Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương

Táo bón là hiện tượng đại tiện khó khăn do phân lưu

giữ trong ruột quá lâu làm cho số lần đi ngoài ít dưới

3 lần/tuần, phân thường khô cứng [1]. Đây là một hội

chứng rất phổ biến mà trong cuộc sống mỗi con người

ai cũng có lúc mắc phải. Hội chứng này gặp ở mọi lứa

tuổi, mọi giới, mọi ngành nghề. Tại Hoa Kỳ mỗi năm có

khoảng 4,5 triệu người bị ảnh hưởng dài ngày của táo

bón, các đối tượng thường gặp là trẻ em, phụ nữ, người

cao tuổi. Tỷ lệ mắc táo bón ở nam là 26 %, ở nữ là 34

%, 3% số trẻ đến khám nhi và 25 % số trẻ khám tiêu

hóa nhi do táo bón, 30 - 40% những người trên 65 tuổi.

Mỗi năm tại Hoa Kỳ chi khoảng 725 triệu đô la cho việc

chữa trị táo bón bằng thuốc nhuận tràng [2]. Theo điều

tra của Bộ Y tế Trung Quốc, khoảng 130 triệu người

đang có những vấn đề về chứng táo bón, trong đó 75%

có chứng táo bón mạn tính [3]. Theo nghiên cứu của

Robain và cộng sự, tỷ lệ táo bón ở bệnh nhân tai biến

mạch máu não đang trong thời kì phục hồi chức năng

lên tới trên 60% [4]. Ở Việt Nam chưa có số liệu thống

kê cụ thể về chứng táo bón trên toàn quốc, nhưng qua

điều tra của Hà Văn Ngạc về thói quen đại tiện ở 2127

người bình thường cho thấy số người đại tiện ≥ 4 ngày/

lần chiếm tỷ lệ 1,68% [5]. Táo bón ảnh hưởng tới chất

lượng sống và làm diễn biến bệnh lý của người mắc

bệnh mạn tính ngày càng nặng hơn. Táo bón kéo dài có

thể gây ra các chứng bệnh khác như trĩ, sa trực tràng,

ung thư trực tràng, chảy máu, rách hậu môn, tăng nguy

cơ nhồi máu não hoặc xuất huyết não ở người cao tuổi

có bệnh lý tim mạch [6]. Có nhiều nguyên nhân gây

ra táo bón: do chế độ ăn ít chất xơ, uống ít nước, thói

quen nhịn đi ngoài, do thuốc, do bệnh tật, tổn thương

thực thể ở đại tràng, hậu môn trực tràng, tổn thương

não tủy sống. [7]. Tùy theo nguyên nhân mà ta lựa

chọn phương pháp điều trị táo bón phù hợp và hiệu quả

như thay đổi chế độ ăn, tập thể dục, dùng thuốc nhuận

tràng, điều trị các bệnh kèm theo. Ở người cao tuổi,

chức năng các cơ quan trong cơ thể giảm sút, chức

năng hệ tiêu hóa cũng giảm đi, khả năng nhai giảm, chế

độ ăn ít chất xơ, uống ít nước, hạn chế vận đông, có

các bệnh kèm theo.nên người cao tuổi có nguy cơ cao

mắc táo bón.

Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương trang 1

Trang 1

Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương trang 2

Trang 2

Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương trang 3

Trang 3

Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương trang 4

Trang 4

Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 15120
Bạn đang xem tài liệu "Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương

Điều tra tỷ lệ mắc táo bón và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện lão khoa trung ương
TCNCYH Phụ trương 91 (5) - 2014
73
ĐIỀU TRA TỶ LỆ MẮC TÁO BÓN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG
Hồ Thị Kim Thanh1, Nguyễn Thị Lương2
 1 Trư͵ng Ĉ̹L hͥF Y Hj NͱL 2 %͟nh YL͟n OmR NhRD trXng ương
NghLrn F΁X ÿưͻF thΉF hL͟n nh͉P Nh̻R Vit t΍ O͟ P͇F tiR Eyn FͿD E͟nh nhkn FDR tXͭL ÿL͙X trͣ nͱL tr~ t̹L %͟nh YL͟n 
OmR NhRD trXng ương Yj FiF \͗X tͩ OLrn TXDn ĈL͙X trD F͇t ngDng 124 ngư͵L E͟nh nͱL tr~ n͉P YL͟n tt nh̽t 1 tX̿n t̽t 
F̻ ÿ͙X ÿưͻF thăP NhiP OkP Vjng ÿL͙X trD Nh́X Sh̿n ăn Xͩng 24 gL͵ Yj OjP E͟nh in thHR P̓X thͩng nh̽t .͗t TX̻ 
FhR th̽\ t΍ O͟ tiR Eyn FͿD E͟nh nhkn ÿL͙X trͣ nͱL tr~ t̹L %͟nh YL͟n /mR .hRD trXng ương Oj 4 t΍ O͟ E͟nh nhkn 
Fy tL͙n V΅ tiR Eyn Oj 29 .h{ng Fy VΉ NhiF EL͟t r} r͟t Y͙ t΍ O͟ P͇F tiR Eyn gL·D 2 gLͳL T΍ O͟ P͇F tiR Eyn ͷ ngư͵L 
trrn 0 tXͭL Oj 41 Fh͗ ÿͱ ăn tt Fh̽t [ơ ( 10 gDPngj\) Oj 41 ăn TXD VRnGH  Xͩng tt nưͳF  500 PO
ngj\ Oj 55 h̹n Fh͗ Yͅn ÿͱng Oj 409 44 FiF trư͵ng hͻS tiR Eyn [X̽t hL͟n VDX NhL YjR YL͟n .͗t OXͅn T΍ 
O͟ tiR Eyn FͿD E͟nh nhkn ÿL͙X trͣ nͱL tr~ t̹L %͟nh YL͟n /mR .hRD trXng ương Oj 4 t΍ O͟ E͟nh nhkn Fy tL͙n V΅ tiR 
Eyn Oj 29 CiF \͗X tͩ ngX\ Fơ tiR Eyn ͷ ngư͵L FDR tXͭL TXͭL • 0 Fh͗ ÿͱ ăn tt Fh̽t [ơ ( 10 gDPngj\) ăn TXD 
VRnGH Xͩng tt nưͳF h̹n Fh͗ Yͅn ÿͱng Sh̻L n͉P YL͟n NpR GjL
Từ khóa: táo bón, người cao tuổi
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Táo bón là hiện tượng đại tiện khó khăn do phân lưu 
giữ trong ruột quá lâu làm cho số lần đi ngoài ít dưới 
3 lần/tuần, phân thường khô cứng [1]. Đây là một hội 
chứng rất phổ biến mà trong cuộc sống mỗi con người 
ai cũng có lúc mắc phải. Hội chứng này gặp ở mọi lứa 
tuổi, mọi giới, mọi ngành nghề. Tại Hoa Kỳ mỗi năm có 
khoảng 4,5 triệu người bị ảnh hưởng dài ngày của táo 
bón, các đối tượng thường gặp là trẻ em, phụ nữ, người 
cao tuổi. Tỷ lệ mắc táo bón ở nam là 26 %, ở nữ là 34 
%, 3% số trẻ đến khám nhi và 25 % số trẻ khám tiêu 
hóa nhi do táo bón, 30 - 40% những người trên 65 tuổi. 
Mỗi năm tại Hoa Kỳ chi khoảng 725 triệu đô la cho việc 
chữa trị táo bón bằng thuốc nhuận tràng [2]. Theo điều 
tra của Bộ Y tế Trung Quốc, khoảng 130 triệu người 
đang có những vấn đề về chứng táo bón, trong đó 75% 
có chứng táo bón mạn tính [3]. Theo nghiên cứu của 
Robain và cộng sự, tỷ lệ táo bón ở bệnh nhân tai biến 
mạch máu não đang trong thời kì phục hồi chức năng 
lên tới trên 60% [4]. Ở Việt Nam chưa có số liệu thống 
kê cụ thể về chứng táo bón trên toàn quốc, nhưng qua 
điều tra của Hà Văn Ngạc về thói quen đại tiện ở 2127 
người bình thường cho thấy số người đại tiện ≥ 4 ngày/
lần chiếm tỷ lệ 1,68% [5]. Táo bón ảnh hưởng tới chất 
ĈͣD Fh͡ OLrn h͟ Hͫ Thͣ .LP ThDnh %ͱ P{n NͱL tͭng hͻS 
trư͵ng Ĉ̹L hͥF Y Hj NͱL
(PDLO thDnhhRNLP#\DhRRFRP
Ngj\ nhͅn 222014
Ngj\ Fh̽S thXͅn 1112014
lượng sống và làm diễn biến bệnh lý của người mắc 
bệnh mạn tính ngày càng nặng hơn. Táo bón kéo dài có 
thể gây ra các chứng bệnh khác như trĩ, sa trực tràng, 
ung thư trực tràng, chảy máu, rách hậu môn, tăng nguy 
cơ nhồi máu não hoặc xuất huyết não ở người cao tuổi 
có bệnh lý tim mạch[6]. Có nhiều nguyên nhân gây 
ra táo bón: do chế độ ăn ít chất xơ, uống ít nước, thói 
quen nhịn đi ngoài, do thuốc, do bệnh tật, tổn thương 
thực thể ở đại tràng, hậu môn trực tràng, tổn thương 
não tủy sống. [7]. Tùy theo nguyên nhân mà ta lựa 
chọn phương pháp điều trị táo bón phù hợp và hiệu quả 
như thay đổi chế độ ăn, tập thể dục, dùng thuốc nhuận 
tràng, điều trị các bệnh kèm theo... Ở người cao tuổi, 
chức năng các cơ quan trong cơ thể giảm sút, chức 
năng hệ tiêu hóa cũng giảm đi, khả năng nhai giảm, chế 
độ ăn ít chất xơ, uống ít nước, hạn chế vận đông, có 
các bệnh kèm theo...nên người cao tuổi có nguy cơ cao 
mắc táo bón. Trong thực hành lâm sàng tại bệnh viện 
Lão khoa Trung ương, triệu chứng táo bón ở các bệnh 
nhân điều trị nội trú là khá thường gặp, vì vậy nghiên 
cứu này được thực hiện nhằm hai mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ táo bón ở bệnh nhân điều trị nội trú tại 
Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng táo 
bón ở người cao tuổi
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
- Chọn tất cả các bệnh nhân điều trị nội trú tại 3 khoa 
của Bệnh viện Lão khoa Trung ương từ tháng 12/2013 
TCNCYH Phụ trương 91 (5) - 2014
74
đến tháng 3/2014.
- Thời gian đã điều trị tại viện ≥ 7 ngày.
- Bệnh nhân đồng ý và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- /R̹L tr΃ Bệnh nhân đang mắc các bệnh cấp tính, phải 
điều trị tích cực.
2. Phương pháp 
- Phương pháp nghiên cứu: dịch tễ học mô tả, cắt 
ngang
- Mỗi bệnh nhân và người nhà bệnh nhân được hỏi và 
trả lời trực tiếp theo bộ câu hỏi phỏng vấn và phiếu hỏi 
ghi khẩu phần ăn theo phương pháp nhớ lại khẩu phần 
ăn 24h đã được thiết kế sẵn, 
Chẩn đoán táo bón theo tiêu chuẩn Rome III:
Táo bón chức năng được xác định khi có ít nhất 2 
trong 6 tiêu chuẩn sau:
- Đại tiện dưới 3 lần/tuần. 
- Rặn nhiều, lâu khi đại tiện.
- Phân khô cứng, màu đen hay vón cục.
- Đại tiện xong vẫn không thấy hết phân.
- Cảm thấy như bị nghẽn tắc vùng hậu môn trực tràng.
- Thời gian đại tiện kéo dài.
3. Xử lý số liệu: bằng chương trình SPSS phiên 
bản 15.0. 
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ các qui tắc về đạo đức trong 
nghiên cứu y sinh. Các đối tượng nghiên cứu đồng 
thuận tham gia và có thể rút lui bất kỳ khi nào nếu không 
đồng ý. Thông tin về đối tượng cũng như kết quả nghiên 
cứu được bảo mật theo qui định. 
III. KẾT QUẢ 
1 Đặc điểm chung 
Điều tra 124 bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện 
Lão Khoa trung ương tại các khoa: Nội tổng hợp, Nội 
tiết chuyển hóa, Tâm thần kinh từ tháng 12/2013 đến 
tháng 3/2014. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 
73,7 ± 11,5, cao nhất là 92 tuổi, thấp nhất là 50 tuổi, 
trong đó nhóm bệnh nhân ≥ 70 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 
64,5%. Nhóm nghiên cứu có 45,2% nam; 54,8% nữ.
2. Tỷ lệ mắc táo bón và các yếu tố liên quan
Biểu đồ 1. Tỷ lệ táo bón
Tỷ lệ mắc táo bón của nhóm nghiên cứu là 34,7%. Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử bị táo bón là 62,9%.
Bảng 1. Tỷ lệ táo bón theo tuổi, giới
Nhóm bệnh nhân ≥ 70 tuổi có tỷ lệ táo bón gấp 2,39 lần nhóm bệnh nhân < 70 tuổi, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê với 95% CI (1,34 - 3,56).
Đặc điểm
Táo bón Không táo bón OR
(95% CI)n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Tuổi
≥ 70 33 41,3 47 58,7 2,39
(1,34 - 3,56)< 70 10 22,7 34 77,3
Giới
Nam 24 42,9 32 57,1 1,93
(0,90 - 4,14)Nữ 19 27,9 49 72,1
TCNCYH Phụ trương 91 (5) - 2014
75
Hầu hết táo bón xuất hiện sau khi vào viện với tỷ lệ 74,4%
Bảng 2. Tỷ lệ táo bón theo thời gian xuất hiện
Bảng 3. Mối liên quan giữa táo bón và lượng chất xơ, lượng nước uống trong khẩu phần ăn 24h
100% các bệnh nhân mắc táo bón có lượng chất xơ ăn hàng ngày thấp < 15 gram/ngày. Nhóm có lượng chất xơ 
trong khẩu phần ăn < 10 gram/ngày có nguy cơ mắc táo bón gấp 5,95 lần nhóm ăn ≥ 10 gram/ngày, sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với 95% CI (1,32 - 11,3).
- Lượng nước uống trung bình của nhóm nghiên cứu là 936 ± 440 ml/ngày, của nhóm táo bón là 757 ± 370 ml/ngày. 
Càng uống ít nước thì nguy cơ táo bón càng cao. 
Bảng 4. Mối liên quan giữa táo bón và mức độ vận động, cách ăn
Nhóm hạn chế vận động có nguy cơ mắc táo bón gấp 2,87 lần nhóm đi lại bình thường. Nhóm ăn qua sonde có 
tỷ lệ táo bón gấp 6,6 lần nhóm tự ăn.
IV. BÀN LUẬN
Táo bón là một hội chứng thường gặp ở người cao 
tuổi, do nhiều nguyên nhân gây ra: do chế độ ăn ít chất 
xơ, uống ít nước, thói quen nhịn đi ngoài, do thuốc, 
bệnh tật, tổn thương thực thể ở đại tràng, hậu môn trực 
tràng, tổn thương não tủy sống... [8]. Điều tra 124 bệnh 
nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương 
có các đặc điểm chung: tuổi trung bình là 73,7 ± 11,5, 
nhóm bệnh nhân ≥ 70 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 64,5%, 
có 45,2% nam, 54,8% nữ. Trong nghiên cứu, tiêu chuẩn 
chọn bệnh nhân là số ngày đã điều trị tại viện ≥ 7 ngày 
giúp đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nằm 
viện với táo bón. Số ngày điều trị của nhóm nghiên cứu 
Thời gian xuất hiện táo bón n Tỷ lệ (%)
Trước vào viện 11 25,6
Sau vào viện 32 74,4
Tổng 43 100
Lượng chất xơ/nước uống
Táo bón Không táo bón OR
95% CIn Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
< 10gram/ngày 40 41,7 56 58,3
5,95 (1,32 - 11,3 )
≥ 10gram/ngày 3 10,7 25 89,3
≤ 500 ml/ngày 20 55,6 16 44,4 11,2 (1,8 - 68,5)
500 – 999 ml/ngày 11 47,8 12 52,2 8,2 (1,3 - 52,9)
1000 – 1499 ml/ngày 10 22,2 35 77,8 2,6 (0,5 - 13,4)
≥ 1500 ml/ngày 2 10,0 18 90,0 1
Táo bón Không táo bón OR
(95% CI)n (%) n (%)
Hạn chế vận động 36 40,9 52 59,1 2,87 
(1,11 - 7,43)Đi lại bình thường 7 19,4 29 80,6
Ăn qua sonde 11 73,3 4 26,7% 6,6
(1,84 - 23,8)Tự ăn 32 29,4 77 70,6
TCNCYH Phụ trương 91 (5) - 2014
76
trung bình là 11,5 ± 4,6 trong đó tỷ lệ bệnh nhân điều trị 
từ 11 - 20 ngày chiếm tỷ lệ cao nhất 58,9%; điều trị dài 
nhất là 35 ngày. Theo tiêu chuẩn chẩn đoán táo bón của 
Rome III, chúng tôi xác định có 43 bệnh nhân (34,7%) 
mắc táo bón trong tổng số 124 bệnh nhân nghiên cứu. 
Trong nghiên cứu của Hà Văn Ngạc về thói quen đại 
tiện ở 2127 người bình thường cho thấy: 83,2% đi đại 
tiện hàng ngày, 15,3% đại tiện 2 - 3 ngày/lần, 1,68% đại 
tiện ≥ 4 ngày/lần [5]. Theo nghiên cứu của Arnold Wald 
(2005) ở người bình thường ≥ 20 tuổi, tỷ lệ táo bón ở 
Hoa Kỳ là 18%, ở Anh là 8%, ở Pháp là 14%, ở Đức là 
5%, Italia là 8%, ở Brazil là 17%, ở Hàn Quốc là 17%. 
Tỷ lệ táo bón chung trên thế giới là khoảng 14% [2]. 
Nghiên cứu của chúng tôi lấy đối tượng là bệnh nhân 
điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa có độ tuổi trung 
bình cao hơn, mắc nhiều bệnh kèm theo nên tỷ lệ táo 
bón cao hơn các nghiên cứu khác thực hiện ở người 
bình thường. Khai thác tiền sử bị táo bón có 62,9% 
bệnh nhân đã từng mắc, phù hợp với kết quả nghiên 
cứu của Đào Văn Long (khoảng 50% người cao tuổi ở 
cộng đồng mắc táo bón) [7]. Hosia-Randell H. và cộng 
sự (2007) nghiên tại trung tâm dưỡng lão ở Hensinki 
(Phần Lan) cũng cho thấy trong số 1987 người thì có 
82% có dùng thuốc nhuận tràng hay mắc táo bón [9]. 
Chứng tỏ táo bón là hiện tượng rất thường gặp ở người 
cao tuổi.
T΍ O͟ tiR Eyn thHR tXͭL gLͳL th͵L gLDn n͉P YL͟n
Táo bón là một hội chứng khá phổ biến có thể gặp 
ở mọi lứa tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi 
trung bình của bệnh nhân mắc táo bón trong nghiên 
cứu là 75 ± 10,8. Tuổi thấp nhất mắc táo bón của nhóm 
nghiên cứu là 53 tuổi, cao nhất là 92 tuổi. Nhóm bệnh 
nhân ≥ 70 tuổi có tỷ lệ táo bón gấp 2,39 lần nhóm bệnh 
nhân < 70 tuổi, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (95%CI 
1,34 - 3,56). Nghiên cứu của Sonnenberg A, Koch TR 
cho thấy có khoảng 30 - 40% người trên 65 tuổi có vấn 
đề về táo bón [10]. Các nghiên cứu đều ghi nhận sự 
gia tăng tỷ lệ táo bón theo tuổi. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi tỷ lệ mắc táo bón ở nam (42,9%) nhiều hơn 
ở nữ ( 27,9%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê. Kết quả này cũng tương tự kết quả nghiên cứu của 
Danielle Harari và cộng sự, tỷ lệ táo bón ở nhóm nghiên 
cứu là 53,4% ở nam, nữ là 46,6% [11]. 
Trong số các bệnh nhân mắc táo bón có những 
người xuất hiện táo từ trước khi vào viện (25,6%), có 
người vào viện rồi mới xuất hiện táo bón (74,4%), tỷ lệ 
táo bón tăng gấp khoảng 3 lần sau khi vào viện. Nằm 
viện đồng nghĩa với tăng nguy cơ gây táo bón như: 
tác động của thuốc điều trị bệnh chính, các tổn thương 
não và tủy sống, hạn chế vận động, sử dụng nhiều loại 
thuốc có nguy cơ gây táo bón, chế độ ăn giảm chất xơ, 
stress. 
/ưͻng Fh̽t [ơ nưͳF Xͩng trRng Nh́X Sh̿n ăn Yj 
P΁F ÿͱ Yͅn ÿͱng
Chất xơ có nhiều trong các rau củ quả, một số loại 
chất xơ không bị tiêu hóa sẽ giúp làm phân mềm và 
không cứng. Bình thường, chúng ta cần 20 - 35 gram 
chất xơ trong khẩu phần ăn mỗi ngày. Trong nghiên cứu 
này chúng tôi thấy 100% các bệnh nhân mắc táo bón có 
lượng chất xơ ăn hàng ngày < 15 gram/ngày. Nhóm có 
lượng chất xơ trong khẩu phần ăn < 10 gram/ngày có 
tỷ lệ táo bón gấp 5,95 lần nhóm ăn ≥ 10 gram/ngày, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với 95% CI 1,32 - 11,3. So 
với nghiên cứu của Alayne D Markland DO và cộng sự 
trên 10.914 người (từ 20 tuổi) có 30,5% những người 
đàn ông và 32,8 % phụ nữ bị táo bón báo cáo lượng 
chất xơ < 10 gram/ngày so với 17,3% những người đàn 
ông và 27,1 % phụ nữ không có táo bón. Sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 [12].
Lượng nước uống trong 1 ngày trung bình của nhóm 
nghiên cứu là 936 ± 440 ml/ngày. Người cao tuổi có 
ngưỡng khát rất cao, ít có nhu cầu uống nước, nhất 
là khi nằm viện điều kiện ăn uống không thuận lợi như 
ở nhà, do đó lượng nước uống hàng ngày cũng giảm. 
Nhóm bệnh nhân uống ≤ 500 ml/ngày, 500 - 999 ml/
ngày có tỷ lệ mắc táo bón tương ứng gấp 11,2 lần, 8,2 
lần so với nhóm uống ≥ 1500 ml/ngày, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với 95% CI 1,8 - 68,5 và 1,3 - 52,9. Như 
vậy, uống càng ít nước nguy cơ mắc táo bón càng cao. 
So với kết quả của Alayne D Markland DO và cộng sự 
có sự tương đồng [12]. Lượng nước uống trong ngày 
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau nhưng trung bình 
lượng nước cần uống vào khoảng 2000 ml/ngày.
Nhóm ăn qua sonde có tỷ lệ táo bón gấp 6,6 lần 
nhóm tự ăn, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 95% 
CI dao động 1,84 - 23,8. Trong số 15 bệnh nhân ăn 
qua sonde thì 11 bệnh nhân mắc táo bón chiếm 73,3%. 
Thức ăn của bệnh nhân ăn qua sonde thường là cháo, 
súp, sữađều ở dạng lỏng, đã được làm nhuyễn, hàm 
lượng chất xơ trong đó rất thấp. Người chăm sóc cho 
rằng ăn súp sữa đã nhiều nước nên có thể không cho 
bệnh nhân uống thêm nước, do đó lượng nước đưa 
vào cơ thể ít, dẫn tới hậu quả táo bón gặp nhiều hơn 
trên những bệnh nhân này.
Bệnh nhân cao tuổi nằm viện rất hay gặp tình trạng 
hạn chế vận động do mệt mỏi, đau cơ xương khớp, có 
các loại sonde như sonde ăn, sonde tiểu, tiêm truyền 
Kết quả nghiên cứu cho thấy 88/124 bệnh nhân có sự 
hạn chế về vận động. 40,9% bệnh nhân có hạn chế về 
vận động mắc táo bón, 19,4% bệnh nhân đi lại bình 
thường mắc táo bón. Nhóm hạn chế vận động có tỷ lệ 
táo bón gấp 2,87 lần nhóm đi lại bình thường, sự khác 
TCNCYH Phụ trương 91 (5) - 2014
77
biệt có ý nghĩa thống kê với 95% CI 1,11 - 7,43. 
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ táo bón của bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh 
viện Lão Khoa trung ương là 34,7%; tỷ lệ bệnh nhân có 
tiền sử táo bón là 62,9%.
Các yếu tố nguy cơ táo bón ở người cao tuổi: Tuổi ≥ 
70, chế độ ăn ít chất xơ (< 10 gam/ngày), ăn qua sonde, 
uống ít nước, hạn chế vận động, phải nằm viện kéo dài.
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc bệnh viện Lão 
khoa Trung ương và các khoa lâm sàng đã tạo điều 
kiện cho chúng tôi thu thập số liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Y Hà Nội (2004), Táo bón, Bệnh 
học nội khoa tập 1- Bài giảng dành cho đối tượng sau 
đại học, Nhj [X̽t E̻n \ hͥF 153 - 167.
2. Arnold Wald (2005). The BI Omnibus Study: An in-
ternational survey of community prevalence of consti-
pation and laxative use in adults, 'RZnORDG DrtLFOH IrRP 
:DOGD#PV[XSPFHGX
3. Xin Yang (2005), Bệnh táo bón, Nhà xuất bản Hà 
Nội.
4. Robain G., Chennevelle J.M., Petit F., Piera J.B. 
(2002), Incidence of constipation after recent vascular 
hemiplegia: a propective cohort of 152 pations, 5HY 
NHXrRO (PDrLV) 158 (5 Pt1):, tr. 589 - 592.
5. Nguyễn Thế Ba; Nguyễn Thị Ngọc Thảo; Hà Văn 
Ngạc (2001), Tìm hiểu về thói quen đi đại tiện ở người 
lớn bình thường, Tạp chí thông tin y dược, (5), tr. 15 - 
16.
6. Các bộ môn nội trưởng đại học Y Hà Nội (2012), 
Hướng chẩn đoán và điều trị táo bón, Bệnh học nội 
khoa tập 2, Nhj [X̽t E̻n Y hͥF 91 - 95
7. Đào Văn Long (2004). Táo bón, Lâm sàng bệnh tiêu 
hóa thực hành dựa trên vấn đề 245 - 263.
8. Ozturk R (2007). Defecation disorders: an important 
subgroup of functional constipation, its pathophysiol-
ogy, evaluation and treatment with biofeedback, TXrN 
-*DVtrRHntHrRO 18(3), 139 - 149.
9. Hosia R.H.; Suominen M.; Muurinen S.; Pitkala 
K.H (2007). Use of laxatives among older nursing home 
residents in Hensinki, Finland, 'rXgV $gLng 24(2), 147 
- 154.
10. Sonnenberg A; Koch TR. (1989). Epidemiology of 
constipation in the United States, 'LV CRORn 5HFtXP 
32(1):1 - 8.
11. Danielle H.; Christine N.; Linda L. and Cameron 
S. (2004). Treatment of Constipation and Fecal Inconti-
nence in Stroke Patients: Randomized Controlled Trial, 
6trRNH 35, 2549 - 2554.
12. Kathryn L.B; Jan Busby W.; William E.W et al 
(2013). Association of Low Dietary Intake of Fiber and 
Liquids With Constipation, $P - *DVtrRHntHrRO 8(5): 
796 - 803.
Summary
CONSTIPATION AND RELATIVE FACTORS IN THE ELDERLY IN-PATIENTS IN 
VIETNAM NATIONAL GERIATRIC HOSPITAL 
The study was to investigate the prevalence of constipation and risk factors in the elderly in-patients. 124 patients 
admitted in the hospital for at least 1 week were included in the study. 34.7% hospitalized patients are reported to 
have bowel incontinence; the patients have the previous history of the constipation was 62.9%, there is no difference 
between both sexes. Prevalence of constipation in patients over 70 years old was 41.3%, low fiber consumption 
(<10g/day) was 41.7%, tube feeding was 73.3%, low water intake (500ml/day) was 55.6%, and decrease in mobility 
was 40.9%. 74.4% patients suffered from constipation after hospitalization.
 In conclusion, the prevalence of constipation in inpatients was 34.7%. Risk factors of constipation were: age >70, 
low fiber consumption (<10g/day), tube feeding, low water intake, and decrease in mobility, and prolonge hospital 
admission. 
Key words: constipation, elderly

File đính kèm:

  • pdfdieu_tra_ty_le_mac_tao_bon_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_o_benh.pdf