngân sách nhà nước, 
tối thiểu mỗi tháng là khoảng 451.000 VNĐ đối 
với người từ 60 - 69 tuổi và khoảng 768.000 
VNĐ đối với người trên 80 tuổi.14 Trong khi đó, 
tại Việt Nam, tỷ lệ NCT được nhận trợ cấp hàng 
tháng và số tiền được trợ cấp đều ít hơn, theo 
Khoản 5 Điều 5 Nghị định 136/2013/NĐ-CP 
quy định mức trợ cấp đối với NCT trên 80 tuổi 
là 270.000 VNĐ/tháng, trong đó chỉ có khoảng 
30% NCT được có lương hưu hoặc nhận trợ 
cấp hàng tháng như trên theo thống kê Bảo 
hiểm xã hội 2015. Mặt khác, yếu tố người chăm 
sóc ảnh hưởng đến già hóa chủ động có thể 
giải thích do truyền thống văn hóa của Việt Nam 
là con cái có trách nhiệm chăm sóc và phụng 
dưỡng cha mẹ về khi về già, vì vậy NCT phụ 
thuộc rất nhiều vào sự chăm sóc của con cái. 
Bên cạnh đó, tại Việt Nam còn tồn tại nhiều mô 
hình gia đình hạt nhân – gia đình hai thế hệ 
gồm cha mẹ và con cái, cha mẹ sống chung 
cùng các con và khi về già, cha mẹ sẽ được 
sự chăm sóc trực tiếp và cũng phần lớn nhất 
từ phía con cái của mình. Vì vậy việc có người 
chăm sóc tốt có thể sẽ tác động lớn đến già hóa 
chủ động của NCT.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trên 3/4 người 
cao tuổi có mức độ già hóa chủ động chưa tốt. 
Tỷ lệ này này tương đối cao từ đó cho thấy tính 
cấp thiết trong việc hỗ trợ và giải quyết các vấn 
đề về người cao tuổi của chính quyền Hà Nội. 
Xã hội cần đặc biệt quan tâm tới vấn đề người 
chăm sóc và việc làm nhằm giải quyết vấn đề 
kinh tế cho người cao tuổi. Bên cạnh đó, cần có 
những nghiên cứu tiếp theo về các yếu tố liên 
quan đến mức độ già hóa chủ động của người 
cao tuổi để có cái nhìn sâu hơn về vấn đề này. 
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu gửi lời cảm ơn đến Trường 
Đại học Manhidol, tất cả những cộng sự tham 
gia vào nghiên cứu và chính quyền địa phương 
đã giúp nghiên cứu được thực hiện thành công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. United Nation Fund Population. Ageing 
report. UNFPA Vietnam. 2019.
2. Tổng cục Dân số. Hội thảo phổ biến chính 
sách, pháp luật về chăm sóc sức khỏe người 
cao tuổi. 2019.
3. Álvarez-García J, Durán-Sánchez A, Del 
Río-Rama M. de la C. Active Ageing: Mapping 
of Scientific Coverage. Int J Environ Res Public 
Health, 2018.12:1512-2727.
4. Berenson G. Healthy ageing: A challenge 
for Europe. Swed Natl Inst Public Health. 2006; 
203:1-9.
5. Sousa NF da S, Lima MG, Cesar CLG, 
et al. Active aging: prevalence and gender and 
age differences in a population-based study. 
Cad Saude Publica, 2019.11:173-317.
6. Punyakaew A, Lersilp S, and Putthinoi S. 
Active Ageing Level and Time Use of Elderly 
Persons in a Thai Suburban Community. Occup 
Ther Int, 2019:709-2695.
7. Wongkeenee W, Chintanawat R and 
Sucamvang K. Factors predicting active ageing 
among population of Mueang District, Chiang 
Mai Province. Nurs J (Manila). 2013;40(4):91-
99.
8. S. Saengprachaksakula. The determinants 
of Thai active ageing level. Songklanakarin J 
Soc Sci Humanit. 2015;21(1):139–167.
9. Hair JF, ed. Multivariate Data Analysis. 
Pearson; 2014.
10. UNECE Statswiki. Active Ageing Index. 
UNECE Statswiki. 2018.
11. Nguyễn Hồng Quang. Giải quyết xung 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 126 (2) - 2020176
đột tôn giáo-sắc tộc ở miền Nam Thái Lan từ 
thời kỳ thủ tướng Yinglick đến nay. Religious 
Studies. 2015; 147: 76–84.
12. Nguyễn Hồng Dương. Những thách 
thức của đa dạng tôn giáo tại Việt Nam hiện 
nay. Religious Studies. 2015. 148: 3–30.
13. Punyakaew A., Lersilp S., and Putthinoi 
S. Active Ageing Level and Time Use of Elderly 
Persons in a Thai Suburban Community. 
Occupational Therapy International. 2019; 
2019: 709-2695.
14. United Nations Population, UNFPA. Old 
age income security in Thailand: Work, family 
and social protection. United Nations Population 
and UNFPA. 2017.
Summary
ACTIVE AGING AMONG ADULT ELDERLY IN HANOI IN 2018 
AND SOME RELATED FACTORS
A cross – sectional study was conducted to describe the reality active ageing of the elderly 
people in Hanoi and some related factors. The study was conducted on the 502 elderly people 
in Hanoi. We retested the ASS questionnaire in this study. ROC curve analysis and LCA were 
used to determine the cutoff point to divide in groups. Linear regression was used to identify 
influencing factors. The results showed that 78.1% people had a poor active aging level and 
21.9% people with a good active aging level. The factors such as main caregiver and income 
affected the active aging level with p < 0.05. Conclusion, over 3/4 elderly people in Hanoi had a 
poor active aging level. The reality active aging was affected by main caregiver and income.
Key words: elderly, active ageing, Vietnam

File đính kèm:

  • pdfgia_hoa_chu_dong_cua_nguoi_cao_tuoi_tai_ha_noi_nam_2018_va_m.pdf