Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) trong điều trị

bệnh bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) ở trẻ em.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu.

Đối tượng nghiên cứu: Từ tháng 1-2010 đến 3-2012, tại BV TMHH, 95 bệnh nhân (BN) mới được chẩn

đoán bạch cầu cấp và được điều trị bằng phác đồ FRALLE 2000. Đánh giá TLTBAT bằng kỹ thuật tế bào dòng

chảy ở các thời điểm: sau giai đoạn tấn công (ngày 35), sau giai đoạn tăng cường 2, khi kết thúc điều trị (cuối giai

đoạn duy trì).

Kết quả: Có 87,4% BN có thể ghi nhận được kiểu hình LAIPs lúc chẩn đoán (kết hợp từ 2 dấu ấn trở lên).

Sau giai đoạn tấn công, BN có MRD < 0,01% và MRD từ 0,01% đến 0,1% có tỷ lệ sống không tái phát bệnh sau

5 năm (RFS-5 năm) lần lượt là 86,7% ± 7% và 79,7 ± 6%, BN có MRD > 0,1% thì RFE-5 năm là 37,3 ± 10%

(p=0,001). Sau giai đoạn tăng cường II, BN có MRD < 0,01% có RFS-5 năm (87,5± 9%) cao hơn nhóm BN có

MRD từ 0,01% đến 0,1% và BN có MRD > 0,1% (82,0 ± 6% và 73,5 ± 8%) (p<0,05). Không có sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê về tỷ lệ sống không tái phát bệnh sau 5 năm giữa 3 nhóm MRD sau giai đoạn duy trì. Như vậy,

MRD sau giai tấn công có ý nghĩa tiên lượng đến thời gian sống còn của bệnh. Phân tích đa biến cho thấy chỉ có

MRD sau giai đoạn tấn công có ý nghĩa tiên lượng độc lập.

Kết luận: TLTBAT sau giai đoạn tấn công là một yếu tố có giá trị tiên lượng mạnh nhất và độc lập trong

bệnh BCCDL trẻ em. Việc đánh giá TLTBAT là rất quan trọng trong việc lựa chọn phác đồ điều trị bệnh

BCCDL.

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em trang 1

Trang 1

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em trang 2

Trang 2

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em trang 3

Trang 3

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em trang 4

Trang 4

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em trang 5

Trang 5

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em trang 6

Trang 6

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 15080
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em

Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho ở trẻ em
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 101
ĐÁNH GIÁ Ý NGHĨA TIÊN LƯỢNG CỦA TỒN LƯU TẾ BÀO ÁC TÍNH 
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHO Ở TRẺ EM 
Võ Thị Thanh Trúc*, Cai Thị Thu Ngân*, Nguyễn Thị Mỹ Hòa**, Huỳnh Nghĩa*, Nguyễn Phương Liên*, 
Phù Chí Dũng* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá ý nghĩa tiên lượng của tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) trong điều trị 
bệnh bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) ở trẻ em. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu. 
Đối tượng nghiên cứu: Từ tháng 1-2010 đến 3-2012, tại BV TMHH, 95 bệnh nhân (BN) mới được chẩn 
đoán bạch cầu cấp và được điều trị bằng phác đồ FRALLE 2000. Đánh giá TLTBAT bằng kỹ thuật tế bào dòng 
chảy ở các thời điểm: sau giai đoạn tấn công (ngày 35), sau giai đoạn tăng cường 2, khi kết thúc điều trị (cuối giai 
đoạn duy trì). 
Kết quả: Có 87,4% BN có thể ghi nhận được kiểu hình LAIPs lúc chẩn đoán (kết hợp từ 2 dấu ấn trở lên). 
Sau giai đoạn tấn công, BN có MRD < 0,01% và MRD từ 0,01% đến 0,1% có tỷ lệ sống không tái phát bệnh sau 
5 năm (RFS-5 năm) lần lượt là 86,7% ± 7% và 79,7 ± 6%, BN có MRD > 0,1% thì RFE-5 năm là 37,3 ± 10% 
(p=0,001). Sau giai đoạn tăng cường II, BN có MRD < 0,01% có RFS-5 năm (87,5± 9%) cao hơn nhóm BN có 
MRD từ 0,01% đến 0,1% và BN có MRD > 0,1% (82,0 ± 6% và 73,5 ± 8%) (p<0,05). Không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về tỷ lệ sống không tái phát bệnh sau 5 năm giữa 3 nhóm MRD sau giai đoạn duy trì. Như vậy, 
MRD sau giai tấn công có ý nghĩa tiên lượng đến thời gian sống còn của bệnh. Phân tích đa biến cho thấy chỉ có 
MRD sau giai đoạn tấn công có ý nghĩa tiên lượng độc lập. 
Kết luận: TLTBAT sau giai đoạn tấn công là một yếu tố có giá trị tiên lượng mạnh nhất và độc lập trong 
bệnh BCCDL trẻ em. Việc đánh giá TLTBAT là rất quan trọng trong việc lựa chọn phác đồ điều trị bệnh 
BCCDL. 
Từ khóa: bạch cầu cấp dòng lympho trẻ em, tồn lưu tế bào ác tính 
ABSTRACT 
PROGNOSTIC SIGNIFICANCE OF MINIMAL RESIDUAL DISEASE DETECTED 
BY FLOW CYTOMETRY IN CHILDHOOD ACUTE LYMPHOBLASTIC LEUKEMIA 
Vo Thi Thanh Truc, Cai Thi Thu Ngan,Nguyen Thi My Hoa, Huynh Nghia, Nguyen Phuong Lien, 
Phu Chi Dung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 101 - 107 
Objective: Our study aimed to determine the prognostic significance of minimal residual disease (MRD) 
detected by flow cytometry in treatment of childhood acute lymphoblastic leukemia (ALL). 
Methods: A total of 95 patients were newly diagnosed with ALL and treated with FRALLE-2000 protocol 
from January 2010 to March 2012 at Blood transfusion and hematology hospital in Ho Chi Minh city (Viet 
Nam). MRD was measured by flow cytometry at the end of induction (day 35), end of 2nd intensification and end 
of maintenance period. 
Results: The leukemia-associated immunophenotypes could be identified in 87.4% (with more than 2 
markers combination). Patients with end-induction MRD <0.01% had a 5-year relapsed-free-survival (RFS) of 
86.7 ± 7% vs 79.7 ± 6% for those with MRD from 0.01% to 0.1% and 37.3 ± 10% for those with MRD≥0.1% 
*Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học **Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BSCKI. Cai Thị Thu Ngân ĐT: 0978 492 299 Email: thungany05@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 102
(p=0.001). Patients with end-intensification MRD < 0.01% had higher 5-year RFS (85.7 ± 9%) than those with 
MRD from 0.01% to 0.1% and MRD ≥ 0.1% (82 ± 6% and 73.5 ± 8%) (p<0.05). No significant difference in 5-
year RFS between 3 groups of end-maintenance MRD (<0.01%; 0.01% to 0.1%; ≥0.1%). Only the end-induction 
MRD status had a significant influence to 5-year overall survival (OS). Multivariate analysis demonstrated that 
only MRD at the end of induction was an independent prognostic factor. 
Conclusion: MRD detection by flow cytometry method at the end of induction chemotherapy is a strong and 
independent outcome indicator in childhood ALL. This can be used for MRD-based risk stratification in order to 
design a suitable protocol for childhood ALL treatment. 
Key words: minimal residual disease, childhood acute lymphoblastic leukemia 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) là bệnh 
lý ác tính thường gặp nhất ở trẻ em và gây tử 
vong cao. Bên cạnh đại đa số các trẻ em đạt lui 
bệnh có tỷ lệ sống còn lâu dài, thì vẫn còn nhiều 
trẻ em bị tái phát bệnh và tử vong. Có khoảng 
20% trẻ em bị tái phát và tỷ lệ chữa khỏi sau khi 
tái phát chỉ còn 25-40%(5). Tái phát được cho là 
hậu quả từ những tế bào ác tính còn tồn đọng lại 
sau khi đạt “lui bệnh hoàn toàn” nhưng lại dưới 
ngưỡng phát hiện bằng đánh giá tế bào học dưới 
kính hiển vi. Phương pháp đo lường tồn lưu tế 
bào ác tính tối thiểu giúp đánh giá số lượng tế 
bào ác tính còn tồn tại dai dẳng và là phương 
pháp có độ tin cậ ... LTBAT trong điều trị bệnh BCCDL ở trẻ em. Vì 
vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với 
mục tiêu tổng quát sau: “Đánh giá ý nghĩa tiên 
lượng của TLTBAT trong điều trị bệnh bạch cầu 
cấp dòng lympho ở trẻ em”. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Có 95 bệnh nhân (BN) thỏa tiêu chuẩn chọn 
mẫu với độ tuổi từ 0-15 tuổi, được điều trị bằng 
phác đồ FRALLE 2000 tại khoa Nhi – BVTMHH 
từ 01/01/2010 đến 31/03/2012. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các BN thỏa mãn các tiêu chuẩn sau: Các trẻ 
em từ 0 đến 15 tuổi, bệnh mới (de novo) được 
chẩn đoán xác định bệnh BCCDL theo tiêu 
chuẩn WHO, bệnh chưa được điều trị gì trước 
đó, được điều trị bằng phác đồ FRALLE-2000, 
đạt lui bệnh hoàn toàn sau giai đoạn tấn công 
(theo tiêu chuẩn WHO), được đánh giá TLTBAT 
bằng kỹ thuật dòng chảy tế bào vào đủ 3 giai 
đoạn: sau tấn công, sau tăng cường 2, sau kết 
thúc điều trị. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Không hội đủ các tiêu chuẩn chọn bệnh hoặc 
có 1 trong các tiêu chuẩn sau: hồ sơ bệnh án 
không đầy đủ, rõ ràng, không điều trị đầy đủ 
các giai đoạn của phác đồ FRALLE-2000, bệnh 
nhi được chẩn đoán bệnh BCCDL nhóm L3 
(Burkitt) theo phân loại FAB, BCC biphenotype, 
trisomy 21, BCC thứ phát. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 103
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu. 
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu 
Dựa vào hồ sơ bệnh án, chọn các bênh nhân 
thỏa tiêu chí chọn mẫu. 
Ghi nhận vào phiếu thu thập thông tin. 
Các dữ liệu được nhập vào máy tính và phân 
tích bằng chương trình Excel 2013 và SPSS 18. 
Khi so sánh hai tỷ lệ dùng phép kiểm χ2. 
Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Có 87,4% BN có thể ghi nhận được kiểu hình 
LAIPs lúc chẩn đoán (kết hợp từ 2 dấu ấn trở 
lên). 100% BN đạt CR sau giai đoạn tấn công. Tỷ 
lệ tái phát sau đạt lui bệnh là 26,3%, trong đó: 
Tỷ lệ BN tái phát rất sớm (tái phát trong 
vòng 18 tháng sau khi chẩn đoán) chiếm đa số 
(13,6%), kế đến là tái phát sớm (10,5%) và ít nhất 
là tái phát muộn (2,2%). 
Vị trí tái phát thường gặp nhất là tái phát 
tủy đơn thuần (15,7%), kế đến là tái phát 
TKTW đơn thuần (6,2%) và cuối cùng là tái 
phát tinh hoàn và tái phát tủy phối hợp TKTW 
(đều chiếm 2,2%). 
Tỷ lệ tử vong trong suốt quá trình điều trị 
là 16,8%. 
Đánh giá tồn lưu tế bào ác tính sau giai đoạn 
tấn công, sau giai đoạn tăng cường II và sau duy 
trì của nhóm nghiên cứu: Trong nghiên cứu 
chúng tôi đã phân nhóm TLTBAT làm 3 nhóm: 
nhóm TLTBAT thấp (TLTBAT <10-4), nhóm 
TLTBAT trung bình (10-4≤ TLTBAT <10-3) và 
nhóm TLTBAT cao (TLTBAT ≥10-3) (Bảng 1). 
Bảng 1. Tồn lưu tế bào ác tính sau giai đoạn tấn 
công, giai đoạn tăng cường II và duy trì 
TLTBAT Sau tấn 
công (n=95) 
Sau tăng 
cường II (n=85) 
Sau duy trì 
(n=72) 
n (%) n (%) n (%) 
TLTBAT <10
-4
 24(25,3) 14(16,5) 9(12,5) 
10
-4
 ≤TLTBAT<10
-3
 47(49,4) 42(49,4) 42(58,3) 
TLTBAT ≥10
-3
 24(25,3) 29(34,1) 21(29,2) 
Đa số các BN có TLTBAT dương (74,7%), 
tuy nhiên chỉ có 25,3% BN có TLTBAT ở mức 
cao (≥10-3). 
Sau giai đoạn tăng cường 2 và giai đoạn duy 
trì, tỷ lệ các BN có BAT âm tính (<10-4) thấp nhất 
(16,5% và 12,5%) và giảm hơn rất nhiều so với 
kết quả TLTBAT sau giai đoạn tấn công, tỷ lệ BN 
có TLTBAT cao trên 10-3 lại tăng lên đáng kể 
(34,1% và 29,2%). 
Tồn lưu tế bào ác tính và tỷ lệ sống còn 
Tỷ lệ sống sau 5 năm của nhóm nghiên cứu 
Tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm (OS-5 năm) và 
tỷ lệ sống không bệnh sau 5 năm (DFS-5 năm) 
cao (82,1 ± 4,0% và 71,2 ± 4,0%) (Hình 1). 
Tỷ lệ sống sau 5 năm theo phân nhóm tồn lưu 
tế bào ác tính sau giai đoạn tấn công 
Tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm ở các BN có 
TLTBAT thấp thì cao hơn các BN có TLTBAT 
trung bình và TLTBAT cao (p <0,05). TLTBAT 
càng cao thì tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm càng 
thấp. Tương tự BN có TLTBAT càng cao thì tỷ lệ 
tái phát tích lũy sau 5 năm (CIR-5 năm) càng cao 
(p=0,0001) (Hình 2). 
Tỷ lệ sống sau 5 năm theo phân nhóm tồn lưu 
tế bào ác tính sau tăng cường II 
Tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 năm ở các BN có 
TLTBAT thấp cao hơn các BN có TLTBAT 
trung bình và các BN TLTBAT cao (p> 0,05). 
Tỷ lệ tái phát tích lũy sau 5 năm (CIR-5 năm) 
của nhóm có TLTBAT ≥10-3 cao nhất trong 3 
nhóm (p <0,05). Như vậy, TLTBAT sau giai 
đoạn tăng cường II càng cao thì tỷ lệ tái phát 
tích lũy càng cao (Hình 3). 
Tỷ lệ sống sau 5 năm theo phân nhóm tồn lưu 
tế bào ác tính sau giai đoạn duy trì 
Nhóm BN có TLTBAT trên 10-3 có tỷ lệ OS-5 
năm thấp nhất và tỷ lệ CIR-5 năm cao nhất. Tuy 
nhiên, các BN có TLTBAT từ 10-4 đến dưới 10-3 lại 
có tỷ lệ OS-5 năm cao hơn các BN có TLTBAT 
âm tính (<10-4). Sự khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê (p >0,05). Như vậy TLTBAT sau 
giai đoạn duy trì không có mối liên quan có ý 
nghĩa với tỷ lệ tái phát cũng như thời gian sống 
còn của BN (Hình 4). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 104
Hình 1. Kaplan- Meier. Thời gian sống toàn bộ sau 5 năm (OS-5 năm) và thời gian sống không bệnh sau 5 năm 
(DFS- 5 năm) của nhóm nghiên cứu 
Hình 2. Kaplan-Meier biểu diễn OS-5 năm và tỷ lệ tái phát tích lụy 5 năm (CIR-5 năm) theo phân nhóm 
TLTBAT sau giai đoạn tấn công 
Hình 3. Kaplan-Meier biểu diễn OS-5 năm và CIR-5 năm theo phân nhóm TLTBAT sau giai đoạn tăng cường II 
OS-5 naêm
0 2 4 6
20
40
60
80
100
82,1 4,0%
Naêm
%
 s
o
án
g 
so
ùt
DFS-5 naêm
0 2 4 6
20
40
60
80
100
71,2 4,0%
Naêm
%
 s
o
án
g 
so
ùt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 105
Hình 4. Kaplan-Meier biểu diễn OS-5 năm và CIR-5 năm theo phân nhóm TLTBAT sau giai đoạn duy trì 
BÀN LUẬN 
Kiểu hình miễn dịch (LAIPs) 
Có 87,4% BN có thể ghi nhận được kiểu hình 
LAIPs lúc chẩn đoán. So sánh với các nghiên cứu 
khác, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ BN có kiểu hình 
LAIPs trong nghiên cứu của chúng tôi tôi thấp 
hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của tác giả 
Björklund E(2) và Fossat C(9) nhưng lại cao hơn 
kết quả nghiên cứu của Counstan-Smith E(7). Kết 
quả của chúng tôi tương đương với kết quả của 
tác giả Delbuono E(8). Tỷ lệ BN không phát hiện 
được LAIPs trong nghiên cứu của chúng tôi khá 
cao (12,6%). Điều này có thể do nhiều yếu tố ảnh 
hưởng như: thuốc, thay đổi kiểu hình miễn dịch, 
xuất hiện kiểu hình mới, thiếu những dấu ấn 
thích hợp có độ đặc hiệu, do kỹ thuật của phòng 
xét nghiệm, 
Đáp ứng điều trị và tỷ lệ tái phát 
100 % BN đạt lui bệnh sau giai đoạn tấn 
công, có 25 26,3% tái phát sau khi đạt lui bệnh 
hoàn toàn, tỷ lệ sống toàn bộ tích lũy sau 5 năm 
(OS-5 năm) là 82,1 ± 4,0%, tỷ lệ sống không bệnh 
tích lũy sau 5 năm (DFS-5 năm) là 71,2 ± 4,0%. Tỷ 
lệ tái phát chung trong nghiên cứu của chúng tôi 
cao hơn kết quả nghiên cứu SJCRH của Pui CH 
(11,7%) và nghiên cứu BFM-95 của Moricke A 
(16,2%)(10,14). Sự khác biệt này có thể do khác biệt 
về cỡ mẫu nghiên cứu, hoặc do phác đồ điều trị 
có độ mạnh khác nhau. 
Tồn lưu tế bào ác tính 
TLTBAT sau giai đoạn tấn công 
Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ BN có TLTBAT âm 
tính (< 10-4) sau giai đoạn tấn công còn thấp (chỉ 
chiếm 25,3%), còn lại đa số BN có TLTBAT 
dương (74,7%), tuy nhiên chỉ có 25,3% BN có 
TLTBAT ở mức cao (≥10-3). Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi có khác biệt so với kết quả của các 
nghiên cứu khác. Trong nghiên cứu của 
Delbuono E(8) và Fronkova E, đa số BN có 
TLTBAT âm tính sau giai đoạn tấn công và thấp 
nhất là tỷ lệ BN có TLTBAT ở mức cao. Sự khác 
biệt này có thể do kỹ thuật DCTB, do thiếu các 
kháng thể mới và ổn định cho việc theo dõi 
TLTBAT, cũng có thể do phác đồ điều trị khác 
nhau. Tuy nhiên, xét về phương diện TLTBAT, 
khoảng 2/3 số BN trong nhóm nghiên cứu của 
chúng tôi có TLTBAT dưới 10-3, mà trong các 
nghiên cứu hiện nay thì ngưỡng TLTBAT vượt 
quá 10-3 mới cần thay đổi điều trị(4). Điều này 
chứng tỏ phác đồ điều trị của chúng tôi vẫn có 
hiệu quả lui bệnh về mặt TLTBAT tốt, tuy nhiên 
vẫn chưa đạt được tối ưu (TLTBAT <10-4). 
TLTBAT sau giai đoạn tấn công ảnh hưởng đến 
sự sống còn, trong nghiên cứu chúng tôi tỷ lệ 
sống toàn bộ sau 5 năm (OS-5 năm) cao nhất ở 
nhóm có TLTBAT <10-4 (91,7 ± 5%) và thấp nhất 
ở nhóm có TLTBAT ≥ 10-3 (57,6 ± 10%) (p=0,002). 
Tương tự, tỷ lệ sống không bệnh sau 5 năm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 106
(DFS-5 năm) cũng cao nhất ở nhóm có TLTBAT 
<10-4 (86,7 ± 7%) và thấp nhất ở nhóm có 
TLTBAT ≥10-3 (37,3 ± 10%) (p=0,0001). Kết quả 
này cũng tương đồng với tác giả Bowman WP(6). 
Có thể nói, TLTBAT sau giai đoạn tấn công là 
yếu tố tiên lượng cho tỷ lệ sống sót cho các BN 
BCCDL, TLTBAT càng cao thì tỷ lệ sống càng 
thấp. Ngoài ra ngưỡng giá trị TLTBAT sau giai 
đoạn tấn công có liên quan mật thiết đến tỷ lệ tái 
phát tích lũy của các BN BCCDL, tỷ lệ này càng 
tăng cao khi giá trị TLTBAT càng tăng dần. 
Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ CIR-5 năm thấp nhất ở 
nhóm có TLTBAT <10-4 (13,3 ± 7%) và cao nhất ở 
nhóm BN có TLTBAT ≥10-3 (62,7 ± 10%) 
(p=0,0001). Kết quả này cũng tương tự với các 
tác giả Counstan-Smith E, Paganin M, Stow 
P(7,11,13). Như vậy, TLTBAT sau giai đoạn tấn công 
là yếu tố tiên lượng mạnh nhất. 
TLTBAT sau giai đoạn tăng cường II và sau khi 
kết thúc điều trị 
Ở cả hai giai đoạn, các BN có TLTBAT chủ 
yếu thuộc nhóm từ 10-4 đến dưới 10-3, kế đến là 
nhóm TLTBAT ≥10-3 và thấp nhất ở nhóm có 
TLTBAT <10-4. Có thể nói tỷ lệ BN có TLTBAT 
âm (<10-4) giảm dần ở các giai đoạn sau, chứng tỏ 
một số BN có TLTBAT âm ở sau giai đoạn tấn 
công nhưng chuyển thành dương tính ở những 
giai đoạn sau. Phân tích tỷ lệ sống toàn bộ sau 5 
năm (OS-5 năm), chúng tôi nhận thấy không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm 
TLTBAT ở cả hai giai đoạn điều trị. 
Tuy nhiên, khi phân tích tỷ lệ sống không 
bệnh sau 5 năm (DFS-5 năm) chúng tôi nhận 
thấy: vào cuối giai đoạn tăng cường 2 (tuần 36-
37 kể từ lúc bắt đầu điều trị), tỷ lệ DFS-5 năm 
của nhóm có TLTBAT <10-4 là cao nhất (85,7 ± 
9%), kế đến là nhóm có TLTBAT từ 10-4 đến dưới 
10-3 (82,0 ± 6%) và cuối cùng là nhóm có TLTBAT 
≥10-3 (73,5 ± 8%) (p<0,05); vào cuối giai đoạn duy 
trì, DFS-5 năm của cả 3 nhóm TLTBAT kể trên 
lần lượt là 92,3 ± 4%, 87,5 ± 12% và 83,9 ± 8% 
(p=0,58). Kết quả này cũng tương đồng với tác 
giả Counstan-Smith E(7). Như vậy trong nghiên 
cứu của chúng tôi TLTBAT sau giai đoạn tăng 
cường 2 vẫn có ý nghĩa tiên lượng đối với tỷ lệ 
DFS-5 năm, còn đối với TLTBAT sau giai đoạn 
duy trì thì chúng tôi không tìm thấy ý nghĩa 
thống kê nào. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy TLTBAT 
sau giai đoạn tấn công là một yếu tố có giá trị 
tiên lượng mạnh nhất và độc lập, không bị 
tương tác bởi các yếu tố khác. Việc đánh giá 
TLTBAT là rất quan trọng trong điều trị bệnh 
BCCDL. TLTBAT giúp tiên lượng nguy cơ tái 
phát và tỷ lệ sống còn cho các BN, giúp phân 
nhóm nguy cơ để từ đó có thể điều chỉnh lại độ 
nặng của phác đồ điều trị, nhằm nâng cao hiệu 
quả, cải thiện dự hậu cho các BN nhưng cũng 
làm giảm độc tính của hóa trị liệu, nâng cao chất 
lượng sống cho các BN. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Basso G, Veltroni M, Valsecchi MG, et al (2009). Risk of Relapse 
of Childhood Acute Lymphoblastic Leukemia Is Predicted By 
Flow Cytometric Measurement of Residual Disease on Day 15 
Bone Marrow. Journal of Clinical Oncology, 27(31): 5168-5174. 
2. Bjorklund E, Mazur J, Soderhll S, et al (2003). Flow cytometric 
follow-up of minimal residual disease in bone marrow gives 
prognostic information in children with acute lymphoblastic 
leukemia. Leukemia, 17(1):138-148. 
3. Borowitz MJ, Devidas M, Hunger SP, et al (2008). Clinical 
significance of minimal residual disease in childhood acute 
lymphoblastic leukemia and its relationship to other prognostic 
factors: a Children's Oncology Group study. Blood, 111:5477-
5485. 
4. Bowman WP, Larsen EL, Devidas M, et al (2011). Augmented 
Therapy Improves Outcome For Pediatric High Risk Acute 
Lymphocytic Leukemia: Results Of Children’s Oncology Group 
Trial P9906. Pediatric Blood and Cancer, 57(4):569-577. 
5. Bùi Ngọc Lan (2007). Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng bệnh 
lơxêmi cấp dòng lympho và điều trị thể nguy cơ không cao ở trẻ 
em. Luận án Tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội. 
6. Conter V, Bartram CR, Valsecchi MG, Schrauder A, Panzer-
Grümayer R, Möricke A, et al (2010). Molecular response to 
treatment redefines all prognostic factors in children and 
adolescents with B-cell precursor acute lymphoblastic leukemia: 
results in 3184 patients of the AIEOP-BFM ALL 2000 study. 
Blood, 115(16): 3206-3214. 
7. Coustan-Smith E, Sancho J, Hancock ML, et al (2000). Clinical 
importance of minimal residual disease in childhood acute 
lymphoblastic leukemia. Blood, 96(8):2691-2696. 
8. Delbuono E, Maekawa YH, Latorre MRDO, et al (2008). 
Simplified flow cytometric assay to detect minimal residual 
disease in childhood with acute lymphoblastic leukemia. Revista 
Brasileira de Hematologia e Hemoterapia, 30:281-286. 
9. Fossat C, Roussel M, Arnoux I, et al (2014). Methodological 
aspects of minimal residual disease assessment by flow 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 107
cytometry in acute lymphoblastic leukemia: A french 
multicenter study. Cytometry Part B: Clinical Cytometry, 88(1):21-
29. 
10. Moricke A, Reiter A, Zimmermann M, et al (2008). Risk-
adjusted therapy of acute lymphoblastic leukemia can decrease 
treatment burden and improve survival: treatment results of 
2169 unselected pediatric and adolescent patients enrolled in the 
trial ALL-BFM 95. Blood, 111:4477-4489. 
11. Paganin M, Fabbri G, Conter V, et al (2014). Postinduction 
Minimal Residual Disease Monitoring by Polymerase Chain 
Reaction in Children with Acute Lymphoblastic Leukemia. 
Journal of Clinical Oncology. 32(31):3553-3558. 
12. Pui CH, Sandlund JT, Pei D, et al (2004). Improved Outcome for 
Children with Acute Lymphoblastic Leukemia: Results of Total 
Therapy Study XIIIB at St. Jude Children's Research Hospital. 
Blood, 104:2690-2696. 
13. Stow P, Key L, Chen X, et al (2010). Clinical significance of low 
levels of minimal residual disease at the end of remission 
induction therapy in childhood acute lymphoblastic leukemia. 
Blood, 115:4657-4663. 
14. Szczepanski T, Dawidowska M, Derwich K (2012). Monitoring 
of minimal residual disease in acute lymphoblastic leukemia. In 
Witt M., et al. (Eds.), Molecular aspects of hematologic 
malignancies, Principles and practice. Verlag Berlin Heidelberg, 
183-197. 
Ngày nhận bài báo: 27/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_y_nghia_tien_luong_cua_ton_luu_te_bao_ac_tinh_trong.pdf