Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị

Các nghiên cứu hiện nay cho thấy, hàng năm có

hàng triệu dân cư ở nhiều TP lớn mắc các bệnh liên

quan do tác động tiêu cực của hiện tượng ÔNKK và ô

nhiễm tiếng ồn từ hoạt động GTVT trong khu vực đô

thị.

Các biện pháp nhằm giảm thiểu tiếng ồn ở khu vực

phức hợp giao thông và đường bộ tại các TP lớn đối

với dân cư sinh sống gần đường cao tốc, đường sắt bao

gồm:

- Gia tăng khoảng cách giữa nguồn phát tiếng ồn và

đối tượng được bảo vệ;

- Phân vùng phát triển đô thị hợp lý - tăng số lượng

tầng của các tòa nhà dân cư, bố trí nhà dân nằm sâu vào

các khu đô thị;

- Bố trí không gian xanh ven đường giao thông;

- Lắp đặt các tấm chắn tường cách âm.

Vật thể dùng làm chắn tường cách âm có thể sử

dụng các loại sau:

- Các yếu tố địa hình nhân tạo và tự nhiên (đất đào,

đất đắp, đồi );

- Các tòa nhà, mà các phòng sử dụng trong đó cho

phép mức âm thanh lớn hơn 50 dBA;

- Các tòa nhà dân cư có các biện pháp cách âm, được

lắp đặt nằm bao quanh cấu trúc bên ngoài tòa nhà;

- Các tòa nhà dân cư, mà trong đó có cửa sổ của

phòng tiện ích nằm về phía hướng nguồn tiếng ồn

(Phòng tiện ích là phòng được thiết kế để đáp ứng nhu

cầu gia đình như nhà bếp, nhà vệ sinh, phòng tắm, nhà

kho ).

Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ bệnh lý của dân cư

đô thị sống tại các khu vực tiếp giáp với đường phố

chính cao hơn so với dân cư sống tại các khu vực khác.

Điều này càng khẳng định thêm về sự không phù hợp

trong các chỉ số chất lượng môi trường tại khu vực dân

cư sinh sống, đó là các yếu tố về ÔNKK và tiếng ồn.

Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là xây dựng các biện

pháp nhằm cải thiện chất lượng môi trường tại khu vực

đô thị.

Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị trang 1

Trang 1

Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị trang 2

Trang 2

Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị trang 3

Trang 3

Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị trang 4

Trang 4

Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 16940
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị

Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202122
ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP NHẰM GIẢM THIỂU CÁC TÁC ĐỘNG 
TIÊU CỰC DO HOẠT ĐỘNG GIAO THÔNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG 
ĐÔ THỊ
Nguyễn Phương Ngọc 1
1 Khoa Xây dựng, Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
TÓM TẮT
Bài báo phân tích các ảnh hưởng tiêu cực do quá trình vận hành hệ thống giao thông vận tải (GTVT) đến 
hoạt động đời sống và sức khỏe của dân cư tại các thành phố (TP) lớn. Cần nhấn mạnh rằng, các tác động của 
việc ô nhiễm không khí (ÔNKK) do hoạt động GTVT gây nên có liên quan khá nhiều đến tỷ lệ mắc các bệnh 
hô hấp của dân cư trong khu vực bị ảnh hưởng. Do đó, cần thiết xây dựng phương án quy hoạch tối ưu nhằm 
loại trừ các trường hợp ÔNKK nguy hiểm tại các tuyến phố đô thị. Thực tế cho thấy, việc xây dựng các tuyến 
đường liên tỉnh nằm trong khu vực ngoại thành, quy hoạch các khu vực cấm phương tiện và tuyến phố đi bộ 
đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc giảm thiểu mức độ ô nhiễm trong đô thị.
Từ khóa: ÔNKK, chế độ thông gió (sục khí), giao thông đường bộ, đường đô thị, vận tốc gió, công trình xây 
dựng, quy hoạch đô thị.
Nhận bài: 2/3/2021; Sửa chữa: 17/3/2021; Duyệt đăng: 22/3/2021.
1. Đặt vấn đề
Các nghiên cứu hiện nay cho thấy, hàng năm có 
hàng triệu dân cư ở nhiều TP lớn mắc các bệnh liên 
quan do tác động tiêu cực của hiện tượng ÔNKK và ô 
nhiễm tiếng ồn từ hoạt động GTVT trong khu vực đô 
thị.
Các biện pháp nhằm giảm thiểu tiếng ồn ở khu vực 
phức hợp giao thông và đường bộ tại các TP lớn đối 
với dân cư sinh sống gần đường cao tốc, đường sắt bao 
gồm:
- Gia tăng khoảng cách giữa nguồn phát tiếng ồn và 
đối tượng được bảo vệ;
- Phân vùng phát triển đô thị hợp lý - tăng số lượng 
tầng của các tòa nhà dân cư, bố trí nhà dân nằm sâu vào 
các khu đô thị;
- Bố trí không gian xanh ven đường giao thông;
- Lắp đặt các tấm chắn tường cách âm.
Vật thể dùng làm chắn tường cách âm có thể sử 
dụng các loại sau:
- Các yếu tố địa hình nhân tạo và tự nhiên (đất đào, 
đất đắp, đồi);
- Các tòa nhà, mà các phòng sử dụng trong đó cho 
phép mức âm thanh lớn hơn 50 dBA;
- Các tòa nhà dân cư có các biện pháp cách âm, được 
lắp đặt nằm bao quanh cấu trúc bên ngoài tòa nhà;
- Các tòa nhà dân cư, mà trong đó có cửa sổ của 
phòng tiện ích nằm về phía hướng nguồn tiếng ồn 
(Phòng tiện ích là phòng được thiết kế để đáp ứng nhu 
cầu gia đình như nhà bếp, nhà vệ sinh, phòng tắm, nhà 
kho). 
Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ bệnh lý của dân cư 
đô thị sống tại các khu vực tiếp giáp với đường phố 
chính cao hơn so với dân cư sống tại các khu vực khác. 
Điều này càng khẳng định thêm về sự không phù hợp 
trong các chỉ số chất lượng môi trường tại khu vực dân 
cư sinh sống, đó là các yếu tố về ÔNKK và tiếng ồn. 
Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là xây dựng các biện 
pháp nhằm cải thiện chất lượng môi trường tại khu vực 
đô thị. 
Nồng độ trung bình của các chất ô nhiễm tại TP. 
Hà Nội và TP. HCM luôn lớn hơn so với khu vực nông 
thôn và ở khu vực trung tâm của TP, hàm lượng của 
chúng cao hơn so với các vùng ngoại ô từ 15-30%. Theo 
các số liệu thống kê, mức độ ô nhiễm tại các TP lớn ở 
Hà Nội thường xuyên ở mức xấu, rất xấu, đặc biệt vào 
những ngày sương mù dày đặc và mùa đông [1]. Theo 
PGS.TS. Vũ Văn Giáp, Phó Giám đốc Trung tâm Hô 
hấp, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, có sự liên quan giữa 
TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 23
tỷ lệ về tần suất nhập viện của bệnh hô hấp ở trẻ em với 
những đợt ÔNKK cao điểm. Trong những đợt ÔNKK 
này, tần suất nhập viện tăng lên đáng kể [2].
 Ngoài ra, tại TP. Saint Peterburg (Liên bang Nga), 
các nhà nghiên cứu đã khảo sát tỷ lệ mắc bệnh của trẻ 
em sinh sống tại cùng một tuyến phố cho thấy kết quả 
về sự không đồng đều của chỉ số mắc bệnh đối với trẻ 
em sống tại các dãy nhà chẵn và lẻ. Lý do cho sự khác 
biệt này là số trẻ em sống tại các dãy nhà lẻ có vị trí nằm 
theo hướng gió chính của luồng không khí, do đó tỷ lệ 
mắc bệnh của trẻ em tại đây nhỏ hơn so với trẻ em sống 
tại các dãy nhà chẵn [6]. 
2. Ý nghĩa của việc tạo nên chế độ thông gió trong 
việc giảm thiểu mức độ ÔNKK tại không gian đô thị
Các nghiên cứu cho thấy, gió được tạo ra do sự hình 
thành các dòng xoáy tuần hoàn trong không gian của 
đường phố, mang theo các chất ô nhiễm từ lòng đường 
đến mặt tiền của các tòa nhà [6]. Hơn nữa, các xoáy 
nhỏ sẽ xuất hiện ở các bức tường chắn gió của dãy nhà 
đón gió [3]. 
Sự lưu thông không khí ở trong các khu vực đường 
phố dạng “hẻm núi” dẫn đến sự gia tăng nồng độ khí 
thải ô nhiễm gần các tòa nhà ở phía đón gió, vì dòng 
xoáy lớn nhất mang hầu hết các chất ô nhiễm từ nguồn 
thải và dòng thứ hai giữ chúng ở tầng thấp hơn của tòa 
nhà.
Việc theo dõi nồng độ ô nhiễm theo chiều cao của 
địa hình cho thấy, khu vực chịu tác động ô nhiễm chính 
của khí thải phương tiện vận tải là tầng 1-3 và ít hơn là 
từ tầng 4, do đó tỷ lệ mắc các bệnh hô hấp ở trẻ em sống 
từ tầng 4 trở xuống cao hơn các tầng khác.
Để giảm thiểu tác động tiêu cực đến sức khỏe của 
cộng đồng dân cư sống gần tuyến đường phố trong đô 
thị, cần áp dụng các phương pháp tiếp cận tổng hợp để 
đánh giá chất lượng môi trường sống, có tính đến các 
yếu tố ảnh hưởng chính đến môi trường xung quanh. 
Đồng thời, quan trọng cần phải xác định các nguồn lực 
có sẵn nhằm giảm tác động tiêu cực của hoạt động giao 
thông đường bộ đến môi trường sống bằng các biện 
pháp kỹ thuật trong việc quy hoạch đô thị.
Thực tế cho thấy, trong quá trình lập đồ án quy 
hoạch khu dân cư có tính đến các yếu tố an toàn môi 
trường, trước hết cần đưa ra đánh giá các tác động 
môi trường và dự kiến mức độ ÔNKK [7]. Trong việc 
đánh giá tổng thể này tồn tại mối quan hệ chức năng 
giữa các yếu tố, là chất lượng thông gió của không 
gian đường phố phải đảm bảo từ quan điểm cảm nhận 
nhiệt của con người và việc tuân thủ yếu tố mức độ 
ÔNKK không vượt quá nồng độ giới hạn.
Nghiên cứu chỉ ra, chỉ số quan trọng nhất đặc trưng 
cho sự ảnh hưởng của các tòa nhà đối với sự biến dạng 
của gió và sự lưu thông các tạp chất trong khu vực “hẻm 
núi”, là tỷ số giữa chiều cao của các tòa nhà ở các dãy 
đối diện H và khoảng cách giữa chúng dọc theo mặt 
quay ra đường B [3]. Các chỉ số kích thước hình học 
này có ảnh hưởng đến nồng độ chất ô nhiễm CO trong 
không khí của khu vực đường phố. Đây là chất độc hại 
nhất chứa trong khí thải, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 
tổng số lượng khí thải phát ra, được ước tính bằng tỷ số 
tương quan r trong khoảng 0,6-0,7, tương ứng với ảnh 
hưởng của tốc độ gió (r = 0,7 - 0,8) và cường độ giao 
thông (r = 0,85 - 0,9) [9].
Công thức tính toán sự phụ thuộc của nồng độ CO 
ban đầu vào tốc độ (vận tốc) gió thu được trên cơ sở 
khảo sát thực địa tại đường phố chính [8] được thể hiện 
qua công thức sau:
0
0 . ,uq Ae  (1)
Trong đó: q0 và u0 - nồng độ CO trong không khí và 
vận tốc gió trên mép đường ở độ cao 1,5 m (mg/m3); 
e - logarit; A và α là hệ số đặc trưng cho giá trị nồng độ 
CO cực đại ở trạng thái tĩnh, khi u0 = 0.
Giá trị của hệ số α theo cấp số nhân được tính đối 
với từng loại đường giao thông: Đường trong đô thị 
vào mùa hè là 0,453 và 0,430 cho mùa đông. Đối với 
đường quốc lộ và cao tốc, khu vực có lưu lượng xe tải 
và phương tiện công cộng di chuyển tương ứng lần lượt 
là 0,437 và 0,418. Đường cong hồi quy được biểu diễn 
trong Hình 1.
▲Hình 1. Biểu đồ thể hiện sự phụ thuộc của nồng độ ban đầu 
của CO trong không khí vào vận tốc gió trên đường giao thông: 
1,4 - đường trong thành phố; 2 - đường quốc lộ, chủ yếu xe tải 
chạy; 3 - đường quốc lộ chủ yếu là xe con và phương tiện công 
cộng. A - mùa hè; B - mùa đông [8].
Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, nồng độ ban đầu 
khí nito dioxit (NO2) cũng giảm đáng kể khi vận tốc gió 
nằm trong khoảng 0-2,5 m/s với mật độ phương tiện 
nằm trong khoảng 103 xe/giờ, chất khí oxi hóa cũng 
thay đổi với tốc độ gió nằm trong phạm vi từ 0-3 m/s 
với mật độ phương tiện là 102 xe/giờ. Ngoài ra, còn 
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202124
quan sát thấy nồng độ nhất định của khí hydrocacbon 
trong hàm lượng các khí thải này [6].
Điều này cho phép khằng định rằng, trong quá 
trình hòa trộn vào không khí, các chất khí thải riêng lẻ 
đã mất đi động năng của chúng, do quá trình khuyếch 
tán khiến cho việc cân bằng mật độ và khối lượng riêng 
giữa hỗn hợp khí thải và không khí diễn ra nhanh 
chóng.
Điều này càng được thể hiện rõ ở Hình 2, ta thấy 
các đường cong về sự sụt giảm nồng độ CO và nito oxit 
(NO+NO2) trong điều kiện mô hình hóa sự phát tán 
khí thải trong một khu vực mở.
▲Hình 2. Sự phụ thuộc nồng độ ban đầu khí thải CO (1) và 
NO+NO2 (2) trong không khí vào vận tốc gió trong điều kiện 
mô phỏng [6]
Để nghiên cứu, người ta sử dụng một đường ống 
thiết kế đặc biệt, được kết nối với ống xả của động cơ 
ô tô. Ống thải được mô phỏng cùng hướng theo luồng 
giao thông trên đường, các khí thải được thoát ra liên 
tục và theo chiều ngang từ những lỗ nhỏ nằm dọc bên 
sườn của ống thải. Việc này đã loại bỏ được sự ảnh 
hưởng của vận tốc ban đầu và hướng phát thải theo 
vecto vận tốc của dòng khí tại điểm xác định nồng độ 
ban đầu của chất được nghiên cứu.
Do đó, có thể coi mô hình thể hiện sự phụ thuộc 
giữa nồng độ ô nhiễm khí thải CO vào mức độ thông 
gió (tốc độ gió) đại diện cho toàn bộ hỗn hợp khí thải 
do các luồng giao thông thải ra.
Từ đồ thị ở Hình 1 cho thấy, với tốc độ gió lớn hơn 
3 m/s, mức độ ÔNKK trên các khu vực được quan sát 
giảm đáng kể (3-5 lần) và đạt đến mức tối thiểu. Điều 
này phù hợp với các kết quả thu được khi khảo sát ở 
các giao lộ, nơi ghi nhận nồng độ các chất ô nhiễm vượt 
quá 2-3 lần nồng độ ô nhiễm cho phép, với tốc độ gió 
trên 3 m/s nồng độ ô nhiễm giảm xuống đáng kể. Nói 
cách khác, khi chế độ thông gió có vận tốc trên 3 m/s 
sẽ làm giảm mức độ ÔNKK và cân bằng mật độ, khối 
lượng riêng giữa hỗn hợp khí thải và không khí.
Thực tế quan sát tại một số TP lớn ở Liên bang Nga 
cho thấy, nồng độ ô nhiễm cho phép của các khí thải 
(CO, NO2, CnHm) có thể đạt giá trị 40-70% trên tổng 
chiều dài các đường phố chính [10] trong phạm vi tốc 
độ gió 3-4 m/s; tương ứng với điều kiện thời tiết thoải 
mái và dễ chịu để con người hoạt động ngoài trời.
Việc nghiên cứu các mục tiêu quy hoạch và công 
tác phát triển đô thị đóng góp vai trò quan trọng trong 
việc phát triển đô thị bền vững. Hịên nay, các dự án quy 
hoạch ít quan tâm đến tiêu chuẩn vệ sinh môi trường 
không khí. Vì vậy, để xây dựng được một phương án 
thiết kế tối ưu, phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường 
cần thiết phải đảm bảo phương trình cơ bản sau [10]:
.
max .

 C j
u
jC Ae

 (2)
Trong đó: 
Cmaxj - nồng độ tối đa cho phép thành phần riêng lẻ 
của khí thải; 
UCj - vận tốc gió (m/s), cung cấp sự pha loãng của 
các thành phần trong không khí đến nồng độ cho phép 
trên 1 đoạn đường.
Kết quả chia (1) cho (2) và logarit, ta thu được 
phương trình sau:
0
max
1 ln 
j
j
C
j
q
u u
C
 (3)
Trong đó: 
u0 - vận tốc gió trên đường phố theo phương án 
thiết kế quy hoạch sẽ được điều chỉnh (m/s);
max
j
j
q
C
- dung trọng của thành phần trong không 
khí (tính theo 1 đơn vị Cmax) với các thông số về lưu 
lượng giao thông trên đường phố.
Vế trái của phương trình (3) phản ánh sự thiếu hụt 
khí hoặc vận tốc gió ∆u = (uCj - u), cần thiết để đưa 
dung trọng của các thành phần trong không khí xung 
quanh đạt tiêu chuẩn vệ sinh bằng cách thay đổi các 
quyết định quy hoạch.
Nghiên cứu của Balakin V.V. đã chỉ ra sự phụ thuộc 
về thông số H/B và chu vi mật độ xây dựng có ảnh 
hưởng đến nồng độ khí thải và vận tốc gió với hướng 
chính của nó đối với trục đường phố [9], có thể khẳng 
định rằng, việc đảm bảo nồng độ ô nhiễm ở mức cho 
phép trên các tuyến phố chính trong công tác dự báo có 
thể xây dựng dựa trên các biện pháp kỹ thuật để duy trì 
chế độ thông khí (sục khí) tối ưu của không gian đường 
phố. Phương thức thông gió này được xây dựng dựa 
trên việc bố trí và lựa chọn vị trí của tuyến đường theo 
hướng gió tự nhiên chính, số tầng của tòa nhà và các kỹ 
thuật trong công tác quy hoạch khu dân cư.
Tại từng khu vực có đặc điểm địa lý riêng, trong quá 
trình phát triển các khu dân cư, hệ thống đường giao 
thông, cần tính toán đến yếu tố thông khí để đảm bảo 
giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực do việc ÔNKK 
do khí thải của các phương tiện giao thông cơ giới.
TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 25
Ở những khu vực địa lý, nơi có gió mạnh chiếm ưu 
thế, dẫn dến hiện tượng mất nhiệt cơ thể của dân cư 
sống tại đó và ảnh hưởng đến sức khỏe của họ, thì việc 
bảo vệ khu dân cư khỏi các ảnh hưởng của gió lạnh là 
cần thiết. Ở đây bao gồm các phương tiện quy hoạch 
chắn gió, có tính đến đặc điểm của địa hình, số tầng 
của các tòa nhà, phương pháp quy hoạch, trồng cây
Cùng với đó, sự thông gió trên đường chưa đảm 
bảo yếu tố thoải mái - với vận tốc gió nhỏ hơn 5 m/s 
được quan sát thấy trong năm tại các vùng rừng và đồi 
núi vào mùa hè. Thậm chí có nơi tốc độ gió thấp hơn 
(dưới 3 m/s), gió tĩnh (0-1 m/s) được ghi nhận tại các 
vùng ẩm ướt. Rõ ràng, trong khu vực khí hậu này, cần 
phải quan tâm đến các yếu tố nhằm phát triển đô thị để 
mang lại cảm giác nhiệt thoải mái và mức độ thông gió 
tự nhiên của đường phố. Có thể giữ gìn và tăng cường 
tốc độ gió ban đầu tại các khu vực này bằng cách tăng 
khoảng cách giữa các tòa nhà. Ở một số TP sử dụng khả 
năng giữ lại vận tốc gió ban đầu bằng cách vận dụng địa 
hình thung lũng, sự lưu thông gió của các khối không 
khí
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, nên loại bỏ khả 
năng xuất hiện một luồng không khí lưu thông tại 
không gian đường phố làm ngăn cản sự trao đổi không 
khí của các hướng gió chính. Do đó, khi xây dựng 
đường phố cần áp dụng phương pháp kỹ thuật với số 
lượng hạn chế các tòa nhà nhiều phần, nhiều góc cạnh, 
tạo nên các hẻm núi. Ví dụ: Dịch chuyển trục của các 
tòa nhà vào một hàng, vị trí của chúng ở một góc hoặc 
thụt vào từ đường vạch xây nhà và thay đổi số lượng 
tầng hoặc cấu trúc thiết kế của tòa nhà [4].
Thực tế cho thấy rằng, tại các TP lớn có yếu tố quy 
hoạch lịch sử lâu đời thì không bắt kịp với tốc độ cơ giới 
hóa của xã hội. Hiện trạng quy hoạch cũ chịu áp lực 
lớn và nhiều rủi ro bởi các yếu tố tác động môi trường 
gây nên.
Để giải quyết vấn đề này cần tạo ra một môi trường 
sống lành mạnh, chủ yếu phát sinh ở trung tâm TP lớn 
trong điều kiện tự động hóa cần thiết sử dụng các biện 
pháp tái thiết và lập kế hoạch triệt để theo hướng mới 
như việc đưa xe tải, container ra khỏi khu vực khu dân 
cư, mở rộng khu phố, mở rộng phố đi bộ
Giảm tỷ lệ mắc bệnh tại các khu vực dân cư do tác 
động tiêu cực của phương tiện giao thông là kết quả của 
việc thực hiện các hoạt động giao thông và quy hoach 
đô thị quy mô lớn. Ví dụ: Chuyển đổi giao thông dừng 
sang mạng lưới đường cao tốc tại khu vực ngoại ô; phát 
triển mạng lưới đường hiện có và bổ sung mới ngoài 
hiện trạng đang có; thiết lập hệ thống góc bến đỗ, trang 
thiết bị cho bãi đỗ; trong khu vực dân cư trung tâm loại 
trừ các vùng giao thông bằng phương tiện và thay vào 
đó bằng hình thức đi bộ.
3. Kết luận
Vấn đề ÔNKK từ khí thải phương tiện cơ giới hiện 
nay được tất cả các TP lớn trên thế giới quan tâm. Hoạt 
động GTVT gây nên vấn đề ÔNKK và tiếng ồn, ảnh 
hưởng không nhỏ đến dân cư sinh sống trong đô thị. 
Tỷ lệ dân cư tại TP lớn mắc các bệnh liên quan đến 
ÔNKK và ô nhiễm tiếng ồn ngày càng gia tăng.
Trong quá trình lập đồ án quy hoạch khu dân cư 
cần phải đưa ra đánh giá tác động môi trường và dự 
kiến mức độ ÔNKK tại đó. Thông qua các biện pháp kỹ 
thuật để duy trì chế độ thông khí (sục khí) tối ưu của 
không gian đường phố để xây dựng các dự báo mức độ 
ô nhiễm có thể đạt được. Phương thức thông gió này 
được xây dựng dựa trên việc bố trí và lựa chọn vị trí của 
tuyến đường theo hướng gió tự nhiên chính, số tầng 
của tòa nhà và các kỹ thuật trong công tác quy hoạch 
khu dân cư.
Việc quy hoạch đô thị hiện nay hướng đến xây dựng 
đô thị thông minh, mà trong đó cần tạo ra một môi 
trường an toàn và lành mạnh. Để giải quyết vấn đề này 
cần thiết sử dụng các biện pháp tái thiết và lập kế hoạch 
triệt để theo hướng mới như việc kiểm soát phương 
tiện giao thông trong đô thị, đưa xe tải, container ra 
khỏi khu vực khu dân cư, mở rộng khu phố, mở rộng 
phố đi bộ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 
o-ha-noi-20-nam-nghien-cuu
2. https://nhandan.com.vn/tin-tuc-y-te/benh-ly-ho-hap-
dang-ngay-cang-gia-tang-376930.
3. Nguyễn Phương Ngọc (2019), Đề xuất mô hình tính toán 
quá trình phân tán chất ô nhiễm trên không gian đô thị 
đường phố, Tạp chí Môi trường, Chuyên đề Tiếng Việt 
I/2019, tr. 14.
4. Nguyễn Phương Ngọc (2020), Đánh giá mức độ ô nhiễm của 
các khí thải độc hại trong khu vực không gian ven đường, 
Tạp chí Môi trường, Chuyên đề Tiếng Việt II/2020, tr. 35. 
5. Chan T. L., Dong G., Leung C. W., Cheung C. S., Hung W. 
T., Validation of a two -dimensional pollutant dispersion 
model in an isolated street canyon// Atmospheric 
Environment. - 2002. - Vol. 36, no. 5. - P. 861-872.
6. Балакин В. В., Сидоренко В. Ф. Обеспечение 
гигиенических нормативов выбросов 
автомобильного транспорта в воздухе жилой 
застройки градостроительными средствами/ 
Современное строительство и архитектура.. - 
2016, №1(01). С.7-12.
7. Балакин В. В., Сидоренко В. Ф., Сидоренко И. В. и 
др. Градостроительные мероприятия по снижению 
загазованности урбанизированных территорий 
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202126
выбросами автомобильного транспорта// 
Экология урбанизированных территорий. - 2015, №4, 
с.79-85.
8. Балакин В.В. Влияние ветрового режима на 
очищение воздуха магистральных улиц от выбросов 
автотранспорта// Гигиена и санитария. - 1980, №6, 
с.5-8.
9. Балакин В. В., Сидоренко В. Ф. Трансформация 
воздушного потока при обтекании жилых зданий 
на городских улицах// Вестник ВолгГАСУ. Сер. 
Строительство и архитектура. 2016.Вып. 44(63).
Часть 2. С.4-18.
10. Балакин В. В. Расчет загрязнения атмосферного 
воздуха на застраиваемых участках городских 
дорог// Вестник ВолгГАСУ. Сер. Строительство и 
архитектура. - 2010. - Вып. 18 (37). - С. 138-143.
PROPOSED METHODS FOR REDUCING THE POSITIVE IMPACT ON 
THE URBAN ENVIRONMENT BY TRANSPORTATION
Nguyen Phuong Ngoc
Faculty of Construction, Da Nang Architecture University
ABSTRACT
The paper analyzes the negative effects of the transportation system's operation on life activities and health 
of residents in big cities. It should be emphasized that the effects of air pollution caused by transportation 
activities are significantly related to the incidence of respiratory diseases among the population in the affected 
area. Therefore, it is necessary to develop optimal planning options to eliminate dangerous air pollution 
cases in urban streets. Construction of intercity roads in suburban areas, planning of no-vehicle zones and 
pedestrian streets have brought about a positive effect in reducing urban pollution levels. 
Key words: Air pollution, ventilation (aeration) regime, road traffic, urban roads, wind speed, construction 
works, urban planning.

File đính kèm:

  • pdfde_xuat_bien_phap_nham_giam_thieu_cac_tac_dong_tieu_cuc_do_h.pdf