Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi

Tháng 6 - 2007 đến tháng 5 - 2009 tại khoa Gây mê Hồi sức Bệnh viện SAI GON – ITO đã sử dụng

Bupivacaine đẳng trọng liều thấp và Sufentanil trong phương pháp kết hợp gây tê tủy sống và ngoài màng cứng

cho 162 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng từ 70- 98 tuổi. Thời gian mổ trung bình 82 ± 11,86 phút.

Mục tiêu: Xác dịnh hiệu quả của phương pháp CSE với Bupivacaine đẳng trọng liều thấp và Sufentanil

trong và sau mổ thay khớp háng ở người cao tuổi. Đánh giá tác động của phương pháp này trên tuần hoàn, hô

hấp và biến chứng.

Phương pháp: Tiền cứu.

Kết quả: Vô cảm tối ưu trong mổ (99,38%), giảm đau tốt sau mổ (98,76%), nhịp tim, nhịp thở, huyết áp và

tri giác ít thay đổi. Bệnh tim mạch và hô hấp tiến triển tốt sau mổ: bệnh mạch vành tốt hơn (99,24%), bệnh tăng

huyết áp tốt hơn (99,2%) và bệnh phổi mạn tốt hơn (98,75%).

Kết luận: Sử dụng liều thấp Bupivacaine đẳng trọng và Sufenatanil trong kỹ thuật kết hợp gây tê tuỷ sống

- ngoài màng cứng là phương pháp có hiệu quả vô cảm và giảm đau tốt cho phẫu thuật thay khớp háng ở người

cao tuổi, tác động tốt trên tuần hoàn, hô hấp sau mổ và ít biến chứng.

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 1

Trang 1

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 2

Trang 2

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 3

Trang 3

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 4

Trang 4

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 5

Trang 5

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 6

Trang 6

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 7

Trang 7

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 8

Trang 8

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 12960
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi

Đánh giá hiệu quả phương pháp kết hợp gây tê tủy sống ngoài màng cứng với bupivacaine đẳng trọng và sufentanil để mổ thay khớp háng người cao tuổi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 284 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP KẾT HỢP GÂY TÊ TỦY SỐNG 
NGOÀI MÀNG CỨNG VỚI BUPIVACAINE ĐẲNG TRỌNG VÀ 
SUFENTANIL ĐỂ MỔ THAY KHỚP HÁNG NGƯỜI CAO TUỔI 
Lê Văn Chung*, Nguyễn Văn Chừng** 
TÓM TẮT 
Tháng 6 - 2007 đến tháng 5 - 2009 tại khoa Gây mê Hồi sức Bệnh viện SAI GON – ITO đã sử dụng 
Bupivacaine đẳng trọng liều thấp và Sufentanil trong phương pháp kết hợp gây tê tủy sống và ngoài màng cứng 
cho 162 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng từ 70- 98 tuổi. Thời gian mổ trung bình 82 ± 11,86 phút. 
Mục tiêu: Xác dịnh hiệu quả của phương pháp CSE với Bupivacaine đẳng trọng liều thấp và Sufentanil 
trong và sau mổ thay khớp háng ở người cao tuổi. Đánh giá tác động của phương pháp này trên tuần hoàn, hô 
hấp và biến chứng. 
Phương pháp: Tiền cứu. 
Kết quả: Vô cảm tối ưu trong mổ (99,38%), giảm đau tốt sau mổ (98,76%), nhịp tim, nhịp thở, huyết áp và 
tri giác ít thay đổi. Bệnh tim mạch và hô hấp tiến triển tốt sau mổ: bệnh mạch vành tốt hơn (99,24%), bệnh tăng 
huyết áp tốt hơn (99,2%) và bệnh phổi mạn tốt hơn (98,75%). 
Kết luận: Sử dụng liều thấp Bupivacaine đẳng trọng và Sufenatanil trong kỹ thuật kết hợp gây tê tuỷ sống 
- ngoài màng cứng là phương pháp có hiệu quả vô cảm và giảm đau tốt cho phẫu thuật thay khớp háng ở người 
cao tuổi, tác động tốt trên tuần hoàn, hô hấp sau mổ và ít biến chứng. 
Từ khóa: gây tê tủy sống, ngoài màng cứng kết hợp, bupivacain đẳng trọng, phẫu thuật thay khớp hang. 
ABSTRACT 
THE EFFECT OF METHOD COMBINED SPINAL – EPIDURAL ANESTHESIA WITH ISOTONIC 
BUPIVACAINE AND SUFENTANIL FOR SURGERY OF HIP REPLACEMENT IN ELDERLY 
PATIENTS 
Le Van Chung, Nguyen Van Chung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 284 - 292 
From June 2007 to May 2009, the Anesthesia Department of SAIGON –ITO Hospital applied CSE method 
with low dose isotonic bupivacaine and sufentanil for 162 patients of 70-98 years old undergoing Hip 
Replacement Surgery. Duration of the intervention: 82 ± 11.86 minutes. 
Purposes: To determine the effect of CSE with low dose isotonic bupivacaine and sufentanil for Hip 
Replacement Surgery. To evaluate the effect of CSE on the cardiovascular and respiratory system and 
complications. 
Methods: Prospective study. 
Result: The degree of motorzed and sensory block has been much better after anesthetic technique procedure: 
intraoperative anesthetic reached to 99.38%, postoperative analgesia reached to 98.76%. Heart rate, respiratory 
rate, blood pressure and perception are not significantly changed. Cardiovascular and respiratory diseases have 
* Bệnh viện Quốc tế chấn thương chỉnh hình Sài Gòn 
** Phân môn Gây mê Hồi sức - Bộ môn Ngoại - ĐHYD TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS Lê Văn Chung, ĐT: 0978188179, Email: lechung_07@yahoo.com.vn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 285
been much better: coronary arteries disease reached to 99.24%, hypertension reached to 99.2% and COPD 
reached to 98.75%. 
Conclusion: The combined spinal – epidural anesthesia technique with low dose isotonic bupivacaine and 
sufentanil is adequate to intraoperation and postoperation, effects on the cardiovascular and respiratory system in 
postoperative episode and decreases rate of complications in Hip Replacement for elderly patients. 
Keywords: CSE, isotonic bupivacaine, hip replacement surgery. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đối với người cao tuổi bị gãy cổ xương đùi 
thực sự là một vấn nạn, bởi vì hầu hết trong số 
họ đều có tiền sử bệnh lý nội khoa tiềm tàng, 
hoặc có bệnh lý nội khoa đang điều trị, đặc biệt 
là hệ tim mạch và hô hấp. Về lĩnh vực gây mê 
hồi sức là một thách thức, với những phương 
pháp vô cảm đang có hiện nay như gây mê toàn 
diện, gây tê tủy sống, đều có thể đáp ứng được 
nhu cầu vô cảm cho loại phẫu thuật này, nhưng 
có nhiều biến chứng, rủi ro về tim mạch và hô 
hấp xảy ra trong và sau mổ. Qua tiếp thu y văn 
và nhận thấy rằng “phương pháp kết hợp gây tê 
tủy sống - ngoài màng cứng với Bupivacaine 
đẳng trọng và Sufentanil ” có thể đáp ứng được 
những yêu cầu nêu ở trên(1,8,13). 
Công trình được tiến hành thực hiện nghiên 
cứu tại Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình 
Quốc tế Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh từ 
năm 2007-2009, với mục tiêu: 
Xác định hiệu qủa của phương pháp kết hợp 
gây tê tủy sống - ngoài màng cứng với 
Bupivacain đẳng trọng và Sufentanil trong và 
sau mổ thay khớp háng ở người cao tuổi. 
Đánh giá tác động của phương pháp vô cảm 
này trên tuần hoàn, hô hấp và các biến chứng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân từ 70 tuổi trở lên có chấn 
thương bị gãy cổ xương đùi được định phẫu 
thuật thay khớp háng tại Bệnh viện SÀI GÒN – 
ITO, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Loại trừ khỏi nghiên cứu 
Bệnh tăng huyết áp chưa ổn định, nhồi máu 
cơ tim trước 6 tháng, suy tim độ III, IV, bệnh 
mạch vành chưa ổn định ... ± 6,19 145,74 ± 19,16 73,27 ± 6,63
H14 76,85 ± 5,57 146,17 ± 18,96 74,60 ± 7,55
P > 0,05 > 0,05 > 0,05 
- Từ H0 đến H3: theo dõi mỗi 20 phút trong một giờ 
đầu sau mổ. - Từ H4 – H9: theo dõi mỗi 30 phút trong 3 
giờ kế tiếp sau mổ. - Từ H10 – H13: Theo dõi mỗi 30 
phút, lấy giá trị trung bình mỗi 4 giờ trong 20 giờ tiếp 
theo sau mổ (H10: sau 8 giờ, H11: sau 12 giờ, H12: sau 
16 giờ, H13: sau 20 giờ, H14: sau 24 giờ)). 
Diễn biến hô hấp sau mổ (nhịp thở và SpO2) 
Bảng 10: Diễn biến nhịp thở và SpO2 sau mổ. 
Thông số
Thời điểm 
SpO2 (%) Nhịp thở (lần/phút) 
H0 98,93 ± 0,83 20,77 ± 1,88 
H1 97,66 ± 1,79 20,07 ± 2,18 
H2 97,80 ± 1,71 19,81 ± 2,42 
H3 97,98 ± 1,90 20,14 ± 2,43 
Thông số
Thời điểm 
SpO2 (%) Nhịp thở (lần/phút) 
H4 97,53 ± 1,69 20,19 ± 1,98 
H5 97,84 ± 0,91 19,95 ± 2,40 
H6 98,26 ± 1,26 20,28 ± 2,27 
H7 98,13 ± 1,51 19,65 ± 2,42 
H8 97,89 ± 1,58 20,51 ± 2,04 
H9 98,25 ± 1,17 20,90 ± 1,91 
H10 97,86 ± 0,93 20,22 ± 2,35 
H11 96,81 ± 0,89 19,70 ± 2,01 
H12 98,84 ± 1,54 20,06 ± 1,95 
H13 97,82 ± 0,91 19,68 ± 2,14 
H14 98,11 ± 1,38 20,59 ± 1,97 
P > 0,05 > 0,05 
Các từ viết tắt như bảng 3.28. 
Diễn biến tri giác sau mổ. 
BN tỉnh táo hoàn toàn hoặc ngủ nhẹ khi gọi 
tỉnh ngay sau mổ chiếm tỷ lệ 96,29%. 
Liều lượng thuốc sử dụng trong kỹ thuật CSE. 
Bupivaciane sử dụng tiêm vào khoang dưới 
nhện bao gồm: 
2mg có 17 BN (10,49%). 
3mg có 120 BN (74,07%). 
4mg có 10 BN (6,17%). 
5mg có 15 BN (9,25%). 
Các tai biến và biến chứng. 
Trong mổ gặp 1 BN (0,61%) tụt huyết áp < 
10% so với huyết áp ban đầu 
Sau mổ: tụt huyết áp 2 BN (1,23%); suy hô 
hấp 1 BN (0,61%). 
Thời gian nằm hồi sức và nằm viện. 
Thời gian nằm hồi sức trung bình 7,26 ± 1,04 
giờ và nằm viện trung bình 8,25 ± 1,45 ngày 
BÀN LUẬN 
Bàn luận chung 
Phân bố tuổi, giới 
Trong nghiên cứu chọn mẫu bệnh nhân có 
độ tuổi từ 70 trở lên. Trong đó tuổi cao nhất mà 
trong nghiên cứu gặp là 98. 
Lứa tuổi từ 70 đến 80 gặp nhiều nhất trong 
nghiên cứu, chiếm tỷ lệ 45,67%. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 289
Trong nghiên cứu có 117/162 là bệnh nhân 
nữ chiếm tỷ lệ 72,22%, cao hơn nam giới. Kết 
quả trên đây cũng phù hợp với nhiều tác giả 
trong và ngoài nước(13). Tỷ lệ gãy cổ xương đùi 
tăng theo tuổi thọ của cộng đồng, ngày càng trở 
thành mối quan tâm đối với gia đình. 
Tiền sử bệnh lý kèm theo của bệnh nhân trước mổ. 
Tiền sử bệnh lý trước khi bị gãy cổ xương đùi. 
Ở một người cao tuổi (tuổi trên 70), nhiều 
chức năng sinh lý bị rối loạn, tổn thương, nhưng 
nhiều nhất và phổ biến nhất là bệnh lý tim 
mạch, hô hấp. 
Trên 162 bệnh nhân đã nghiên cứu (bảng 1), 
có tiền sử bệnh lý tim mạch chiếm đa số: tăng 
huyết áp 86 trường hợp cao nhất chiếm tỷ lệ 
53%. Tiếp theo là bệnh phổi mạn tính có 80 
trường hợp và chiếm tỷ lệ 49,38%. 
Bệnh lý kèm theo và chuẩn bị bệnh nhân trước 
mổ. 
Ổn định về bệnh lý tim mạch. 
Trong số BN bị bệnh mạch vành trước mổ 
được chẩn đoán sớm và hầu hết đáp ứng với 
điều trị bằng nhóm Nitrates (Nitroglycerin, 
Isosorbide). 
Bệnh tăng huyết áp trước mổ được chẩn 
đoán theo tiêu chuẩn của chuyên khoa tim 
mạch, trong số này có đến 53% đã có tiền sử 
THA trước khi bị tổn thương khớp háng và 
được xử trí điều trị ngay sau khi bệnh nhân 
nhập viện bằng nhóm thuốc lợi tiểu 
Thiazid/giống Thiazid, nhóm ức chế Canxi, các 
dẫn chất Nitrates(4). 
Bệnh lý viêm phế quản phổi. 
Viêm phổi là một biến chứng thường gặp, xuất 
hiện sớm nhất sau chấn thương, và càng sớm hơn 
khi bệnh nhân có tiền sử bệnh phổi mạn. Trong 115 
bệnh nhân (70,98%) viêm phổi trước mổ, chiếm 
49,38% có tiền sử bệnh phổi mạn(10). 
Hiệu quả đạt được và tính an toàn của phương 
pháp CSE. 
Hiệu quả và tính an toàn trong mổ. 
Hiệu quả của phương pháp gây tê thần kinh đùi. 
Trong nghiên cứu được tiến hành kỹ thuật 
gây tê thần kinh “3 trong 1” bằng Lidocaine 1% 
với thể tích từ 20ml đến 30ml, với kết quả giảm 
đau tốt đạt được theo thang điểm EVS có 142 
BN ở mức điểm 0 (87,65%). Sau khi gây tê “3 
trong 1” 5 phút, bệnh nhân giảm đau nhiều vùng 
ổ gãy, nhờ đó vận chuyển bệnh nhân lên bàn mổ 
và đặt tư thế nằm nghiêng, bệnh nhân không 
đau và hợp tác tốt, giúp tác giả thực hiện kỹ 
thuật CSE được thuận lợi và an toàn(5). 
Thời gian thực hiện kỹ thuật CSE. 
Theo Coates M và cộng sự, trong nghiên cứu 
cho kết quả: thời gian thực hiên kỹ thuật CSE 
chung cho các bệnh nhân trung bình 4,85 ± 1.02 
phút. Kết quả trong nghiên cứu này, thời gian 
thực hiện kỹ thuật CSE trung bình là 4,75 ± 0,46 
phút, kết quả cũng tương đương với Nguyễn 
Thành Vinh(6). 
Mức độ vô cảm trong mổ. 
Đau không những là một sang chấn tâm lý, 
đau còn gây rối loạn cho nhiều chức năng: tim 
mạch, hô hấp, nội tiết, tiêu hóa, bài tiết thận, 
chuyển hóa, và trong quá trình hình thành hội 
chứng viêm, giải phóng nhiều chất trung gian 
hóa học có độc tính. Trong nghiên cứu này cho 
thấy, mức độ vô cảm trong phẫu thuật hầu như 
tuyệt đối với tỷ lệ 99,43% đạt điểm 0 (theo thang 
điểm EVS), kết quả cao hơn Nguyễn Thành 
Vinh, Coates M(1,6). 
Hiệu quả trên huyết động và hô hấp của bệnh 
nhân trong mổ. 
Qua kết qủa thu được tại bảng 3 và 4, mạch, 
huyết áp, nhịp thở, SpO2 của bệnh nhân diễn 
biến ổn định ở các thời điểm: bệnh nhân vào 
phòng mổ, khi đặt BN ở tư thế nằm nghiêng, 
trong và sau khi thực hiện kỹ thuật CSE và nhất 
là vào các thời điểm thao tác phẫu thuật gây 
đau, lúc rạch da, trong lúc thao tác cắt chỏm 
xương, và lắp đặt khớp giả. Các thông số không 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 290 
khác biệt nhau có ý nghĩa ở các thời điểm đã nêu 
ở trên. Đồng thời tri giác của BN trong mổ đều 
đạt tiêu chuẩn tốt (tỉnh táo hoàn toàn hoặc ngủ 
êm và thức dậy dễ dàng). 
Theo Raymon Wee-Lip Goy và cộng sự(11), 
trong nghiên cứu của mình tác giả đã sử dụng 
phương pháp CSE với Bupivacaine đẳng trọng 
và Fentanyl, kết quả ghi nhận huyết áp ổn định 
đạt tỷ lệ 92,5%, ít xảy ra suy hô hấp trong mổ. 
Hiệu quả và tính an toàn sau mổ. 
Mức độ giảm đau của bệnh nhân 24 giờ sau mổ. 
Theo Palmer CM(9), sử dụng kỹ thuật CSE 
với Bupivacaine kết hợp với Fentannyl liều 4 
mcg/ml, hoặc Sufentanil liều 3mcg/ml cho vô 
cảm trong mổ và giảm đau sau mổ với nhiều 
thuận lợi vượt trội hơn phương pháp giảm đau 
toàn thân khác: sau mổ bệnh nhân có thể đi lại 
sớm ngay cả khi đang còn ống thông đặt trong 
khoang NMC. Kết quả trong nghiên cứu với 
mức độ giảm đau tốt sau mổ đạt 98,%. 
Thời gian phục hồi vận động chi dưới sớm sau mổ. 
Thời gian phục hồi vận động chi dưới 
trong nhóm nghiên cứu chỉ trong vòng 5 phút 
sau mổ là nhiều nhất, chiếm tỷ lệ 96,91%. Thời 
gian phục hồi vận động chi dưới sớm sẽ tránh 
được nhiều biến chứng sau mổ. Theo Tạ Đức 
Luận(13): thời gian liệt vận động sau mổ trung 
bình hơn 60 phút. 
Tác động của phương pháp CSE trên bệnh tim mạch. 
Đối với bệnh nhân cao tuổi, hội chứng 
mạch vành cấp thường xảy ra, biểu hiện dưới 
dạng cơn đau thắt ngực không ổn định và nhồi 
máu cơ tim không có biểu hiện đoạn S-T chênh 
trên ECG. Kết quả trong nghiên cứu: từ thời 
điểm 24 giờ đến trong vòng 1 tuần lễ sau mổ, 
hầu hết các bệnh nhân vốn đã bị bệnh mạch 
vành trước mổ đều ổn định và tiến triển tốt, 
biểu hiện trên lâm sàng, ECG, siêu âm tim và 
các xét nghiệm chuyên biệt, chiếm tỷ lệ 98,48% 
đến 99,24% (bảng 6). Theo Eldor J và một số 
tác giả khác(2) đã chứng minh: ức chế giao cảm 
của gây tê NMC, làm giảm co thắt động mạch 
vành tim thứ phát, dẫn đến hạn chế hoại tử và 
giảm kích thước ổ nhồi máu cơ tim, đoạn S-T 
không thay đổi trên ECG ở bệnh nhân có thiếu 
máu cơ tim hoặc nhồi máu cơ tim trước mổ. 
Kiểm soát đau sau mổ tốt bằng đường NMC 
có thể là cứu cánh cho sự ổn định huyết áp đối 
với nhóm bệnh nhân có bệnh tăng huyết áp. Ở 
thời điểm 24 giờ sau mổ với tác dụng của điều 
trị nội khoa huyết áp trong giới hạn chấp nhận 
được đạt tỷ lệ từ 97,6% đến 99,2% (bảng 7). 
Tác động trên bệnh phổi mạn tính. 
Kỹ thuật CSE bằng Bupivacaine đẳng trọng 
liều thấp phối hợp với Sufenatnil thể hiện được 
tính hơn hẳn so với các phương pháp vô cảm 
khác(8). Kết qủa nghiên cứu: sau mổ từ 24 đến 
48giờ, diễn biến về hô hấp trên lâm sàng cũng 
như trên phim phổi và các xét nghiệm khá dần 
lên từ 91,25% đến 98,75% ở nhóm bệnh nhân có 
bệnh phổi mạn tính (bảng 8). 
Diễn biến tình trạng huyết động, hô hấp và tri giác 
24 giờ sau mổ. 
Theo kết qủa nghiên cứu của Shir M và cộng 
sự(12), tê tủy sống có tỷ lệ tụt huyết áp cao hơn 
nhiều so với sử dụng kỹ thuật CSE, sau mổ tỷ lệ 
tụt huyết áp từ 0,5-5%, theo Palmer CM, truyền 
Sufentanil vào khoang dưới màng nhện 5ml/giờ 
để giảm đau sau mổ đã ghi nhận, hầu hết bệnh 
nhân bị suy hô hấp, Theo O’Keeffe ST và cộng 
sự(8), đánh giá tri giác sau mổ ở người cao tuổi, 
mê sảng sau mổ chiếm tỷ lệ từ 0,5 - 2%. 
Kết quả tại bảng 8 và 9: huyết áp tâm thu, 
huyết áp tâm trương và mạch, nhịp thở, SpO2 
của bệnh nhân trong các thời điểm mỗi 20 
phút trong giờ đầu, và mỗi 30 phút trong 
những giờ kế tiếp theo dõi trong 24 giờ. Gía trị 
nhịp tim và huyết áp ở các thời điểm theo dõi 
không khác biệt nhau có ý nghĩa về mặt thống 
kê, BN tỉnh táo chiếm tỷ lệ 96,29%. Như vậy về 
huyết động, hô hấp, tri giác của BN sau mổ 
diễn biến khá tốt. Nhận định này cũng phù 
hợp với đa số các tác giả. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 291
Thuốc và liều lượng thuốc sử dụng trong kỹ 
thuật CSE. 
Tại sao sử dụng Bupivacaine đẳng trọng trong kỹ 
thuật CSE? 
Để ít phải thay đổi tư thế bệnh nhân sau 
khi thực hiện kỹ thuật CSE, nhằm giảm thiểu 
rối loạn về huyết động và hô hấp sau khi gây 
tê, thuốc tê tiêm vào khoang dưới màng nhện 
phải đảm bảo không hoặc ít lan rộng theo 
khoang tủy về phía trên đầu hoặc về phía dưới 
chân của bệnh nhân, mà chỉ lan tỏa trong giới 
hạn vùng khoang tủy nơi tiêm thuốc mà thôi. 
Bupivacaine đẳng trọng có tỷ trọng tương 
đương với tỷ trọng của dịch não tủy đã đáp 
ứng được yêu cầu nêu trên. 
Tại sao sử dụng liều thấp thuốc tê tiêm vào tuỷ sống 
trong kỹ thuật CSE ? 
Sự gia tăng áp lực trong khoang ngoài màng 
cứng đã làm gia tăng áp lực trong khoang dưới 
màng nhện và tăng mức phong bế của thuốc tê 
tiêm vào khoang dưới màng nhện. Ở người cao 
tuổi, xương bị loãng, các đốt sống bị lún xẹp, các 
dây chằng bị xơ hóa và dính vào nhau, làm cho 
khoang dưới màng nhện bị hẹp hơn so với 
người trẻ tuổi, áp lực trong khoang dưới màng 
nhện gia tăng đáng kể. Mặt khác Sufentanil là 
một trong những thuốc thuộc dòng họ 
Morphine tan trong dầu, có tác dụng và đào thải 
nhanh, cường độ tác dụng mạnh. Kết quả trong 
nghiên cứu: Bupivacaine đẳng trọng được sử 
dụng tiêm vào khoang dưới màng nhện với liều 
lượng từ 2mg đến 5mg, trong đó liều 3mg chiếm 
tỷ lệ cao nhất (74,07%), Sufentanil sử dụng cho 
tất cả các bệnh nhân là 5mcg. 
Các tai biến và biến chứng trong và sau mổ. 
Trong nghiên cứu gặp số BN tụt huyết áp 
dưới 10% so với huyết áp ban đầu của bệnh 
nhân trong mổ chiếm tỷ lệ 0,61%, được xử trí 
đơn giản bằng truyền 200ml dung dịch 
Gelafundin 4%, chỉ trong vòng khoảng 5 phút là 
huyết áp ổn định và duy trì hết 500ml dung dịch 
trên. Sau mổ gặp tỷ lệ các biến chứng trong 
nhóm BN nghiên cứu: tụt huyết áp trong giai 
đoạn hậu phẫu sớm với tỷ lệ 1,23%, suy hô hấp 
sau mổ do bội nhiễm phổi chiếm tỷ lệ 0,61%. 
Những biến chứng muộn do gây tê tủy sống 
đều không xảy ra trong nghiên cứu này. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 162 bệnh nhân mổ thay 
khớp háng ở người cao tuổi bị gãy cổ xương đùi, 
với phương pháp vô cảm bằng kỹ thuật CSE sử 
dụng Bupivacaine đẳng trọng phối hợp 
Sufentanil có các kết luận sau: 
1. Phương pháp CSE đã tạo ra một tình 
trạng vô cảm tốt trong mổ với tỷ lệ 99,38%, và 
kiểm soát đau tốt kéo dài sau mổ với tỷ lệ 
98,76%, đồng thời ổn định về huyết động và tri 
giác trong mổ cũng như sau mổ. 
2. Với phương pháp vô cảm nêu trên: 
- Có tác động tốt trên hệ thống hô hấp và 
tuần hoàn, chính vì thế đã góp phần tạo diễn 
biến tốt trong điều trị các bệnh lý tim mạch, hô 
hấp kèm theo: bệnh mạch vành tiến triển tốt sau 
mổ chiếm tỷ lệ 99,24%, bệnh tăng huyết áp diễn 
biến tốt (chỉ số huyết áp chấp nhận được) sau 
mổ với tỷ lệ 99,38%, và bệnh phổi mạn tính diễn 
biến tốt sau mổ chiếm tỷ lệ 98,75%. 
- Ít xảy ra tai biến, biến chứng do gây tê 
trong và sau mổ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Coates M (1982), “Combined subarachnoid and epidural 
techniques. A single technique for surgery of the hip and lower 
limb”, Anaesthesia, (37), pp 89-90. 
2 Eldor J (1988), “Combined spinal - epidural needle”, Reg 
Anesth, (15), pp 89-90. 
3 Fournier R, Van Gessel E, Weber A et al (2000), “A comparison 
of intrathecal analgesia with fentanyl or sufentanil after total 
hip replacement”, Anesth Analg, (90), pp 918-922. 
4 Khuyến cáo về các bệnh lý tim mạch & chuyển hóa giai đoạn 
2006-2010. (2006). Hội Tim mạch học Việt nam, nhà xuất bản Y 
học chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1-181. 
5 Nguyễn Hữu Tú, Nguyễn Quang Huệ (2008). “Gây tê TK đùi 
3/1 bằng hỗn hợp Bupivacain-Adrenalin với thể tích lớn cải 
thiện tác dụng giảm đau sau mổ vùng đùi và khớp gối”. Hội 
Gây mê Hồi sức Việt Nam, tr. 1-5. 
6 Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Phượng (2005). “Gây tê khoang 
xương cùng phối hợp gây mê cho phẫu thuật chỉnh hình chi 
dưới”. Y học TP.HCM, tập 9 (1), tr. 96-199. 
7 Nguyễn Thanh Vinh, Nguyễn Văn Chừng (2006). “Gây tê tuỷ 
sống và gây tê ngoài màng cứng phối hợp để giảm đau trong 
và sau mổ”. Y học TP.HCM, tập 10 (1), tr. 51-57. Nguyễn Văn 
Chừng, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 292 
8 O’Keeffe ST, Ni Chonchubair A (1994), “Postoperative 
delirium in the elderly”, Br J Aneasth, (73), pp 673-675. 
9 Palmer CM (2001), “Continuous Intrathecal sufentanil for 
Postoperative Analgesia”, Anesth Analg, (92), pp 244-5. 
10 Paranjothi S and Schuller D (2001), “Pulmonary Disease”, The 
Washington Manual Medical Therapeutics, 30th Ed, Lippincott 
Williams and Wilkins, Washington University School of 
Medicine USA, (10), pp 216-240. 
11 Raymon Wee - Lip Goy, Alex Tiong – Heng Sia (2004), 
“Sensori-motor anesthesia and hypotension after 
subarachnoid block: Combined spinal – epidural versus single 
– shot spinal technique”, Anesth Analg, pp 491-492. 
12 Shir M (2004), “Sensorimotor Anesthesia and Hypotension 
after subarachnoid block: Combined Spinal - Epidural versus 
Single -Shot Spinal technique”, Anesth Analg, (98), pp 491-496. 
13 Tạ Đức Luận, Nguyễn Văn Chừng (2008). “Đánh giá hiệu quả 
của gây tê tuỷ sống bằng phối hợp Bupivacain đẳng trọng và 
Fentanyl trong phẫu thuật thay chỏm xương đùi”. Y học 
TP.HCM, tập 12 (1), tr. 14-20. 
14 Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Chừng (2005). “Gây mê Hồi sức 
trong phẫu thuật ở người cao tuổi”. Y học TP.HCM, tập 9 (1), 
tr. 1-15. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_phuong_phap_ket_hop_gay_te_tuy_song_ngoai.pdf