Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô

Đình làng Hùng Lô là một trong những ngôi đình lớn có giá trị về lịch sử và

giá trị nghệ thuật lâu đời ở Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nơi đây kỹ thuật

chạm khắc cũng như vẽ màu trên ván gỗ được xem như linh hồn của ngôi đình

cổ có niên đại 1697 (cuối thế kỷ XVII). Khác với những ngôi đình trong toàn

tỉnh, đình làng Hùng Lô bên cạnh việc sử dụng các mô típ trang trí về thiên

nhiên và những con vật linh để trang trí thì việc sử dụng những hoạt cảnh của

con người trong những dịp vui chơi hội hè, múa hát, những đề tài mang đậm

tính chất dân gian, làng xã thôn quê được chạm khắc chủ yếu trên kẻ và cốn,

đầu dư và vẽ màu trên một số ván gỗ làm đề tài xuyên suốt đã góp phần định

hình một phong cách trang trí thuần Việt cho ngôi đình, tạo nên một nét đẹp

khác biệt và đa dạng trong nghệ thuật trang trí dân gian ở Việt Nam.

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 1

Trang 1

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 2

Trang 2

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 3

Trang 3

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 4

Trang 4

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 5

Trang 5

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 6

Trang 6

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 7

Trang 7

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 8

Trang 8

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 9

Trang 9

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang baonam 7940
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô

Đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc và tranh vẽ trên gỗ ở đình làng Hùng Lô
 No.20_Mar 2021|p.19-29 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
 ISSN: 2354 - 1431 
 DECORATIVE TOPIC IN THE ART OF CARVING 
 AND WOOD PAINTINGS AT HUNG LO TEMPLE 
Cao Thi Van1,* 
1Hung Vuong University, Viet Nam 
* Email address: caothivan@gmail.com 
https://doi.org/10.51453/2354-1431/2020/421 
Article info Abstract 
 Hung Lo temple is one of the large temples with historical and artistic value for 
Received: 
10/01/2021 a long time in Viet Tri City, Phu Tho province. Here, carving techniques, as 
Accepted: well as color painting on wooden planks, are considered as the soul of the 
22/02/2021 ancient temple dating back to 1697 (late 17th century). Unlike temples in the 
 whole province, Hung Lo temple, besides the use of decorative motifs of nature 
Keywords: and mascot animals for decoration, the use of human scenes in festive 
 occasions, dance, folk themes, villages are carved mainly on the kẻ, cốn and 
Decorative topics, carvings, 
 đầu dư as a theme throughout, contributing to shaping a pure Vietnamese 
color painting on wooden 
 decoration style for the temple, creating a distinctive and diverse beauty in 
planks, Hung Lo temple, 
 Vietnamese folk decoration art. 
Viet Tri city, Phu Tho 
province 
 No.20_Mar 2021|p.19-29 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
 ISSN: 2354 - 1431 
 ĐỀ TÀI TRANG TRÍ TRONG NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC 
 VÀ TRANH VẼ TRÊN GỖ Ở ĐÌNH LÀNG HÙNG LÔ 
Cao Thị Vân1,* 
1Trường Đại học Hùng Vương 
*Địa chỉ email: caothivan@gmail.com 
https://doi.org/10.51453/2354-1431/2020/421 
Thông tin tác giả Tóm tắt: 
 Đình làng Hùng Lô là một trong những ngôi đình lớn có giá trị về lịch sử và 
Ngày nhận bài: giá trị nghệ thuật lâu đời ở Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nơi đây kỹ thuật 
10/01/2021 
Ngày duyệt đăng: chạm khắc cũng như vẽ màu trên ván gỗ được xem như linh hồn của ngôi đình 
22/02/2021 cổ có niên đại 1697 (cuối thế kỷ XVII). Khác với những ngôi đình trong toàn 
 tỉnh, đình làng Hùng Lô bên cạnh việc sử dụng các mô típ trang trí về thiên 
 nhiên và những con vật linh để trang trí thì việc sử dụng những hoạt cảnh của 
Từ khóa: con người trong những dịp vui chơi hội hè, múa hát, những đề tài mang đậm 
Đề tài trang trí, nghệ tính chất dân gian, làng xã thôn quê được chạm khắc chủ yếu trên kẻ và cốn, 
thuật chạm khắc, tranh vẽ đầu dư và vẽ màu trên một số ván gỗ làm đề tài xuyên suốt đã góp phần định 
màu trên ván gỗ, đình 
làng Hùng Lô, thành phố hình một phong cách trang trí thuần Việt cho ngôi đình, tạo nên một nét đẹp 
Việt Trì, tỉnh Phú Thọ khác biệt và đa dạng trong nghệ thuật trang trí dân gian ở Việt Nam. 
 1. Mở đầu 
 1. Khái quát về đình làng Hùng Lô gác Trống, nhà Văn Chỉ, nhà Yến Lão, nhà thờ 
 1.1. Lịch sử xây dựng đình làng Hùng Lô Phật, bệ Thần Nông, công viên, vườn hoa cây 
 cảnh ... tạo nên một quần thể di tích mang một ý 
 Theo ghi chép trong Giới thiệu quần thể di tích 
 nghĩa văn hóa sâu sắc của tỉnh Phú Thọ. Xét về 
lịch sử văn hóa đình Xốm – xã Hùng Lô của Sở 
 riêng tòa đại đình thì Đình làng Hùng Lô được xây 
VHTT - Phú Thọ (Bảo tàng tỉnh) (2003) [1], đình 
làng Hùng Lô còn gọi là đình Xốm, khi mới hình dựng vào năm 1697 dưới triều Lê Chính Hòa thứ 
thành làng gọi là An Thái xã, Khả Lãm thôn. Khi 18, khi làng Hùng Lô mới hình thành thì chưa có 
xóm làng phát triển, cư dân đông đúc mới đổi thành đình, chỉ có một ngôi miếu để thờ thần gọi là miếu 
An Lãm xã. Đến năm Thành Thái đổi là An Lão xã, Hùng Vương. Sau khi xóm làng đông đúc có tới 11 
thuộc tổng Phượng Lâu, huyện Hạc Trì (Phú Thọ). xóm, dân làng mới bắt đầu dựng đình bên cạnh 
Đến năm 1945 đổi thành xã Hùng Lô, huyện Phù miếu, đến đời Nguyễn đình được trùng tu lớn và 
Ninh nay là TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. ngày 17 tháng 2 năm 1990 đã được nhà nước cấp 
 bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa quốc gia. 
 Khi nhắc tới đình làng Hùng Lô thường là nhắc 
về cả một quần thể kiến trúc vô cùng phức tạp, Quần thể khu di tích đình làng Hùng Lô được 
được xây dựng với nhiều hạng mục lớn nhỏ khác xây dựng trên một gò đất cao rộng 5000m2, thuộc 
nhau như: ngôi miếu cổ (miếu Hùng Vương), tòa trung tâm giữa làng An Lão, thời đó các cụ chia 
đại đình, tòa phương đình, nhà tiền tế, lầu Chuông, làm 4 giáp đến nay có 10 xóm, đất chật người 
 No.20_Mar 2021|p.19-29 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
 ISSN: 2354 - 1431 
đông, cuộc sống chủ yếu làm về nghề nông và có Hoa Vương, tên húy là Bảo Lang; 3 - Áp Đạo Quan 
buôn bán nhỏ, thực phẩm đa dạng ngày càng phát Đại Vương là tướng dẫn đường, tướng bảo vệ vua. 
triển, thôn xóm sầm uất. Riêng nhà Văn Chỉ và Bên trong thượng cung có 3 ngai, tượng trưng thờ 3 
Yến Lão năm 1947 - 1948 bị rỡ bỏ cho đến năm vị, riêng ở ngai giữa có mũ cánh chuồn, có áo 
2007 hai tòa nhà này mới được phục hồi. Quả đồi hoàng bào, có đôi hia, bên trong ba bụng ngai có 
nơi xây dựng đình được dân làng gọi nôm na là đồi chữ Hán khắc bên trong đề lần lượt là “Ất Sơn Đại 
con cua, ở thế mão long. Đình được làm trên mai Vương”, “Viễn Sơn Đ ...  vật ở 
 đình làng Hùng Lô [H.2]. 
 2.1. Đề tài lễ hội 
 H.2, Đấu vật, đầu dư, gian phải, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 - Đấu khiên: đấu khiên cũng giống như đấu vật, khiên ra như đang đỡ, cảnh đấu khiên cũng mang 
là một trong những môn thể thao cổ truyền ở nước tinh thần thượng võ rất đáng quý trong các dịp hội 
ta. Bức chạm được thể hiện ngay trên cốn gian hè của nhân dân. Tuy chỉ đề tài này chỉ được chạm 
ngoài giữa khu vực chính điện. Vẫn phong cách khắc duy nhất trong một bức chạm ở đình nhưng đã 
chạm đục không quá cầu kỳ, hình ảnh hai người ít nhiều cho ta thấy bức tranh toàn cảnh về lễ hội 
đàn ông trong tư thế cởi trần đóng khố, một người dân gian xưa. 
tay giơ cao trong tư thế tấn công, còn người kia giơ 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
 H.3, Đấu khiên, trên kẻ phía trong cùng gian giữa, đình làng Hùng Lô. 
 Ảnh chụp (2016) 
 2.2. Đề tài sinh hoạt gàng trong một hình vuông, nét mặt cả hai đều biểu 
 Cảnh đá cầu: là một trong những nét sinh hoạt lộ niềm vui thích, phía sau một con rồng nhô đầu ra 
thường thấy của trẻ em vùng nông thôn xưa. Bức xem, tinh thần thượng võ của bức chạm được thể 
chạm với cặp nhân vật trong tư thế co chân đá cầu hiện ngay trên cốn ở khu vực gian giữa nên rất dễ 
trong bộ quần áo màu nâu thẫm làm chủ đạo trong dàng nhận thấy và chiêm ngưỡng 
đó gồm hai người đối xứng qua trục bố cục đặt gọn 
 . 
 H.4, Đá cầu, trên cốn, phía trước, gian chính giữa, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 Bắt lợn: là hoạt cảnh miêu tả về cuộc sống nơi cảnh chung của đề tài Tập trận giả (một tích truyện 
thôn dã nằm trong bức kẻ ở khu vực gian giữa phía kể về tuổi thơ của vị vua Đinh Tiên Hoàng tập chơi 
cuối hậu cung, cảnh bắt lợn được miêu tả với 1 trò trận giả trong lý lịch di tích đình Hùng Lô) tuy 
người cởi trần đóng khố đang tóm lấy chân 1 con nhiên người nghiên cứu vẫn xếp vào dạng đề tài 
lợn ở phía trước, con lợn với dáng béo tròn động sinh hoạt bởi tính chất thời sự của nó 
tác như đang rãy rụa, hành động này nằm trong bối 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
 H.5, Người cưỡi trâu, người bắt lợn trên kẻ, gian giữa, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 Chăn trâu: cảnh chăn trâu nằm sát bên cảnh bắt Du thuyền: Du thuyền rồng, là cảnh thường 
lợn được miêu tả trên kẻ ngay phía dưới hậu cung thấy trong các câu truyện về những vị vua hay 
đã được phân tích ở trên và chúng là hai trong tướng lĩnh nho nhã oai phong ngao du thiên hạ 
 bằng những con thuyền rồng, đây là bức chạm ít ỏi 
chuỗi động tác của trò Tập trận giả mà trẻ em rất 
 có nhắc tới tạo hình thuyền được chạm trên cốn 
yêu thích nơi vùng quê thôn dã. Người chăn trâu 
 góc trong cùng thuộc gian giữa của đình. Bức chạm 
trong tư thế hào sảng, mặt hơi ngửa giống như tri gồm 3 người đang ngồi trên 1 chiếc thuyền hình 
hô, con trâu cũng được chạm với nét mặt hóm hỉnh, rồng trong đó người thứ nhất quay ngược với hai 
dáng hơi quỳ, ra điều rất phục tùng chủ nhân của người còn lại mặt ngửa cao, miệng như hô lớn, 
nó. Sự đáng yêu ở đây chính bởi tạo hình người quần áo giản đơn so với hai vị còn lại, hai người ngồi 
được chạm với tỉ lệ lớn hơn so với thân trâu và nó đối diện đầu có đội mũ, tay xếp trước bụng với phong 
 thái nho nhã thư sinh, dáng vẻ điềm tĩnh hướng mặt ra 
khá giống với cảnh chăn trâu trong những bức 
 phía ngoài chậm dãi hưởng thụ thiên nhiên miền sông 
tranh Đông hồ mà chúng ta thường thấy (không thể 
 nước thật là cảnh sắc nên thơ, trữ tình. Tạo hình cho 
xác định được cái nào có trước, cái nào có sau 
 thấy không có mái chèo nên đây không thể là bức 
nhưng rõ ràng sự học hỏi và kế thừa tạo hình dân chèo thuyền hay đua thuyền giống như các ngôi đình 
gian là điều rất rõ ràng trong nghệ thuật chạm khắc khác đã thể hiện, sự khác biệt này cũng đem tới sự thú 
ở ĐLHL) [H.5]. vị cho đình làng Hùng Lô [H.6]. 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
 H.6, Du thuyền, trên kẻ phía trong cùng gian giữa, đình làng Hùng Lô. 
 Ảnh chụp (2016) 
 Nhìn chung, việc sử dụng những hoạt cảnh vui - Truyền thuyết tiên rồng gắn với câu chuyện 
chơi hội hè, múa hát, những đề tài mang đậm tính huyền thoại về thủy tổ Lạc Long Quân (giống rồng) 
chất dân gian, làng xã thôn quê để làm chất liệu trang – Âu Cơ (dòng tiên) kết duyên với nhau sinh ra bọc 
trí ở đình làng Hùng Lô (sử dụng vào trong các mảng trăm trứng sinh ra 100 người con trai từ đó mà 
chạm khắc trên các cấu kiện kiến trúc gỗ, chủ yếu trên nảy nở thành dân Việt. Cùng với ý nghĩa sâu xa đó 
kẻ và cốn, 1 bức trên đầu dư), góp phần định hình một hình tượng tiên và rồng quấn quýt bên nhau còn 
phong cách trang trí thuần Việt cho ngôi đình, tạo nên 
 được coi là một biểu tượng vừa linh thiêng may 
một nét đẹp khác biệt và đa dạng trong nghệ thuật 
 mắn, vừa đại diện cho tầng lớp cao quý nhưng hình 
trang trí dân gian ở Việt Nam. 
 tượng này vẫn gần gũi với nhân dân, tích này là mô 
 2.3. Đề tài theo truyền thuyết, cốt truyện 
 típ trang trí rất quen thuộc trong các ngôi đình nhất 
 Các đề tài trang trí theo truyền thuyết hay cốt là các ngôi đình ở Xứ Đoài như: Hùng Lô, Ngọc 
truyện được thể hiện khá đa dạng trên các chạm Than (Sơn Tây), Liên hiệp (Hà Tây), Hương Canh 
khắc ở các vị trí như: cốn, kẻ, vì nóc, các đồ thờ tự, (Vĩnh Phúc). Ở đình làng Hùng Lô hình ảnh tiên 
còn một vài khu vực khác như: nghi môn, trụ biểu, cưỡi rồng được chạm khắc làm điểm nhấn chính 
thường được thể hiện theo một mô típ trang trí trong toàn bộ bức chạm với nét thể hiện khoáng đạt, 
chung. Xét về các đề tài dựa theo tích truyện, một rõ nét cả phần người và rồng. cánh tay tiên uốn 
số bức chạm có đề tài lấy chất liệu từ các tích cong trong điệu múa quen thuộc với nét mặt đã giản 
truyện Trung Hoa, một số theo các truyền thuyết lược phần chân dung chỉ lộ rõ phần mũi, hình tượng 
thời Hùng Vương và một số được thể hiện bằng này cũng được lặp lại ở một số bức cốn khác ở 
chính các câu chuyện lịch sử của các anh hùng dân trong đình với cách tạo hình có phần thay đổi nhỏ 
tộc có công xây dựng và bảo vệ đất nước của dân về số lượng (ba cô tiên) và tạo hình có phần thay 
tộc Việt, một số bức rất điển hình như: Long vân đổi không đáng kể. 
đại hội, Tây du ký (Thầy trò Đường Tăng đi Tây 
Trúc thỉnh kinh), Bát Tiên Quá Hải, Võ Tòng đả 
hổ, ông Bành Tổ câu cá... 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
 H.7, Tiên cưỡi rồng, chính giữa vì gian trái, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 - Tích truyện ông Bành Tổ câu cá: là đề tài lấy từ bức họa. Theo tích truyện dân gian, đây là cảnh 
cốt truyện từ Trung Hoa đồng thời câu cá cũng là ông Bành Tổ câu cá, người được mệnh danh là bị 
hoạt động giải trí thường thấy trong cuộc sống ở thần chết bỏ quên khi ông có tuổi thọ rất cao tới 
nông thôn miền sông nước. Đề tài này được thể mấy trăm năm tuổi mà không chết. Khi vẽ bức hình 
hiện trên hình thức tranh vẽ màu trên ván gỗ với này cũng đồng nghĩa với việc nhân dân nơi đây gửi 
kích thước lớn thể hiện bằng cảnh một ông già gắm những ước vọng cầu sự sống được bách niên 
đang ngồi câu cá bên mỏm đá, xung quanh là giai lão, trường thọ vô biên, trường sinh bất tử và an 
phong cảnh hữu tình với núi non sông nước. Với lạc theo tinh thần mà bức vẽ mang lại. Đây là một 
dáng ngồi câu điềm tĩnh nên người ta không còn ước vọng rất cao đẹp và chính đáng của người nông 
thấy nhiều hoạt động câu cá nữa mà thay vào đó ta dân đương thời. Bức vẽ được thể hiện bằng màu, 
thấy được sự vui thú điền viên của ông lão trước trên ván gỗ và được thêm vào thế kỷ XIX [H.8]. 
cảnh sắc thiên nhiên, đây chính là tinh thần toát lên 
 H.8, Ông Bành Tổ câu cá, vẽ màu trên ván gỗ, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
 Tích truyện: Bát tiên quá hải (tám vị Tiên qua (cụ già bế đứa trẻ trong lòng), giới tính (nam cưỡi 
sông): diễn tả cảnh gồm tám người ăn vận quần ngựa, nữ trong tư thế múa), văn sĩ, tướng võ, phú 
trùng áo dài trông như đang trong một dịp hội hè quý, bần cùng qua một bức chạm cũng đã cho 
bày trò đàn hát, nhưng theo lý lịch ghi chép tại địa thấy sự đa dạng về giai tầng trong xã hội [H.9]. 
phương thì bức chạm được chạm theo tích “Bát Bức chạm còn được coi là vật phẩm mang ý nghĩa 
tiên quá hải” thể hiện bởi 8 vị tiên, cả 8 vị đều mặc may mắn thể hiện tinh thần mong mỏi sự trường 
quần áo thụng, một người đang cưỡi ngựa, còn 7 thọ sống lâu của người dân, việc sử dụng đề tài này 
người khác đứng dàn trải theo chiều ngang, trên nhằm trang trí cho bức cốn đã ít nhiều phù hợp 
đầu tám vị tiên chạm một đầu rồng lớn, dưới chân với việc cầu sự trường thọ của các bậc lão thành 
là những tạo hình dạng sóng nước, nhìn vào đây ta ở nhà Yến Lão trong đình làng Hùng Lô 
thấy phần nào phản ánh về độ tuổi: già có, trẻ có 
 . 
 H.9, Trang trí trên cốn nách, phía trước, bên phải, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 - Tích truyện: Võ Tòng đả hổ: được tạc chạm thắng cái ác. Nhưng trong lý lịch đình làng Hùng 
trên xà ngang ở đình làng Hùng Lô, tả cảnh phía Lô ghi chép rằng đây là bức chạm diễn lại cảnh Võ 
trước là một con hổ lớn, bên dưới có 1 người cầm Tòng đả hổ (trong tích truyện của Trung Hoa), đây 
gậy với tư thế đánh trả lại con hổ. Bức chạm này được xem như sự kết hợp ý tứ rất khéo léo trong 
cũng có thể hiểu là cách miêu tả lại cảnh đi săn của việc diễn tả các tích truyện xưa nhưng không quên 
con người trong cuộc sống xưa, ý muốn nói rằng lồng ghép ý tứ sâu xa của cha ông ta về cuộc sống 
con người có thể làm chủ thiên nhiên và chiến thường nhật của người dân đương thời. 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
 H.10, Đả hổ, gian trái, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 - Tích truyện tập trận giả (tập trận cờ lau): là cao xấp xỉ 0,80m, dài 0,30m. Nhìn theo cách tạo 
bức chạm ở kẻ hậu được xuất phát từ câu chuyện hình thì như trên thì đây là bức chạm người nghệ sỹ 
về tuổi thơ của người anh hùng dân tộc Đinh Tiên dân gian diễn tả lại cảnh Đinh Tiên Hoàng lúc còn 
Hoàng nhưng đan cài ý nghĩa trong đó là bức tranh nhỏ ở với người chú. Tích kể rằng, khi người cháu 
chân thực của trẻ em nông thôn Việt thủa còn chăn khi đi chăn trâu bèn rủ bạn bè tập trận giả bằng cờ 
trâu ngoài đồng với các trò chơi đánh trận giả. Bức lau, khi bị người chú mắng đã bỏ chạy trốn ra đến 
chạm diễn tả gồm nhiều người, đều được chạm nổi, bờ sông, nước sông tự nhiên rẽ lối cho Đinh Tiên 
đường nét được chau chuốt kỹ lưỡng tả cảnh rất Hoàng đi, ông chú thấy điềm lạ bèn mổ lợn đem ra 
sinh động bao gồm 1 người đang cưỡi trên lưng bờ sông cúng lễ. Cho nên bức chạm này ca ngợi về 
trâu, 1 người đang thổi kèn, 1 người khác tay cầm lòng quả cảm và yêu nước của vị vua Đinh Tiên 
tờ hịch đọc ở bên cạnh, 1 người cưỡi ngựa, ở phía Hoàng từ khi chỉ mới là cậu bé, qua đó thể hiện sức 
trước là 1 người tay cầm con lợn đang vái. Kẻ này mạnh dân tộc rất rõ nét của cha ông ta [H.11]. 
 H.11, Chạm khắc trên kẻ, gian giữa, phía trong, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 - Tích truyện tây du ký: là câu chuyện kể về quá và Sa Tăng trước khi được xuất bản thành một bộ 
trình đi lấy chân kinh của 4 thầy trò Đường Tam phim rất nổi tiếng đã làm say lòng khán giả vào 
Tạng gồm: Đường Tăng, Ngộ Không, Trư Bát Giới năm 1996. Dựa vào tích truyện này, ở đình làng 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
Hùng Lô đã tạc lại tinh thần của 4 nhân vật ấy rất đặc trưng và Sa Tăng cần mẫn theo hầu, xung 
trong quá trình thỉnh kinh, bức chạm được tạc trên quanh được chạm rất nhiều mây, bên trái có chạm 
cốn thuộc gian phải phía trong cùng của đình, một con rồng cỡ lớn, phía trên chạm cô tiên [H.12]. 
người nghệ sỹ dân gian thể hiện sinh động với các Bức chạm có cùng phong cách và tinh thần như các 
nhân vật như: Đường Tăng cưỡi ngựa hồng, Ngộ bức kế bên người nghiên cứu xếp vào phong cách 
Không đi phía trước, Bát Giới với gương mặt lợn cuối thế kỷ XVII cùng với thời gian xây dựng đình. 
 H.12, Thầy trò Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh, cốn nách trái, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 2.4. Đề tài vật linh cảnh huyên náo, vui tươi nơi vùng quê. Vật linh thứ 
 Một số các con vật linh thiêng trong bộ tứ linh hai là con ly hay còn gọi là con chim hạc, hạc chầu 
được trang trí ở đình làng Hùng Lô như: long - ly - đứng trên lưng rùa là cặp trang trí không thể thiếu ở 
quy - phượng, cùng một số con vật như lân, hổ, khu vực trung đình, hạc được thể hiện với thân 
rahu, rắn, (đây cũng là mô típ trang trí phổ biến mình cao lớn, cổ dài như cổ rắn, mắt phượng, mỏ 
trong các ngôi đình chùa, miếu ở Việt Nam). Trong dài, chân thẳng và dài, bàn chân có móng sắc nhọn, 
số các con vật linh ấy, rồng là con vật được chạm thân mình có lông vũ đẹp mắt, mỏ ngậm đóa sen hé 
khắc nhiều nhất, có ở trên mọi vị trí và được trải nở; ngoài ra còn một số con vật khác cũng được thể 
đều trên các khu vực quan trọng như nóc mái đình, hiện nhiều như: con lân thường được chạm khắc 
đầu bảy, chạm khắc trên cốn, vẽ rồng trên ván,... trên trụ biểu ở nghi môn, trên nóc mái đình, trên 
Phần lớn rồng được trang trí ở những vị trí tôn hương án, trên bộ cửa ra vào (việc chạm những con 
nghiêm, cao quý nên nó được coi như một biểu lân ở vị trí như vậy nhằm mang lớp nghĩa là “coi 
tượng linh thiêng nhưng lại có tâm hướng về cuộc sóc tâm hồn kẻ hành hương” như các tác giả đi 
sống nơi đồng ruộng thôn quê, nên ta thấy hình ảnh trước nhận định; chim phượng được chạm chung 
rồng nô đùa bên các hoạt động giải trí hội hè trong với rồng được thể hiện trong tư thế tung cánh; con 
nhân dân, rồng còn bị đuổi bắt như những loài thú rahu được vẽ ở trên ván gỗ và chạm ở vị trí như cửa 
khác trong bức chạm săn rồng đã tạo nên một hoạt võng, hương án 
 C.T.Van/ No.20_Mar 2021|p.19-29 
 H.13, Long vân đại hội, trên cốn, bên phải, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
 H.14, Rùa cõng thư, vẽ màu trên ván gỗ, đình làng Hùng Lô 
 Ảnh chụp (2016) 
3. Kết luận 
 Nhìn chung, toàn bộ đề tài trang trí kể trên ở the population of cultural and historical relics of 
đình làng Hùng Lô vừa miêu tả cuộc sống vui tươi Xom temple - Hung Lo commune. 
của người dân nơi đây vừa gửi gắm những ước 
 2. Ha Van Tan - Nguyen Van Ku (1998, reprint 
vọng về một xã hội thái bình thịnh trị, vừa cầu 
 2014), Vietnam’s temple, Social Science Publishing 
mong một mùa màng tươi tốt, bội thu, đồng thời 
cũng không quên đền ơn, đáp nghĩa về các vị vua, House, Hanoi. 
các vị anh hùng dân tộc đã không quên thân mình 3. Tran Dinh Tuan (2012), Human image in 
để bảo vệ tổ quốc. Người dân vừa mong muốn thần temple carvings in the Red River Delta region, 
linh che chở nhưng cũng muốn làm chủ thiên nhiên Dissertation of Theory and History of Fine Arts, 
và chiến thắng cái ác Có rất nhiều lớp nghĩa ẩn ý 
 Vietnam National Institute of Culture and Arts 
trong các đề tài trang trí nơi đây và là nét đẹp trong 
 Studies. 
đời sống của con người ở đất Hùng Lô. 
 REFERENCES 4. Institute of Fine Arts (1975), Vietnam folk 
 sculpture – 16th – 17th – 18th centuríe, Foreign 
 1. Department of Culture and Information - Phu 
 Language Publishing House - Hanoi. 
Tho (Provincial Museum) (2003), Introduction to 

File đính kèm:

  • pdfde_tai_trang_tri_trong_nghe_thuat_cham_khac_va_tranh_ve_tren.pdf