Diễn giải lịch sử trong tiểu thuyết Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison
Tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison là những mảnh vụn hồi ức sống động về một thời kỳ lịch sử đau đớn của người Mỹ da đen: chế độ nô lệ. Diễn giải lịch sử ấy, thông qua lăng kính bi kịch của một nữ nô lệ, của kẻ bị săn đuổi và bị phá hủy bản sắc, thể hiện một cảm quan lịch sử mới của nhà văn. Ám ảnh
lịch sử hồi quang trong dáng hình một câu chuyện ma “ăn mòn” tâm trí của từng cá nhân và trở thành biểu tượng cho thân phận của một chủng tộc, một dân tộc và trong tương lai, ai sẽ viết tiếp những trang sử của người Mỹ gốc Phi?
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Diễn giải lịch sử trong tiểu thuyết Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Diễn giải lịch sử trong tiểu thuyết Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 97 – 105 97 DIỄN GIẢI LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI YÊU DẤU (BELOVED) CỦA TONI MORRISON Nguyễn Thị Tuyết1 1Trường Đại học An Giang Thông tin chung: Ngày nhận bài: 13/06/2016 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 13/07/2016 Ngày chấp nhận đăng: 06/2017 Title: A historical explanation in Beloved of Toni Morrison Keywords: Beloved, Toni Morrison, History, Slavery, Destruction of Identity, Rememory Từ khóa: Người yêu dấu, Toni Morrison, Lịch sử, Chế độ nô lệ, Phá hủy bản sắc, Phục hồi ký ức ABSTRACT “Beloved” of Toni Morrison has reflected a series of flashbacks, memories, and nightmares of a painful period of Black Americans’ history or slavery. The explanation of that period through the tragedy of a female slaver, whose identities was destroyed, has illustrated a historical perspective of the writer. The historical obsession that was reflected in a ghost story has impacted the thoughts of each individual at that time and become a symbol of their race. In the future, who will continue writing about the African Americans's history? TÓM TẮT Tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison là những mảnh vụn hồi ức sống động về một thời kỳ lịch sử đau đớn của người Mỹ da đen: chế độ nô lệ. Diễn giải lịch sử ấy, thông qua lăng kính bi kịch của một nữ nô lệ, của kẻ bị săn đuổi và bị phá hủy bản sắc, thể hiện một cảm quan lịch sử mới của nhà văn. Ám ảnh lịch sử hồi quang trong dáng hình một câu chuyện ma “ăn mòn” tâm trí của từng cá nhân và trở thành biểu tượng cho thân phận của một chủng tộc, một dân tộc và trong tương lai, ai sẽ viết tiếp những trang sử của người Mỹ gốc Phi? Tưởng không gì minh bạch hơn lịch sử, nhưng không phải chỉ văn chương mới là câu chuyện của điểm nhìn, mà có lẽ lịch sử cũng vậy nên mới có những mệnh đề đối lập: Nhân dân làm nên lịch sử hay nhân dân chịu đựng lịch sử? Khi văn học hư cấu về lịch sử, câu chuyện về điểm nhìn trở nên mờ nhòe hơn, bởi những khúc xạ của thân xác và thân phận! Người yêu dấu (Beloved, 1987) được xem là tác phẩm xuất sắc nhất của nữ văn sĩ người Mỹ da đen Toni Morrison (sinh năm 1931) viết về bóng ma của chế độ nô lệ trong bi kịch của một người mẹ yêu con và giết con. Bóng ma ấy không chỉ hiện thân của những mất mát, đau đớn, những nhục hình và phá hủy mà còn là tình yêu và sự hy sinh vô bờ, ở đó dung chứa những mặt đối lập trong một tham vọng lớn: “tham vọng tái hiện cả lịch sử nô lệ của người da đen và cả lịch sử tội lỗi của người da trắng” (Lê Huy Bắc, 2010, tr. 900). Xem Người yêu dấu như một tiểu thuyết lịch sử, tác giả bài viết muốn đọc lại một giai đoạn lịch sử nước Mỹ theo kiểu của Morrison, đọc từ cảm quan của người thiểu số (người phụ nữ, người da đen, kẻ bị nô dịch). 1. TỪ GÓC NHÌN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ Người yêu dấu lấy bối cảnh nước Mỹ (khoảng 1855 - 1875) thời kỳ Tái thiết đan dệt với những hồi tưởng của các nhân vật trải dài trước đó khoảng hai chục năm (thời kỳ trước, trong và sau cuộc Nội chiến Nam - Bắc (1862 - 1865) giữa các bang miền Nam duy trì chế độ nô lệ và các bang miền Bắc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ). Đấy cũng là bối cảnh mà nhiều tác gia đã sử dụng, đặc An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 97 – 105 98 biệt phải kể đến tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió (Gone With the Wind, 1936) của Margaret Mitchell (1900 - 1949) và Túp lều của bác Tom (Uncle Tom’s Cabin, 1952) của Harriet Beecher - Stowe (1811 - 1896). Cùng viết về người da đen nhưng ba nữ văn sĩ khác biệt về sắc tộc (M. Mitchell và H. Beecher-Stowe là người da trắng, T. Morrison là người da đen) và điểm nhìn, nên hình ảnh người da đen trong tác phẩm của họ hiện lên khác nhau và lịch sử đã bị khúc xạ qua lăng kính đó. Theo Pierre Bourdier (1930 - 2002), nhà xã hội học người Pháp nửa sau thế kỷ XX, sự phân chia giới tính là một điều võ đoán, song đã được vĩnh viễn hóa: “Sự thống trị của nam giới neo chắc vào vô thức của chúng ta” (Lê Hồng Sâm, 2010, tr. bìa), cả nam giới và phụ nữ, cho nên những trang sử viết về những người phụ nữ mang trọng trách cao cả trên vai là ít ỏi, những người phụ nữ làm thay đổi bánh xe của lịch sử là hi hữu và hầu hết, sử sách được ghi lại có lẽ cũng chỉ theo nhãn quan của nam giới. Toni Morrison là một ngoại lệ. Bà là người phụ nữ da đen đầu tiên được trao giải thưởng Nobel Văn học (và nhiều giải thưởng danh giá khác), như một mốc son để vinh danh phụ nữ, vinh danh người da đen, bà đang viết những trang sử mới. Như Sethe, nữ nhân vật chính trong Người yêu dấu, đã giải thoát mình khỏi lịch sử của nam giới, của người da trắng, đồng thời viết nên trang sử của mình, của cộng đồng mình, bằng cách truy tìm bản thể. Sethe đến đồn điền Sweet Home lúc chị mười ba tuổi, với đôi mắt đen láy, chị trở thành nỗi khao khát của tất cả đàn ông da đen ở đây, chị được phép chọn một trong năm người đà ... n như lời khẳng định trên tờ Publishers Weekly, “Người yêu dấu là cái mốc quan trọng trong biên niên sử về người da đen ở Mỹ”, và cũng là một kiệt tác không thể thiếu trong nền văn học Mỹ như chính những trang sử đau đớn và đáng xấu hổ nhưng không bao giờ xóa bỏ được. 3. KHI BÓNG MA LÀ LỊCH SỬ VÀ LỊCH SỬ LÀ BÓNG MA Ở cuối tác phẩm, khi Paul D hỏi Denver có phải hồn ma Beloved là chị của cô, bị Sethe, mẹ cô giết cách đây gần hai mươi năm, thì Denver trả lời: “Đôi lúc cháu nghĩ rằng nó có thể là một cái gì khác nữa” (Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà, 1995, tr. 416). Beloved là ai, hẳn không có câu trả lời rốt ráo cho các nhân vật trong truyện, cho độc giả, và ngay các nhà nghiên cứu vẫn cố công tìm hiểu: là cô gái trẻ đi lạc, hay đó có thể là cô gái đã từng sống với người đàn ông da trắng, người đàn ông ấy chết và cô cũng mất tích, hoặc đó là hồn ma của đứa con nhỏ của Sethe đã lớn lên theo năm tháng nay hiện hình bằng xương bằng thịt? Beloved là hình tượng đa nghĩa. Ngay trong từ Beloved có rất nhiều tranh cãi, có nhà nghiên cứu đã cho rằng: nhan đề tác phẩm là kết quả của sự hiểu lầm ngôn ngữ. Từ này hiện lên trong ký ức của Sethe, nhưng ký ức ấy đã trở nên mơ hồ, trong một lần chị nghe linh mục nói ở một tang lễ trong nhà thờ: Dearly Beloved; và Sethe khắc lên mộ chí đứa con gái nhỏ không tên mà chị quyết định giết đi chữ Beloved, cho mãi về sau chị luôn ân hận đã không nhớ ra đầy đủ để khắc lên dòng chữ thể hiện hết tình yêu con: Vô cùng thương mến. Như vậy, nếu vị linh mục chủ lễ bắt đầu: bằng “Dearly beloved” (Quý vị yêu dấu) là linh mục nói với những người sống đang dự tang lễ, thì Sethe, trong tâm tưởng lại hướng về đứa con đã chết, mà chị vô cùng thương yêu và đã phạm tội ác khủng khiếp như tình yêu đó. Nhưng xét trong toàn nội dung tác phẩm, Beloved là người được yêu dấu và cứu chuộc. Chính sự đa nghĩa đó khiến cho các dịch giả có những cách hiểu không giống nhau khi chuyển ngữ sang tiếng Việt: Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà dịch Beloved là Người yêu dấu thì Hồ Như dịch là Thương. Có lẽ “Beloved” chỉ nên dịch là “Yêu dấu” hoặc “Yêu quý” mà thôi. Gắn với lời đề từ (Sixty Million and More) và thấp thoáng hình ảnh những chuyến tàu buôn nô lệ trong những hành trình từ châu Phi sang châu Mỹ (Middle Passage), Beloved là hình ảnh tượng trưng cho “Sáu mươi triệu người và hơn thế nữa”. Con số đó là số lượng nô lệ bị giết chết trên đường vận chuyển từ Phi châu tới nước Mỹ. Con số khủng khiếp đó (gấp 12 lần dân số nước Mỹ đầu thế kỷ XIX) bày ra trước mắt chúng ta những tội ác kinh khủng của việc buôn bán nô lệ và tội diệt chủng. Chỉ con số đó thôi, Morrison gợi lại trong đầu óc người đọc về lịch sử đáng sợ của chế độ nô lệ và những thảm họa mà con người phải chịu đựng. Lịch sử thấp thoáng ấy rõ ràng hơn khi Beloved xuất hiện trong dáng vẻ một phụ nữ mặc lễ phục bước ra khỏi sóng nước trong tư thế bị ruồng bỏ và hai lá phổi bị tổn thương nặng. Và lần đầu tiên nhìn rõ khuôn mặt Beloved, Sethe bỗng mót đái đến cứng bụng, lượng nước chị tiết ra tưởng như vô tận, khiến chị lại liên tưởng đến cảnh sinh Denver trên đường chạy trốn: mênh mông là nước, nước của dòng sông làm ngập thuyền và nước ối tuôn ra xối xả. Nước mênh mông như những đại dương bao la mà bao nhiêu đồng bào chị đã bỏ mạng trên con đường ô nhục đến vùng đất xa xôi, trên những chiếc tàu buôn nô lệ. Những liên tưởng ấy sáng tỏ hơn khi Beloved nói về mình: “trong bóng tối tên tôi là Beloved”, và về nơi cô đã từng ở: “Rất nóng. Không có không khí để thở và không thể cựa quậy” (Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà, 1995, tr. 125). Nơi ấy là một nấm mồ hay một tàu buôn nô lệ? Trên An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 97 – 105 103 những chuyến tàu định mệnh ấy, nô lệ bị “đóng gói” như hàng hoá giữa các sàn tàu thường phải nằm trong chất thải, máu và cái chết của nhau, để tiết kiệm tối đa không gian và cũng giết chết khoảng sáu mươi triệu nô lệ. Với một chiếc còng sắt trên cổ, Beloved nằm úp thìa trên một chiếc tàu, “mặt một người đàn ông đã chết ép vào người cô” (Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà, 1995, tr. 328) Khi Beloved xưng “tôi là Beloved” trong phiến đoạn 4 và 5 ở phần thứ 3 của tác phẩm thì hình ảnh biển bao la với những khuôn mặt chìm khuất, ở đó có người đàn ông không da và chiếc vòng sắt lặp đi lặp lại như một ám ảnh. Như vậy Beloved có thể là hồn ma của đứa con gái nhỏ của Sethe dù chưa phải sống đời nô lệ nhưng bị chết vì chế độ tàn ác đó, biểu tượng cho sáu mươi triệu người đã giải thoát/bị giải thoát trước khi những chuyến tàu cập bờ “Tân thế giới”. Trong ý nghĩa đó, Beloved là biểu tượng cho tội ác của chế độ nô lệ cũng như bi kịch của người da đen, và vì vậy, tác phẩm trở thành một đài tưởng niệm lịch sử. Đó là lịch sử khủng khiếp như một vấn nạn lương tâm của người Mỹ: khi lịch sử là bóng ma, liệu bóng ma có trở về ám ảnh? Điểm nhìn tự sự trong tác phẩm không đặt vào “người chết” - Beloved, mà là từ người sống sót, với những thảm họa và mất mát, họ bị ám ảnh như thế nào khi nhìn vào đài tưởng niệm ấy? Bằng yếu tố kỳ ảo, siêu nhiên - hình tượng Beloved tượng trưng cho lịch sử: câu chuyện mở ra bằng sự giới thiệu về con ma như là giai điệu chủ đạo: “124 là ngôi nhà tràn ngập không khí hận thù, nhiễm đầy nọc độc của một đứa trẻ”, “Ngôi nhà 124 đang ồn ào”, “Ngôi nhà 124 thật yên tĩnh”. Ngôi nhà 124 là không gian hiện tại, nhưng gần hai chục năm trong hoang phế, cầm tù trong quá khứ, chỉ khi đối diện với quá khứ - Beloved, thì ngôi nhà ấy mới được giải thoát. Khi người dân Mỹ muốn quên đi quá khứ, người da trắng muốn quên đi tội ác của mình và người da đen muốn quên đi thân phận nhục nhã, muốn rũ bỏ quá khứ, thái độ đó được Morrison gọi là “chứng mất trí nhớ toàn quốc”. Trong những trang cuối của tác phẩm, khi nhân vật Beloved đã biến mất, Morrison viết: “Đó không phải là câu chuyện để lưu truyền”. “Đó không phải là câu chuyện để lan truyền”. “Đó không phải là câu chuyện để kể”. Beloved không chỉ là sáu mươi triệu đồng bào đã bỏ mạng, mà Beloved là quá khứ, là lịch sử của người da đen trên đất Mỹ. Lịch sử ấy đã không được lưu truyền qua các thế hệ, không ai muốn nhân rộng nó trong không gian, và cả trong tâm trí con người, bởi vì câu chuyện ấy quá khủng khiếp và đáng lên án. Theo Morrison, lịch sử ấy như những dấu chân, dấu chân đó trùng khít với bất kỳ ai là người Mỹ da đen: “Nếu như một cậu bé, một người lớn đặt chân lên thì nó sẽ vừa như in. Nhưng khi họ đưa chân ra, những dấu chân lại biến mất, như chưa hề có ai in dấu” (Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà, 1995, tr. 431). Với Morrison, tương lai chỉ thật sự mở ra, chỉ có thể có được khi ta dám đối diện với quá khứ, để xoa dịu những vết thương và san sẻ những gánh nặng Điều này được nhà văn gửi gắm trong thế hệ non trẻ nhất - Denver, cô gái chưa một ngày sống kiếp nô lệ, tên cô gợi nhớ đến cô gái da trắng tốt bụng Amy Denver, cô gái đi tìm nhung đã cứu vớt Sethe và Denver, gợi mở về một tương lai hòa hợp màu da trong cộng đồng đa chủng tộc Hoa Kỳ. Mở đầu tác phẩm, mỗi lần Paul D và Sethe kể về Sweet Home, hoặc chuyện gì đó về quá khứ mà không có mình, Denver đều cảm thấy vô cùng khó chịu. Nhưng đến cuối tác phẩm, khi Denver biết Beloved không hẳn là chị mình, mà là cái gì hơn thế nữa Đó là điều gì mà cô cho rằng Paul D và những người như anh hiểu rõ hơn, nhưng cô khước từ sự cắt nghĩa của Paul D, mà cho rằng, mình đã lớn và có ý kiến riêng: “Không cần đâu. Cháu có ý kiến riêng của mình. Cháu đã lớn” (Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà, 1995, tr. 416). Nhận thức về quá khứ, về lịch sử từ trải nghiệm và hiểu biết của mình giúp con người An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 97 – 105 104 nhận biết đúng hơn về tương lai, tương lai của cả cộng đồng, như chính vai trò của cô trong việc giúp mẹ cô tránh được sai lầm và cô chính là sợi dây gắn kết cộng đồng, da đen và da trắng. 4. LỊCH SỬ ĐƯỢC VIẾT TỪ KÝ ỨC Bối cảnh của Người yêu dấu tập trung vào cuộc sống người da đen, những người đã trải qua chế độ nô lệ đen tối, hiện tại vẫn không thể vượt qua sự kỳ thị và những vết thương của quá khứ. Thể hiện những mặt lấp lửng lưỡng nan của cuộc sống, Morrison sử dụng yếu tố siêu nhiên, huyền ảo như một phương tiện tối ưu để viết lịch sử và thể hiện những suy tư của mình trước lịch sử đó. Người yêu dấu là câu chuyện vây quanh các cấp độ của quá khứ, từ bóng của những con tàu nô lệ xa xưa, đến đồn điền Sweet Home và mở rộng qua mọi ngả đường của bang Georgia, trộn lẫn với hiện tại trong ngôi nhà ma ám 124 bằng những mảnh vỡ. Lịch sử, trong quan niệm của Morrison, chưa bao giờ là câu chuyện hoàn thành của thời quá khứ mà lịch sử là ký ức và phục hồi ký ức bằng những suy tư trong đời sống hiện tại, điều đó có nghĩa rằng quá khứ vẫn sống trong hiện tại. Trong tác phẩm cũng có những mốc thời gian và những con số chỉ thời gian như thời gian hiện tại của truyện kể là năm 1873, hay năm mười ba tuổi Sethe đến Sweet Home, hai mươi tám ngày tự do ở ngôi nhà 124, mười tám năm sống trong sự ghẻ lạnh, cô độc trước khi gặp lại Paul D và sự xuất hiện của Beloved. Nhưng đó không phải là lịch sử. Đó chỉ là những thời điểm hoặc các khoảng thời gian. Lịch sử của Morrison không được ghi bằng các mốc sự kiện mà là những ám ảnh, những biến động trong đời sống tâm hồn con người trước các sự kiện đời sống, đó là dòng thời gian tâm lý chứ không phải thời gian vật lý, thời gian đa chiều chứ không phải thời gian tuyến tính, đơn chiều. Nếu lịch sử là chuỗi sự kiện diễn ra trong một bối cảnh không gian của con người thì trong Người yêu dấu nhân vị chưa thành hình, từ những mảnh ghép vỡ vụn của ký ức và không gian biểu tượng nhưng chính ở đó lịch sử hiện rõ nhất, không phải trên trang giấy mà trong ký ức con người. Ký ức của kẻ bất hạnh, đau đớn, khốn khó tột cùng và đã đến được với tự do. Có lẽ những đau đớn ấy là những chết đi, để sống lại như một khải huyền, nhưng Sethe đã được bình yên với tự do? Khác với lối viết tiểu thuyết lịch sử của Mitchell trong Cuốn theo chiều gió, lối viết tân lịch sử của Người yêu dấu là sự khúc xạ qua tâm lý nhân vật từ những sự kiện chồng chất nỗi đau. Nhưng sự khác biệt trước nhất là từ quan điểm của màu da: lịch sử của Mitchell là lịch sử của người da trắng, Morrison ghi lịch sử từ cảm quan của kẻ chịu đựng lịch sử, kẻ chạy trốn, kẻ bị săn đuổi, kẻ da đen. Sethe đơn độc trong suốt chặng đường vô tận, trước mắt là không gian thăm thẳm, sau lưng là chó săn và súng đạn, với bào thai sắp đến ngày sinh nở, đôi chân sưng vù biến dạng nhưng vẫn cứ phải bò, phải lết để có thể sang bờ tự do. Dù Sweet Home là không gian biểu tượng thì ta vẫn thấy những đồn điền phương nam trong Túp lều bác Tom của Stowe, dấu chân sưng vù và cuộc vượt cạn trên hành trình của Sethe, ta thấy những cuộc đời Eliza đang tự giải phóng mình từ bờ nam nô lệ dòng Ohio sang phía bên kia nơi bờ bắc là thiên đường của tự do. Khép lại tác phẩm ngôi nhà 124 bừng sáng niềm tin hy vọng, đó có lẽ là trang sử mới không riêng của Sethe, của Paul D mà còn là trang mới của cộng đồng người da đen trong thời đại mới: “Sethe, anh và em, chúng ta đã có nhiều điều tốt đẹp với nhau hơn ai hết. Chúng ta cần sống tiếp và xây dựng ngày mai, với nhau” (Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà, 1995, tr. 427), giống với tinh thần của người Mỹ da trắng sau những khủng hoảng của nội chiến và bộn bề của thời Tái thiết, Scarlett O’Hara nữ nhân vật chính trong Cuốn theo chiều gió vẫn quả quyết, “sau tất cả, ngày mai là một ngày khác” (Vũ Kim Thư, 2010, tr. 622). * Lịch sử của người da đen dưới ngòi bút của Morrison được kể từ những ám ảnh của hồi ức, vẽ nên bức tranh toàn cảnh của bạo lực dã man, sự An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 97 – 105 105 xâm hại giới tính và sự vi phạm nhân quyền trên nhiều phương diện. Như phức cảm tội ác giết con và tình yêu con của Sethe quan niệm về lịch sử trong tư tưởng Morrison cũng là một phức cảm: chế độ nô lệ vừa cần phải nhớ như nhớ một bài học, vừa phải quên đi như quên một tội ác. Khác với tâm thức của Mammy (nhân vật người vú da đen của Scarlett) là một người đầy tớ trung thành hiếm có trong Cuốn theo chiều gió, Sethe cũng không có được lòng mộ đạo với niềm tin cứu rỗi như bác Tom, hay tinh thần lạc quan của Eliza được Stowe nâng đỡ như trong Túp lều bác Tom. Nếu cái nhìn của Michell bị xem là thiếu tính chân thực lịch sử và tư tưởng của Beecher- Stowe nhuốm màu sắc thanh giáo nên có phần lãng mạn trong nỗ lực mở ra con đường cho lịch sử nước Mỹ, cho người da đen thì Morrison là thế hệ tương lai ấy, viết về lịch sử với tâm thức ám ảnh của kẻ trong cuộc, nạn-nhân-tự-ý-thức. Quá trình đấu tranh để được làm vợ, làm mẹ, làm người đàn bà tự do của Sethe là hành trình chân chính của một cựu nô lệ trở thành một con người, hành trình của một dân tộc bị nô dịch trở thành một dân tộc tự chủ trong cộng đồng đa chủng tộc Hoa Kỳ. Với cảm quan của một nhà văn 100% là người da đen và cũng là 100% người Mỹ, nữ văn sĩ Toni Morrison với tác phẩm Người yêu dấu nói riêng và toàn bộ sự nghiệp sáng tác của bà nói chung như một trang sử khác về lịch sử của người Mỹ gốc Phi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Davis, Kimberly Chabot. (1998). Postmodern Blackness: Toni Morrison’s Beloved and the End of History. Twentieth Century Literature, Vol. 44, No. 2, pp. 242-260. Hofstra University. Đỗ Đức Hiểu. (2013). Túp lều bác Tom (Đỗ Đức Hiểu dịch). TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn học. (Quyển sách gốc được xuất bản năm 1852). Hồ Như. (2004). Thương (Hồ Như dịch). Hà Nội: Nhà xuất bản Phụ nữ. (Quyển sách gốc được xuất bản năm 1987). Lê Huy Bắc. (2010). Lịch sử văn học Hoa Kỳ. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Giáo dục. Lê Hồng Sâm. (2010). Sự thống trị của nam giới (Lê Hồng Sâm dịch). Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức. (Quyển sách gốc được xuất bản năm 1998). Middleton, David L. (2000). Toni Morrison's fiction contemporary criticism. New York and London: Garland. Morrison, Toni. (1987). Beloved. New York: Plume. Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà. (1995). Người yêu dấu (Nguyễn Thanh Tâm & Nguyễn Hải Hà dịch). Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học. (Quyển sách gốc được xuất bản năm 1987). Rody, Caroline. (1995). Toni Morrison's Beloved: History, “Rememory”, and a “Clamor for a Kiss. American Literary History, Vol. 7, No. 1, pp. 92-119. Oxford University Press. The Huffington Post. (Jun 10, 2014). 10 Absolutely Incredible Women in Historical Fiction, Huffpost book. Truy cập từ Vũ Kim Thư. (2010). Cuốn theo chiều gió (Vũ Kim Thư dịch). Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học. (Quyển sách gốc được xuất bản năm 1936).
File đính kèm:
- dien_giai_lich_su_trong_tieu_thuyet_nguoi_yeu_dau_beloved_cu.pdf