Dự báo chất lượng nước mặt vùng bờ thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 phục vụ đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải
Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm đánh giá chất lượng nước (CLN) vùng bờ thành phố Hồ Chí
Minh (TpHCM) đến năm 2030 (thông qua BOD, DO, NO3––N, NH4+–N, PO43––P, TSS và
Coliform) trong bối cảnh nước biển dâng (RCP4.5 và RCP8.5) theo các kịch bản xử lý nước
thải (XLNT) khác nhau. Giai đoạn 2019–2030, nếu không cải thiện tình hình XLNT, các
khu vực (và thông số ô nhiễm) đáng quan tâm gồm sông Soài Rạp, Lòng Tàu, Vàm Sát
(TSS, BOD, PO43––P vượt chuẩn nhiều lần), vùng ven bờ Long Hoà–Cần Thạnh (TSS,
PO43––P); khác với các vịnh và phạm vi cách bờ 3–6 hải lý có CLN tương đối tốt (ngoại trừ
TSS, 2,5–3,5 lần quy chuẩn). Trong trường hợp đáp ứng hoặc đáp ứng tối đa các quy định
về XLNT, CLN vùng bờ chuyển biến tích cực (BOD và PO43––P) trong giai đoạn 2020–
2025 nhưng giảm dần vào các nnăm sau đó do gia tăng xả thải từ các hoạt động dân sinh,
kinh tế. Cần lưu ý rằng, ngay cả đáp ứng tối đa về XLNT, nước mặt lục địa (thượng nguồn)
vẫn có nguy cơ ô nhiễm với BOD, PO43––P, TSS có thể tương đương 2–5 lần quy chuẩn
vào năm 2030. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nguồn thải nội vi đóng góp đáng kể BOD và
PO43––P vào CLN vùng bờ, đồng thời khuyến nghị giảm số kịch bản RCP khi mô phỏng
CLN ở tương lai gần do khác biệt giữa các trường hợp tương đối nhỏ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dự báo chất lượng nước mặt vùng bờ thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 phục vụ đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải
Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 Bài báo khoa học Dự báo chất lượng nước mặt vùng bờ thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 phục vụ đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải Lê Ngọc Tuấn1*, Trần Tuấn Hoàng2 1 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên–ĐHQG–TPHCM; lntuan@hcmus.edu.vn 2 Phân viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi Khí hậu; hoangkttv@gmail.com *Tác giả liên hệ: lntuan@hcmus.edu.vn; Tel.: +84–008371379 Ban Biên tập nhận bài: 12/4/2020; Ngày phản biện xong: 26/5/2021; Ngày đăng bài: 25/7/2021 Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm đánh giá chất lượng nước (CLN) vùng bờ thành phố Hồ Chí Minh (TpHCM) đến năm 2030 (thông qua BOD, DO, NO3––N, NH4+–N, PO43––P, TSS và Coliform) trong bối cảnh nước biển dâng (RCP4.5 và RCP8.5) theo các kịch bản xử lý nước thải (XLNT) khác nhau. Giai đoạn 2019–2030, nếu không cải thiện tình hình XLNT, các khu vực (và thông số ô nhiễm) đáng quan tâm gồm sông Soài Rạp, Lòng Tàu, Vàm Sát (TSS, BOD, PO43––P vượt chuẩn nhiều lần), vùng ven bờ Long Hoà–Cần Thạnh (TSS, PO43––P); khác với các vịnh và phạm vi cách bờ 3–6 hải lý có CLN tương đối tốt (ngoại trừ TSS, 2,5–3,5 lần quy chuẩn). Trong trường hợp đáp ứng hoặc đáp ứng tối đa các quy định về XLNT, CLN vùng bờ chuyển biến tích cực (BOD và PO43––P) trong giai đoạn 2020– 2025 nhưng giảm dần vào các nnăm sau đó do gia tăng xả thải từ các hoạt động dân sinh, kinh tế. Cần lưu ý rằng, ngay cả đáp ứng tối đa về XLNT, nước mặt lục địa (thượng nguồn) vẫn có nguy cơ ô nhiễm với BOD, PO43––P, TSS có thể tương đương 2–5 lần quy chuẩn vào năm 2030. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nguồn thải nội vi đóng góp đáng kể BOD và PO43––P vào CLN vùng bờ, đồng thời khuyến nghị giảm số kịch bản RCP khi mô phỏng CLN ở tương lai gần do khác biệt giữa các trường hợp tương đối nhỏ. Từ khoá: Nước mặt; Chất lượng nước; Chỉ số chất lượng nước; Vùng bờ. 1. Đặt vấn đề Tài nguyên nước đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ với sự sống và các hoạt động phát triển kinh tế–xã hội (KT–XH). Tuy nhiên, quá trình khai thác và sử dụng đã tạo nên nhiều thách thức, đặc biệt đối với khía cạnh chất lượng nước (CLN) [1]. Theo đó, ngoài kiểm soát hiệu quả nguồn thải, giám sát chất lượng nguồn tiếp nhận, việc đánh giá, dự báo diễn biến CLN đóng vai trò quan trọng, cung cấp cơ sở hoạch định và thực thi các giải pháp quản lý có liên quan. Có nhiều phương pháp được sử dụng để đánh giá CLN: phương pháp mô hình hóa, như WASP [2–3], AQUATOX [4], DELFT3D [5], HEC–RAS, QUAL2K hay MIKE [6–7]; phương pháp quan trắc môi trường; phương pháp đánh giá tổng hợp CLN theo chỉ số CLN (WQI) [8–10]. Nhìn chung, tùy vào mục tiêu và quy mô nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được lựa chọn sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp, phổ biến là bộ phần mềm thương mại hóa MIKE. Lưu vực Sài Gòn–Đồng Nai là lưu vực chính thuộc vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai, đóng vai trò quan trọng trong phát triển KT–XH, bao gồm sông Sài Gòn nhập lưu sông Đồng Nai tạo thành sông Nhà Bè (huyện Nhà Bè), sau đó chia thành sông Lòng Tàu (tả ngạn) và sông Soài Rạp (hữu ngạn) nhận nước sông Vàm Cỏ rồi đổ vào vịnh Đồng Tranh cùng với sông Đồng Tranh (nối các sông rạch nhỏ phía tây huyện Cần Giờ). Sông Lòng Tàu và các sông Gò Gia, Thị Vải, sông Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 69 Thêu, Cái Mép phía đông huyện Cần Giờ đổ vào vịnh Gành Rái. Nhiều nghiên cứu về CLN đã thực hiện tại lưu vực này nhưng chủ yếu trên các sông chính [11–12], chưa chi tiết và toàn diện trong mối quan hệ với dân số, kinh tế, bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng (NBD) ở phạm vi vùng bờ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế và dân sinh là sức ép hữu hình đến môi trường và CLN các thủy vực nhạy cảm, đặc biệt là vùng bờ TpHCM bởi tiếp nhận gần như toàn bộ nước thải dọc theo lưu vực sông Sài Gòn. Do vậy, bên cạnh công tác quan trắc, đánh giá hiện trạng CLN, việc tính toán, dự báo CLN có xét đến BĐKH và các kịch bản XLNT đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ tích cực cho việc đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, cung cấp dữ liệu môi trường cần thiết phục vụ quy hoạch phát triển vùng bờ TpHCM đến năm 2030. 2. Phương pháp nghiên cứu Phạm vi đánh giá chất lượng nguồn nước là vùng bờ TpHCM, bao gồm toàn bộ diện tích đất liền của huyện Cần Giờ và vùng biển ven bờ có ranh giới ngoài cách mép bờ 6 hải lý (khoảng 11 km) từ vịnh Gành Rái đến cửa Soài Rạp. Phạm vi thời gian: xét mùa khô, đến 2025–2030. 2.1. Phương pháp khảo sát, đo đạc, lấy mẫu nước mặt Các thông tin đo đạc, lấy mẫu nước phục vụ nghiên cứu được tổng hợp ở Bảng 1. Bảng 1. Thông tin về hoạt động khảo sát, đo đạc, lấy mẫu nước. Nội dung Mục đích Mô tả Số mẫu Thời gian Thông số Lấy mẫu nước mặt Vị trí biên (Nhà Bè, Tân Thành, Vũng Tàu) (Hình 1) 3 vị trí * 1 mẫu/h * 24 h/ngđ * 2 ngđ 144 20–22 T4/2019 Nhiệt độ, pH, DO, BOD, SS, NH4+–N, NO3–– N, PO43––P, Coliform Hiệu chỉnh–kiểm định ... hất ô nhiễm, theo đó, CLN dần được cải thiện (Hình 6). Chỉ số CCME giúp nhận diện các khu vực có nguy cơ ô nhiễm như sông Soài Rạp, sông Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 76 Lòng Tàu, sông Vàm Sát (TSS, BOD, PO43––P, Coliform), khu vực ven bờ Long Hoà – Cần Thạnh (TSS, PO43––P). CLN tại vịnh Đồng Tranh, vịnh Gành Rái cũng như khu vực cách bờ 3–6 hải lý tương đối tốt, thường chịu ảnh hưởng bởi phù sa từ các cửa sông (TSS). 3.2.2. Biến đổi CLN theo thời gian giả định XLNT đáp ứng các quy định: KB1–KB8–KB5 Trong trường hợp kiểm soát được nước thải nội vi vùng bờ theo các quy chuẩn kỹ thuật tương thích, tải lượng ô nhiễm xả thải vào các nguồn tiếp nhận giảm đi đáng kể. Theo đó, năm 2025 so với hiện trạng (KB8 vs. KB1), một số thông số CLN có dấu hiệu chuyển biến tích cực như BOD (giảm 36–39% trên sông Soài Rạp và Lòng Tàu, nhưng vẫn vượt chuẩn), Coliform (đáp ứng quy chuẩn) hoặc gia tăng không đáng kể như TSS (luôn vượt chuẩn). Giai đoạn 2025–2030, tăng trưởng dân số và phát triển kinh tế tại vùng bờ TpHCM tất yếu làm gia tăng nhu cầu sử dụng nước cũng như lượng nước thải phát sinh, tác động tiêu cực đến CLN nguồn tiếp nhận. So với năm 2025 (KB8), nồng độ BOD và TSS năm 2030 (KB5) tăng 57% (26–93%) và 10% (2–15%) trên sông Soài Rạp, 33% (28– 46%) và 7% (2–16%) trên sông Lòng Tàu (Hình 7a, 7b). Nhìn chung, CLN cũng phân bố tăng dần về phía biển. Năm 2030, nguồn nước vùng bờ (KB5) ít nguy cơ ô nhiễm hơn so với trường hợp không xem xét cải thiện hiệu quả XLNT (KB4) (cả về số lượng thông số, mức độ vượt chuẩn và phạm vi ô nhiễm): CCME vùng ven bờ và trong lục địa lần lượt là 81 và 61, chỉ 1/13 và 7/16 vị trí CLN từ mức kém trở xuống. Cụ thể, sông Soài Rạp có CCME đạt 33 (từ 28–49), ô nhiễm nặng (nồng độ BOD, PO43––P và TSS lần lượt tương đương 7–12,5 lần, 2–3 lần và 4–7,5 lần quy chuẩn), thông tin tương tự cho sông Lòng Tàu là 57 (từ 38–83), CLN kém đến trung bình (BOD, PO43––P và TSS khoảng 1,5–9,5 lần, 2–3 lần và 3–5,5 lần quy chuẩn), đối với các vịnh và vùng biển ven bờ là 81 (từ 60–84), CLN tốt (TSS khoảng 2,5–4 lần quy chuẩn). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, việc tăng cường kiểm soát nguồn thải và XLNT trong thời gian tới rất quan trọng và cấp thiết, đặc biệt trong giai đoạn 2020–2025, góp phần nâng cao tính khả thi và triển vọng quản lý hiệu quả chất lượng nước mặt vùng bờ TpHCM. 3.2.3. Biến đổi CLN theo thời gian giả định XLNT đáp ứng tối đa các quy định: KB1–KB9–KB6 Kết quả mô phỏng cho thấy đây là trường hợp khả quan nhất về CLN nguồn tiếp nhận. Tương tự như trên, các thông số CLN đáng quan tâm gồm BOD, PO43––P, TSS nhưng cải thiện đáng kể về mức độ và phạm vi ô nhiễm (Hình 7c, 7d). Năm 2030, so với quy chuẩn, nồng độ các thông số nêu trên (KB6) lần lượt tương đương 3–5 lần, 2–3 lần, 3,5–5 lần tại thượng nguồn sông Soài Rạp (tính đến hợp lưu với sông Vàm Cỏ), 4 lần, 1,5–2 lần, 3–5 lần trên sông Vàm Sát (gần hợp lưu với sông Soài Rạp) và 2,5–3 lần, 1,5–3,5 lần, 3–5 lần tại thượng nguồn sông Lòng Tàu (LT1–LT3, trước khi chảy qua khu vực rừng ngập mặn). CLN tại các vịnh và vùng ven biển nhìn chung khá tốt, đáp ứng quy chuẩn. 3.2.4. Khả năng chi phối CLN vùng bờ của các nguồn thải nội vi: KB3 và KB7; KB4 và KB12 Nhằm đánh giá ảnh hưởng của nguồn thải nội vi, CLN vùng bờ năm 2025 được mô phỏng với giả định không có tải lượng ô nhiễm đóng góp từ những nguồn thải này (KB7). Kết quả cho thấy, ngoại trừ TSS (tương đương 2,5–5 lần quy chuẩn, Hình 7e, 7f), 06 thông số còn lại ở KB7 đều đáp ứng quy định đối với nguồn tiếp nhận. Theo đó, CCME đạt mức trung bình và tốt lần lượt đối với nước mặt lục địa và nước biển ven bờ. Xem xét đồng thời với KB3 nêu trên, có thể thấy nguồn thải nội vi chi phối đáng kể CLN vùng bờ, nhất là khu vực lục địa (chênh lệch khá lớn giữa KB3 vs. KB7), rõ nét với BOD (trung bình 32–33 lần (dao động 12–60 lần) trên sông Soài Rạp, Lòng Tàu và 2–3 lần trên sông Đồng Tranh) và PO43––P (số liệu tương tự là 31–35 lần và 15,5–17,5 lần). Nói cách khác, nguồn thải nội vi đóng góp đáng kể BOD và PO43––P vào CLN vùng bờ. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu còn chỉ ra sự chuyển biến tiêu cực CLN trên toàn phạm vi vùng bờ khi gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngoại vi trước khi đến biên đầu vào tại trạm Nhà Bè (KB12 và KB4). (Dữ liệu KB7 và KB12 không được trình bày chi tiết trong bài báo này). Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 77 3.2.5. Biến đổi CLN theo các kịch bản BĐKH: KB2 và KB3; KB4 và KB10 Bảng 8 cho thấy không nhiều khác biệt về CLN giữa 02 kịch bản BĐKH (RCP4.5 và RCP8.5) tại cùng một mốc thời gian đánh giá, cũng như giữa 2 mốc thời gian liền kề (2025 và 2030) với cùng một kịch bản BĐKH. Điều này có thể giải thích thông qua sự thay đổi không đáng kể lưu lượng dòng chảy và độ cao mực nước theo sau sự ít biến đổi nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển trong thời đoạn nghiên cứu. Cụ thể, CLN được mô phỏng với bước nhảy 5 năm trong tổng thời gian khoảng 10 năm (tính đến 2030) là khoảng thời gian khá ngắn để những thay đổi khí hậu và NBD biểu hiện rõ nét, tức chênh lệch giữa các kịch bản RCP và giữa các mốc thời gian tương đối thấp (thường đáng kể ở nửa sau thế kỉ 21). Thêm vào đó, CLN được mô phỏng trong mùa khô tại vùng ven biển nên điều kiện thuỷ lực chịu chi phối chủ yếu bởi mực NBD trong bối cảnh BĐKH. Do đó, khuyến nghị chỉ xem xét 1 kịch bản BĐKH cho các mô phỏng đến năm 2030. Hình 6. Biến đổi nồng độ BOD giai đoạn 2019–2030: XLNT như hiện trạng: (a) KB1 và (b) KB4. Bảng 7. Kết quả mô phỏng CLN vùng bờ đến năm 2030 theo các kịch bản XLNT và BĐKH. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 78 Bảng 7. Kết quả mô phỏng CLN vùng bờ đến 2030 theo các kịch bản XLNT và BĐKH (tiếp theo). Bảng 8. Chỉ số CLN (CCME) vùng bờ TpHCM đến năm 2030 trên cơ sở 07 thông số mô phỏng. Khu vực Vị trí 2019 NĂM 2025 NĂM 2030 KB1 KB2 KB3 KB7 KB8 KB9 KB10 KB4 KB5 KB6 KB11 KB12 Sông Soài Rạp SR1 26 26 26 74 30 42 25 25 28 40 25 25 SR3 42 42 41 77 52 54 28 28 49 54 27 26 SR4 47 45 45 79 70 81 41 41 60 70 36 33 Sông Vàm Sát DT1 80 55 54 79 41 60 29 29 38 45 28 27 DT3 82 81 81 83 82 83 67 67 70 82 56 50 DT4 82 81 81 83 82 83 81 82 83 83 82 74 Sông Đồng Tranh LT3 33 31 31 85 47 74 29 29 46 61 29 28 LT4 59 59 59 83 72 83 43 43 70 82 42 40 DT2 82 81 81 83 82 83 81 81 82 82 72 72 DT5 72 72 72 83 82 83 72 72 83 83 72 70 Sông Lòng Tàu LT1 27 27 27 87 39 43 26 26 38 43 25 21 LT2 28 28 28 85 41 58 27 27 39 45 26 23 LT6 60 60 60 83 73 84 45 45 71 83 44 42 LT7 83 82 82 83 83 83 82 82 83 84 82 70 Sông Thị Vải TV1 82 82 82 82 82 82 82 82 82 82 82 82 TV2 82 82 82 82 82 82 82 82 82 82 82 82 Vịnh Đồng Tranh MR9 80 80 80 84 81 81 79 79 81 84 79 79 MR12 81 81 81 84 81 84 81 81 81 84 80 80 MR13 72 70 70 84 83 83 72 72 83 83 72 70 Vùng biển ven bờ MR5 78 76 76 84 84 84 71 71 84 84 70 67 MR14 80 74 74 84 84 84 70 70 84 84 70 70 MR15 81 80 80 84 83 84 79 79 84 84 78 74 MR7 81 81 81 84 81 81 80 80 81 81 79 78 Vịnh Gành Rái MR1 83 82 82 84 83 84 82 82 84 84 82 80 MR2 83 82 82 84 83 84 83 83 83 84 83 80 MR3 83 82 82 84 83 84 83 83 83 84 82 80 MR4 83 82 82 84 84 84 72 73 84 84 73 70 Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 79 Hình 7. Biến đổi nồng độ một số thông số CLN tại vùng bờ TpHCM giai đoạn 2019–2030: (a, b) Coliform: XLNT đáp ứng quy chuẩn (KB1 và KB5); (c, d) DO: XLNT đáp ứng tối đa quy chuẩn (KB1 và KB6); (e, f) TSS: có và không có nguồn thải nội vi (KB3 và KB7). Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 80 Có thể thấy rằng, ngay cả xử lý tối ưu nước thải nội vi vùng bờ TpHCM, các nguồn tiếp nhận chủ yếu trong lục địa (sông Soài Rạp, Lòng Tàu) vẫn tiềm tàng nguy cơ ô nhiễm, nhất là khu vực thượng lưu, xa cửa sông, không có lợi thế khuếch tán và pha loãng chất ô nhiễm. Theo đó, quy hoạch nguồn thải nội vi và tăng cường kiểm soát CLN ngoại vi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm quản lý hiệu quả môi trường nước mặt vùng bờ TpHCM trong bối cảnh phát triển không ngừng kinh tế–xã hội dọc lưu vực sông Sài Gòn–Đồng Nai. 4. Kết luận CLN vùng bờ TpHCM được mô phỏng đến năm 2030 với 7 thông số (BOD, DO, NO3––N, NH4+–N, PO43––P, TSS và Coliform), xem xét các kịch bản khác nhau về XLNT và NBD (RCP4.5 và RCP8.5). Giai đoạn 2019–2030, nếu không cải thiện tình hình XLNT, CLN vùng bờ nhất là khu vực lục địa sẽ suy giảm, dao động ở mức kém–khá, nồng độ TSS, BOD và PO4 tương đương 3–8, 3–13 và 2–3 lần quy chuẩn. Trong trường hợp đáp ứng hoặc đáp ứng tối đa các quy định về XLNT, CLN vùng bờ chuyển biến tích cực trong giai đoạn 2020–2025 (BOD và PO43––P), nhưng giảm dần đến năm 2030 do gia tăng xả thải từ các hoạt động KTXH. Cần lưu ý rằng, ngay cả đáp ứng tối đa về XLNT, nước mặt lục địa vẫn có nguy cơ ô nhiễm (thượng nguồn các sông Soài Rạp, Lòng Tàu, Vàm Sát). Nghiên cứu cũng chỉ ra nguồn thải nội vi đóng góp đáng kể BOD và PO43––P vào CLN vùng bờ. Bên cạnh đó, các RCP khác nhau ảnh hưởng khá tương đồng đến CLN tại cùng mốc thời gian tính toán, do vậy có thể chỉ nên xem xét 1 kịch bản RCP trong mô phỏng CLN ở tương lai gần (đến 2030). Đóng góp của tác giả: Xây dựng ý tưởng nghiên cứu, Viết bản thảo bài báo, Chỉnh sửa bài báo: L.N.T.; Lựa chọn phương pháp nghiên cứu, Xử lý số liệu: T.T.H.; Lấy mẫu, Phân tích mẫu: IMHOEN. Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN “Đánh giá khả năng chịu tải của vịnh Đồng Tranh, vịnh Gành Rái và cửa sông Soài Rạp trước sức ép của sự gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế của vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai”. Lời cam đoan: Tập thể tác giả cam đoan bài báo này là công trình nghiên cứu của tập thể tác giả, chưa được công bố ở đâu, không được sao chép từ những nghiên cứu trước đây; không có sự tranh chấp lợi ích trong nhóm tác giả. Tài liệu tham khảo 1. Meybeck, M.; Kuusisto, E.; Mäkelä, A.; Mälkki, E. Water Quality Monitoring – A Practical Guide to the Design and Implementation of Freshwater Quality Studies and Monitoring Programmes, UNEP/WHO, 1996. 2. Toro, D.; D.M.; Fitzpatrick, J.J.; Thomann, R.V. Water Quality Analysis Simulation Program (WASP) and Model Verification Program (MVP), Hydroscience, Inc., Westwood, NY, for U.S. EPA, Duluth, MN, 1983. 3. Ambrose, R.B.; Connolly, J.P.; Schanz, R.W. WASP4, A Hydrodynamic and Water Quality Model–Model Theory, User's Manual, and Programmer’s Guide. U.S. Environmental Protection Agency, Athens, GA. EPA/600/3–87–039, 1988. 4. Tình, T.T.; Hải, Đ.N.; Hà, B.N.L.; Thuận, N.T.T. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nguồn nước chảy vào hồ Đan Kia và áp dụng mô hình AQUATOX quản lý chất lượng nước hồ. Tạp chí sinh học đại học Đà Lạt 2015, 38, 61–69. 5. Trang, C.T.T.; An, P.H.; Tú, T.A.; Cường, L.Đ.; Thạnh, T.Đ.; Thành, T. Mô phỏng lan truyền chất ô nhiễm khu vực Phá Tam Giang – Cầu Hai, Thừa Thiên – Huế bằng mô hình DELFT–3D. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển 2014, 3, 272–279. 6. Chính, P.V. Ứng dụng mô hình toán đánh giá chất lượng nước hạ lưu sông Đồng Nai đến năm 2020. Tạp chí nghiên cứu khoa học trường đại học Đông Á 2011, 4, 40–53. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2021, 727, 68-81; doi:10.36335/VNJHM.2021(727).68-81 81 7. Thắng, N.T.; Thái, T.H.; Hương, Đ.T.; Dũng, L.Đ. Dự báo diễn biến chất lượng nước sông Nhuệ – Đáy theo các kịch bản phát triển kinh tế–xã hội. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội 2013, 2S, 166–276. 8. Bhargava, D.S. Use of water quality index for river classification and zoning of Ganga River. Environ. Pollut. Ser. B. England 1983, 6, 51–67. 9. Sutadian, A.D.; Muttil, N.; Yilmaz, A.; Perera, C. Development of River Water Quality Indices – A Review. Environ. Monit. Assess. 2016, 58, 1–33. 10. Tuấn, L.N.; Quân, T.M.; Thuý, T.T. Áp dụng chỉ số chất lượng nước đánh giá diễn biến chất lượng nước mặt tại khu vực phía Nam tỉnh Bình Dương. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ 2018, 6, 118–127. 11. Quân, T.M. Điều tra, đánh giá khả năng chịu tải và đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm trên kênh, rạch cho vùng đô thị phía Nam tỉnh Bình Dương. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Dương, 2018. 12. Thái, N.Đ. Nghiên cứu biến động môi trường trầm tích trong Holocen muộn phục vụ quy hoạch phát triển bền vững khu vực cửa sông Đồng Nai. Trường Đại học Khoa học tự nhiên–Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015. 13. Phùng, N.K.; Tín, N.V.; Tuấn, L.N. Xây dựng kịch bản biến đổi nhiệt độ trong bối cảnh biến đổi khí hậu cho khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Hội thảo Khoa học Quốc tế “Toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững”, 09/05/2017, Trường Đại học Hà Tĩnh, Hà Tĩnh, 2017. 14. Tuấn, L.N.; Thịnh, N.N.; Phùng, N.K. Xây dựng kịch bản mực nước biển dâng trong bối cảnh biến đổi khí hậu cho khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ 2018, 5, 184–191. 15. Phung, N.K.; Tin, N.V.; Tuan, L.N. Precipitation scenarios in Ho Chi Minh city in the context of climate change. VJST 2017, 4C, 115–121. Forecasting surface water quality in the coastal area in Ho Chi Minh City to 2030 in the context of sea level rise Le Ngoc Tuan1*, Tran Tuan Hoang2 1 Vietnam National of Ho Chi Minh City–University of Science; lntuan@hcmus.edu.vn 2 Sub–Institute Of Hydrometeorology and Climate Change; hoangkttv@gmail.com Abstract: The study aimed to assess water quality in the coastal area of Ho Chi Minh City to 2030 (via parameters of BOD, DO, NO3––N, NH4+–N, PO43––P, TSS, and Coliform) in the context of sea level rise (RCP4.5 and RCP8.5) under different wastewater treatment scenarios. In the period of 2019–2030, if the wastewater treatment situation is not improved, areas (and related parameters) of concern would be Soai Rap, Long Tau, Vam Sat rivers (TSS, BOD, PO43––P), and the coastal area of Long Hoa–Can Thanh (TSS, PO43––P). In case of meeting or maximal meeting the regulations on wastewater quality, the coastal water quality would positively change (BOD and PO43––P) in the period 2020–2025, but gradually decrease in the following years due to the increase in discharge from economic activities. It should be noted that, even maximal meeting the regulations on wastewater treatment, continental (upstream) surface water would be still polluted in 2030 by BOD, PO43––P, and TSS (about 2–5 times as many as the standard). Results showed wastewater generators in the research areas have significantly contributed BOD and PO43––P into the coastal water. It is also recommended to reduce the number of RCP scenarios when simulating water quality in the near future due to small differences among caculating results. Keywords: Coastal area; Surface water; Water quality; Water quality index.
File đính kèm:
- du_bao_chat_luong_nuoc_mat_vung_bo_thanh_pho_ho_chi_minh_den.pdf