Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi

Mở đầu: Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng

đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi.Để xác định thế nào là ngủ đủ, giấc ngủ phải đạt chất

lượng tức là đủ về số lượng, ít bị thức giấc, ít mộng mị và phải đạt hiệu suất tức là ít buồn ngủ ban ngày đồng

thời hoạt động ban ngày có hiệu quả. Mục tiêu bài này nghiên cứu về đặc điểm giấc ngủ của người cao tuổi.

Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng. Có 306 bệnh nhân tham gia nghiên

cứu phân thành 2 nhóm: nhóm mất ngủ (161) và nhóm chứng (145). Các đối tượng tham gia đều được điều tra

đầy đủ như nhau về các đặc điểm dịch tể học, các bệnh lý nội khoa, tâm thần, các yếu tố môi trường, các thói quen

cá nhân và các đặc điểm của giấc ngủ của họ.

Kết quả: Mất ngủ mãn tính, đa số từ 1 đến 5 năm. Chất lượng giấc ngủ: đa số là khó duy trì giấc ngủ, tiếp

đến là mất ngủ đầu giấc và ít nhất là mất ngủ cuối giấc, trung bình bệnh nhân đi ngủ lúc 22 giờ, phải mất trung

bình 75 phút mới đi vào giấc ngủ, thức giấc 3-4 lần một đêm, sau thức 30 phút mới ngủ lại được, sáng thức dậy

khoảng 4 giờ sáng và trung bình một đêm trung bình ngủ được 4 giờ 30 phút.

Hiệu suất ngủ: tuy mất ngủ nhưng 82,6% trong số họ cảm giác bình thường, chỉ 16,8% cảm giác còn buồn

ngủ sau thức dậy buổi sáng, 26,7% có những lúc ngủ thiếp ban ngày và 17,4% gặp khó khăn trong công việc

hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ.

Kết luận: Ở người cao tuổi đa số mất ngủ mãn tính, mặc dù mất ngủ nhưng đa số họ cảm giác bình

thường, chỉ số ít cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng, có những lúc ngủ thiếp ban ngày và gặp khó

khăn trong công việc hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ.

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 1

Trang 1

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 2

Trang 2

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 3

Trang 3

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 4

Trang 4

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 5

Trang 5

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 6

Trang 6

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 7

Trang 7

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 9320
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Lão Khoa 106
ĐẶC ĐIỂM VỀ TÌNH TRẠNG MẤT NGỦ Ở NGƯỜI CAO TUỔI 
Đỗ Thị Xuân Hương*, Nguyễn Minh Đức**, Nguyễn Văn Trí **, Ngô Tích Linh *** 
TOM TẮT 
Mở đầu: Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng 
đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi.Để xác định thế nào là ngủ đủ, giấc ngủ phải đạt chất 
lượng tức là đủ về số lượng, ít bị thức giấc, ít mộng mị và phải đạt hiệu suất tức là ít buồn ngủ ban ngày đồng 
thời hoạt động ban ngày có hiệu quả. Mục tiêu bài này nghiên cứu về đặc điểm giấc ngủ của người cao tuổi. 
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng. Có 306 bệnh nhân tham gia nghiên 
cứu phân thành 2 nhóm: nhóm mất ngủ (161) và nhóm chứng (145). Các đối tượng tham gia đều được điều tra 
đầy đủ như nhau về các đặc điểm dịch tể học, các bệnh lý nội khoa, tâm thần, các yếu tố môi trường, các thói quen 
cá nhân và các đặc điểm của giấc ngủ của họ. 
Kết quả: Mất ngủ mãn tính, đa số từ 1 đến 5 năm. Chất lượng giấc ngủ: đa số là khó duy trì giấc ngủ, tiếp 
đến là mất ngủ đầu giấc và ít nhất là mất ngủ cuối giấc, trung bình bệnh nhân đi ngủ lúc 22 giờ, phải mất trung 
bình 75 phút mới đi vào giấc ngủ, thức giấc 3-4 lần một đêm, sau thức 30 phút mới ngủ lại được, sáng thức dậy 
khoảng 4 giờ sáng và trung bình một đêm trung bình ngủ được 4 giờ 30 phút. 
Hiệu suất ngủ: tuy mất ngủ nhưng 82,6% trong số họ cảm giác bình thường, chỉ 16,8% cảm giác còn buồn 
ngủ sau thức dậy buổi sáng, 26,7% có những lúc ngủ thiếp ban ngày và 17,4% gặp khó khăn trong công việc 
hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ. 
Kết luận: Ở người cao tuổi đa số mất ngủ mãn tính, mặc dù mất ngủ nhưng đa số họ cảm giác bình 
thường, chỉ số ít cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng, có những lúc ngủ thiếp ban ngày và gặp khó 
khăn trong công việc hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ. 
Từ khóa: mất ngủ, người cao tuổi. 
ABSTRACT 
THE CHARACTERISTICS OF INSOMNIA STATE IN THE ELDERLY 
Do Thi Xuan Huong, Nguyen Minh Duc, Nguyen Van Tri, Ngo Tich Linh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 106 - 113 
Introduction: Today, insomnia has been acknowledged as one of the causes affecting the health and quality 
of life of the elderly. To determine what is enough sleep, quality of sleep means to have sufficient quantity, be less 
awaken, dreaming and be efficient which is less daytime sleepiness and effective daytime activities. The objective of 
this study is to investigate the sleep characteristics of the elderly. 
Research methodology: A cross-sectional study. There are 306 patients in the study divided into two 
groups: insomnia (161) and control group (145). The participants were equally under full investigation of the 
epidemiological characteristics, other medical conditions, mental, environmental factors, personal habits and 
characteristics of their sleep. 
Results: Chronic insomnia is mostly from 1 to 5 years. Quality of the sleep: the majority is difficult to 
* BV Nguyễn Tri Phương,** Bộ Môn Lão Khoa, ĐHYD TP. HCM,*** Bộ Môn Tâm Thần, ĐHYD TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS Đỗ Thị Xuân Hương ĐT: 0903883573 Email: thxuanh@yahoo.com.vn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 107
maintain sleep, the next is insomnia at the beginning of the sleep and insomnia in the end of the sleep is at least, 
the patients averagely go to bed at 22 o'clock, take about 75 minutes before falling asleep, awake 3-4 times a night, 
then take 30 minutes to be back to sleep, wake up in the morning at around 4 am and have the duration of sleep 
per night of 4 hours and 30 minutes on average. - Sleep efficiency: Although insomnia happens, 82.6% of them 
feel normal, only 16.8% also feel sleepy after waking in the morning, 26.7% have times falling asleep during the 
day and 17.4% have difficulty in dealing with the daily affair because of insomnia. Conclusion: In most elderly 
people, chronic insomnia happens at majority, although there is insomnia, most of them feel normal, only small 
number also feel sleepy after waking in the morning, sometimes day-time fall asleep and feel difficult in their daily 
work because of the consequences of insomnia. 
Key words: insomnia, elderly. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Giấc ngủ là trạng thái sinh lý của cơ thể 
nhằm cân bằng trở lại các yếu tố nội sinh và 
ngoại sinh. Giấc ngủ có đặc trưng là nhịp điệu 
ngày/ đêm, đảm bảo cho sự phục hồi các chức 
năng của cơ thể. Hầu hết những người cao tuổi 
khi đến phòng khám bệnh đều phàn nàn với bác 
sỹ họ bị khó ngủ hoặc mất ngủ. Ngày nay, 
chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong 
những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sức 
khỏe cũng như chất lượng sống của người cao 
tuổi. 
Để xác định thế nào là ngủ đủ, giấc ngủ phải 
đạt chất lượng tức là đủ về số lượng, ít bị thức 
giấc và mộng mị và phải đạt hiệu suất tức là ít 
b ... ày tương tự mô hình nghiên cứu 
của Kim K & cs(6) (Nhật) tỉ lệ khó duy trì giấc 
ngủ cao nhất (15%), kế đến là khó đi vào giấc 
ngủ (8,3%) và thấp nhất là khó ngủ cuối giấc 
(8%). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Lão Khoa 110
Nghiên cứu của Gílason T & cs(3), tỉ lệ khó 
duy trì giấc ngủ cao nhất (37% ở nam, 30% ở 
nữ), khó khởi đầu giấc ngủ 9,6% và khó ngủ 
cuối giấc 16,7%. 
Nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12), 
khó khởi đầu giấc ngủ (4%) khó duy trì giấc ngủ 
(11,5%), và mất ngủ cuối giấc 1,8%. 
Nghiên cứu của Li RH ở Trung Quốc(8) 
cũng cho kết quả tương tự là khó khởi đầu 
giấc ngủ 4,5%, khó duy trì giấc ngủ 6,9% và 
mất ngủ cuối giấc 4%. 
Nghiên cứu của Yu –Tao Xiang & cs(16) 
Trung quốc các con số tương ứng là 7%, 8% và 
4,9%. 
Ngược lại, trong nghiên cứu của 
Mohamed M & cs(10) ở người cao tuổi Ai Cập 
thì tỉ lệ khó bắt đầu giấc ngủ chiếm cao nhất 
65%, khó duy trì giấc ngủ 50,8% và mất ngủ 
cuối giấc chỉ chiếm 28,2%. 
Qua các nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy 
rằng ở Việt Nam cũng như ở các nước Châu Á 
đa số bệnh nhân bị khó duy trì giấc ngủ, tiếp 
đến là khó khởi đầu giấc ngủ và ít nhất là mất 
ngủ cuối giấc. 
Nhận xét này cũng giúp các Bác sỹ lâm sàng 
có cơ sở chọn loại thuốc ngủ nào phù hợp với 
loại mất ngủ của bệnh nhân của mình. 
Số loại mất ngủ trên một bệnh nhân 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có đến 
47,8% bệnh nhân mất ngủ bị cùng lúc 3 loại mất 
ngủ (mất ngủ đầu giấc, khó duy trì giấc ngủ, 
mất ngủ cuối giấc), 42,9% bị 2 loại mất ngủ cùng 
lúc và chỉ 9,3% bị 1 loại mất ngủ. 
So sánh với các nghiên cứu khác 
Trong một nghiên cứu về mất ngủ ở dân số 
chung Trung Quốc của Yu- Tao Xiang & cs(16) thì 
cũng cho một tỷ lệ tương ứng theo thứ tự nhưng 
con số thì thấp hơn 4% bị 3 loại mất ngủ cùng 
lúc, 2,9% bị 2 loại và 2,4% bị 1 loại mất ngủ. Tỷ 
lệ thấp này là do mẫu nghiên cứu của chúng tôi 
là người cao tuổi, lấy trong bệnh viện, còn mẫu 
nghiên cứu của Yu- Tao Xiang là dân số chung. 
Ngược lại, trong một nghiên cứu ở Mỹ(16), tỷ 
lệ có phần khác biệt về thứ tự so với nghiên cứu 
của chúng tôi và Yu- Tao Xiang là 7,4% mắc 3 
loại, 9% mắc 2 loại mất ngủ cùng lúc và cao nhất 
12,8% mắc chỉ 1 loại mất ngủ. Tỷ lệ này trái 
ngược với các nước Châu Á có lẽ do ở Mỹ người 
dân quan tâm đến giấc ngủ nhiều hơn không để 
mất ngủ tiến triển từ 1 đến 2 đến 3 loại cùng lúc. 
Qua nghiên cứu này, ta thấy ở người cao 
tuổi khả năng mắc cùng lúc 3 loại và 2 loại mất 
ngủ rất cao, tỷ lệ mắc 1 loại mất ngủ đơn độc ít 
hơn nhiều, từ đó có những biện pháp can thiệp 
và thuốc ngủ phù hợp. 
Đặc điểm về chất lượng và hiệu suất giấc 
ngủ 
Chất lượng giấc ngủ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi: 
Về chất lượng giấc ngủ, trong nhóm mất 
ngủ trung bình đi ngủ lúc 22 giờ, 60% trong số 
họ đi ngủ cùng thời điểm hàng đêm, phải mất 
khoảng 75 phút mới ngủ được, trung bình mỗi 
đêm thức dậy 3-4 lần, sau khi thức giấc khoảng 
30 phút sau mới ngủ lại được, thức dậy buổi 
sáng khá sớm lúc 4 giờ và tính trung bình mỗi 
đêm ngủ được 4 giờ - 4 giờ 30 phút. 
Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống 
kê p < 0,001. 
So sánh với các nghiên cứu khác 
Nghiên cứu của Liu X, Liu L(9) về các thói 
quen khi đi ngủ và mất ngủ ở người cao tuổi 
Trung Quốc đã nhận xét rằng thời điểm đi ngủ 
(lên giường ngủ) của họ là 21: 18 ± 2,2 sớm hơn 
so với nghiên cứu của chúng tôi 22: 03±1,06 và 
thời điểm thức dậy buổi sáng là 5: 42 ± 1 trễ hơn 
so với nghiên cứu của chúng tôi là 4: 19±0,99. 
Hiệu suất giấc ngủ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi 
Về hiệu suất ngủ, trong nhóm mất ngủ đa số 
(82,6%) có cảm giác bình thường sau khi thức 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 111
dậy buổi sáng, chỉ 16,8% còn cảm giác buồn 
ngủ; 26,7% có ngủ thiếp ban ngày, 11,3% bị mất 
tập trung khi làm việc và 17,4% gặp khó khăn 
trong công việc hàng ngày. 
Các rối loạn xảy ra trong giấc ngủ chiếm tỷ 
lệ tương đối nhỏ: mộng du 0%, hoảng sợ 1,9%, 
ác mộng 7,5%, rung giật cơ về đêm 1,2%. 
Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống 
kê p< 0,001 ở các điểm trên, trừ hoảng sợ và 
rung giật cơ về đêm. 
So sánh với nghiên cứu của các tác giả khác 
Nghiên của Gíslason T & cs(3) tỉ lệ ngủ thiếp 
ban ngày là 50% ở nam và 31% ở nữ. Tương tự, 
nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12) tỉ lệ 
này là 50%. Tỉ lệ này thấp hơn trong nghiên cứu 
của Liu X, Liu L(9) ở Trung Quốc là 44,2% ở nam 
và 28% ở nữ (OR=1,5) và cũng nghiên cứu này 
ghi nhận 8,9% những bệnh nhân mất ngủ có 
những hậu quả ban ngày đáng kể. 
Nghiên cứu của Foley DJ & cs(2) 7%-15% 
trong số bệnh nhân mất ngủ hiếm khi hoặc 
không bao giờ có cảm giác khỏe khoắn sau thức 
dậy vào buổi sáng. 
Nghiên của Kim K & cs(7) ghi nhận những 
than phiền về tâm thể và tâm lý có liên quan 
với mất ngủ gây khó khăn cho công việc ban 
ngày: cảm giác yếu đuối (fatigue) (31,4%, 
OR=1,7), cáu gắt (OR=1,4), mất tập trung trong 
công việc (OR=1,8). 
Nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12) có 
đến 50% bệnh nhân mất ngủ có hậu quả ban 
ngày đáng kể và 20% có những hậu quả trung 
bình và nhẹ. 
Nghiên cứu của Zailinawati A & cs(16) ghi 
nhận rằng những bệnh nhân mất ngủ có tần 
suất cao cảm giác chán nản (12,7%), mất tập 
trung (19,1%), trí nhớ kém (9,2%), giảm năng 
suất làm việc (6,4%), kiệt sức (17,2%) và tình 
trạng sức khỏe kém (40,9%) với p<0,05. 
Mất ngủ kéo dài sẽ dẫn đến giảm trí nhớ, 
khó tập trung chú ý, giảm sút khả năng lao 
động và hậu quả tất yếu là giảm tính tích cực 
trong cuộc sống, hiệu quả lao động thấp và làm 
giảm chất lượng sống. Ngoài ra, mất ngủ còn có 
nguy cơ phát sinh một số bệnh hoặc làm nặng 
thêm bệnh đang mắc. 
Thang EPWORTH. 
Mối liên quan giữa mất ngủ và thang 
EPWORTH. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về buồn ngủ 
ban ngày quá độ giữa 2 nhóm mất ngủ (16,9%) 
và nhóm chứng (10,3%) với p=0,098. 
So sánh với các nghiên cứu khác 
Nhưng nếu tính tỉ lệ thì trong một nghiên 
cứu ở Malaysia của ZailinawaitiA, Ariff K, 
Nurjahan M, Teng C(16) tỉ lệ ngủ ngày quá độ 
(theo thang điểm Epworth) là 22,2% cao hơn 
trong nghiên cứu của chúng tôi (16,9%), lý do có 
lẽ do trong nhóm này sử dụng thuốc an thần 
(9,9%) thấp hơn trong nhóm của chúng tôi 
(27,3%), điều này dẫn đến mất ngủ ban đêm và 
ngủ ngày quá nhiều. 
Ngược lại, trong nghiên cứu của Sardar Ijlal 
Balar & cs(15) thì tỉ lệ ngủ ngày quá độ là 8,9% 
thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi và 
hiện tượng này được ghi nhận có liên quan đến 
rối loạn hô hấp về đêm, trầm cảm, bệnh 
Parkinson và sử dụng Digital. 
Một nghiên cứu về ngủ ngày quá độ trong 
dân số chung của Kaneita Y & cs(5) (Nhật) đã 
đưa ra một kết quả là tỉ lệ này chiếm 2,5% (nam 
2,8%, nữ 2,2%) và có sự liên quan với những yếu 
tố nguy cơ như: giới nam, tuổi trẻ, thời gian ngủ 
ngắn, cảm giác bứt rứt 2 chân, căng thẳng tâm lý 
và đặc biệt là ngáy hoặc ngưng thở khi ngủ là 
yếu tố liên quan mạnh nhất (OR=2,46). 
Mối liên quan giữa BMI với mất ngủ và thang 
EPWORTH. 
Có mối liên quan giữa BMI với mất ngủ 
(p=0,018) và ngủ ngày quá độ (p=0,019). 
Theo nghiên cứu của Resta O & cs(1) (Italy), 
29% các bệnh nhân béo phì cho thấy có giảm 
thông khí về đêm và có thể kết hợp với ngủ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Lão Khoa 112
ngày quá nhiều, ngay cả trong trường hợp 
không có ngưng thở khi ngủ. 
Những rối loạn xẩy ra trong lúc ngủ 
Sự khác biệt tỷ lệ các triệu chứng ngộp thở, 
nhức đầu buổi sáng, tiểu đêm >2 lần, xoay trở 
nhiều, tê rần hai chân, cảm giác nóng rát thượng 
vị và cảm giác đau của cơ thể giữa hai nhóm 
nghiên cứu có ý nghĩa thống kê p<0,001. 
So sánh với các nghiên cứu khác 
Nghiên cứu của Su TP & cs có sự tương 
quan mạnh giửa mất ngủ với tiểu đêm (>2 lần) 
(OR=20,6), cũng như với cảm giác đau của cơ thể 
(OR=2,6). 
Khám và điều trị mất ngủ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi các lí do 
nhập viện rất đa dạng trong nhóm mất ngủ 
nhưng lí do đến khám vì mất ngủ chỉ chiếm 
19,9% và chỉ có 5% trước đó đã có khám chuyên 
khoa về RLGN. 
So sánh với các nghiên cứu khác 
Kết quả này tương đối cao hơn so với một 
nghiên cứu về chứng mất ngủ ở Trung Quốc 
của Yu-tao Xiang, MD, PhD(16) chỉ có 5,4% 
những bệnh nhân bị mất ngủ báo cáo triệu 
chứng này với Bác sỹ thực hành và cũng chỉ có 
2,1% đến khám với các chuyên gia về sức khỏe 
tâm thần. Tỉ lệ này cũng rất thấp trong nghiên 
cứu của Ohayon MM(12) là 6,8%. 
Trong một nghiên cứu ở Mỹ của PersonNJ, 
Johnson LL, Nahin RL(13) thì tỉ lệ báo cáo về 
chứng mất ngủ với Bác sỹ là 17,4%, tương 
đương với nghiên cứu của chúng tôi. 
Theo một nghiên cứu được công bố ở tạp chí 
Lão khoa của Mỹ thực hiện trên 1.503 người 
bệnh từ 60 tuổi trở lên thì có đến 69% bệnh nhân 
có ít nhất một lần, 49% có hai hoặc nhiều hơn số 
lần phàn nàn về giấc ngủ và 45% số bệnh nhân 
nói rằng họ thường xuyên khó ngủ. Và mặc dù 
những bệnh nhân cao tuổi có phiền toái về giấc 
ngủ chiếm tỷ lệ cao nhưng chỉ có 19% số lần 
phàn nàn của họ được các Bác Sỹ ghi chép trên 
biểu đồ theo dõi bệnh. Theo tác giả Karthyn 
Reid, phó giáo sư Thần kinh trường đại học y ở 
miền bắc Feinberg nói:“Các Bác sỹ có thể cho 
rằng việc hỏi bệnh nhân về giấc ngủ là điều 
không cần thiết, theo họ những trục trặc đó là 
vấn đề bình thường của tuổi tác và gần như 
không thể làm gì nhiều để cải thiện”. Nhưng 
thực tế thì những vấn đề về giấc ngủ như giấc 
ngủ không sâu- khuynh hướng xảy ra do tuổi 
tác hay giấc ngủ không ngon không phải là điều 
không thể tránh được của tuổi tác. Kết quả 
nghiên cứu gần đây cho thấy trong số những 
người già có sức khỏe tốt, chỉ có 1% có khó khăn 
về giấc ngủ. 
Theo chúng tôi, tỷ lệ BN mất ngủ quan tâm 
và điều trị những vấn đề về rối loạn giấc ngủ ở 
nước ta cũng như ở các nước Châu Á thấp có 
thể do các lý do sau: 
Thứ nhất: bệnh nhân thường có quan niệm 
mất ngủ là một hiện tượng bình thường xảy ra 
tất yếu ở người cao tuổi nên họ không quan 
tâm khám và điều trị như là những vấn đề 
bệnh lý khác. 
Thứ hai: các phòng khám chuyên khoa về 
giấc ngủ còn quá ít, bản thân bệnh nhân và 
người thân có muốn khám, tư vấn và điều trị 
cũng không biết nơi nào. 
Thứ ba: các BS lâm sàng ít quan tâm hỏi về 
giấc ngủ của bệnh nhân, có khi lại thoải mái cho 
bệnh nhân một viên thuốc ngủ buổi tối để ngủ 
ngon hơn mặc dù họ không bị mất ngủ. 
Sự quan tâm của bệnh nhân đến việc điều trị 
mất ngủ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì ở 
nhóm BN mất ngủ chỉ có 27,3% là có điều trị 
và 15% có sử dụng thuốc ngủ liên tục. 
KẾT LUẬN 
Ở người cao tuổi: Mất ngủ mãn tính, đa số 
từ 1 đến 5 năm. 
Chất lượng giấc ngủ: đa số là khó duy trì 
giấc ngủ, tiếp đến là mất ngủ đầu giấc và ít nhất 
là mất ngủ cuối giấc, trung bình bệnh nhân đi 
ngủ lúc 22 giờ, phải mất trung bình 75 phút mới 
đi vào giấc ngủ, thức giấc 3-4 lần một đêm, sau 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 113
thức 30 phút mới ngủ lại được, sáng thức dậy 
khoảng 4 giờ sáng và trung bình một đêm trung 
bình ngủ được 4 giờ 30 phút. 
Hiệu suất ngủ: tuy mất ngủ nhưng 82,6% 
trong số họ cảm giác bình thường, chỉ 16,8% 
cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng, 
26,7% có những lúc ngủ thiếp ban ngày và 
17,4% gặp khó khăn trong công việc hàng ngày 
vì hậu quả của mất ngủ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Babar IS, Enright PL, et al (2000), “Sleep Disturbances and their 
correlates in elderly Japanese American Men residing in 
Hawaii”, The Journal of Gerontology series A: Biological 
sciences and medical sciences 55:, The Gerontological Society of 
America. M406-M411 
2. Foley DJ, Monjan AA, Brown SL, Simonsick EM, Wallace RB, 
Blazer DG. (1995), Sleep complaints among elderly persons: an 
epidemiologic study of three communities.1995 Jul;18(6):425-32. 
3. Gíslason T, Reynisdóttir H, Kristbjarnarson H, Benediktsdóttir 
B.(1993), Sleep habits and sleep disturbances among the elderly-
an epidemiological survey. J Intern Med, 1993 Jul;234(1):31-9. 
4. Hohagen F, Kappler C, et al (1994), “Prevalence of insomnia in 
elderly general practice attenders and the current treatment 
modalities”, Abstract, Acception for publication, Digital Object 
Identifier (DOI). pp.102-8 
5. Kaneita Y, Ohida T, et al (2005), “Excessive daytime sleepiness 
among the Japanese general population”, Department of Public 
Heath, School of Medicine, Nihon University, Tokyo, Japan, 
kaneita@med.nihon-u.ac.jp, J Epidemiol, 15(1): 1-8. 
6. Kim K, Uchiyama M, et al (2000), “An epidemiological study of 
insomnia among the Japanese general population”, Department 
of psychophysiology, National institute of mental health NCNP, 
Ichikawa-City, Chiba, Japan, Sleep, 23(1): 41-7. 
7. Kim K, Uchiyama M, Liu X, et al (2001), “Somatic and 
psychological complaints and their correlates with insomnia in 
the Japanese general population”, Psychosom Med., 63(3): 441-6. 
8. Li RH, Wing YK, et al (2002), “Gender differences I n insomnia-a 
study in the Hong Kong Chinese population”, Department of 
Psychiatry, Prince of Wales Hospital. The Chinese University of 
Hong Kong, Shatin, Hong Kong, China, J Psychosom Res, 53(1): 
601-9. 
9. Mohamed M, et al (2007), “Insomnia symptoms and their 
correlates among the elderly in geriatric homes in Alexandria, 
Egypt”, Journal Sleep and Breathing, Springer 
Berlin/Heidelberg, Volum 11, No. 3, 187-194. 
10. Morin CM, Bélanger L, LeBlanc M, et al (2009), “The natural 
history of insomnia: a population-based 3-year longitudinal 
study”, Arch Intern Med; 169(5): 447-53. 
11. Ohayon MM, Hong SC (2002), “Prevalence of insommia and 
associated factors in South Korea”, J Psychosom Res, 53(1):593-
600. 
12. Pearson NJ, Johnson LL, Nahin RL (2006), “Insomnia, trouble 
sleeping, and complementary and alternative medicine: Analysis 
of the 2002 national health interview survey data”, Arch Intern 
Med, 166(16): 1775-82. 
13. Resta O, Foschino-Barbaro MP, Legari G, Talamo S, Bonfitto P, 
Palumbo A, Minenna A, Giorgino R, De Pergola G (2001), 
“Sleep-related breathing disorders, loud snoring and excessive 
daytime sleepiness in obese subjects”, Int J Obes Relat Metab 
Disord, 25(5):669-75. 
14. The HealthDay. Bác sỹ ít khi chú ý đến giấc ngủ ở người già. 
Cổng thông tin điện tử BV Bạch Mai-Hà nội. 
15. Xiang YT, MD, PhD, Xin Ma MD, et al (2008), “The prevalence 
of insomnia, its sociodemographic and clinical correlates, and 
treatment in rural and urban regions of Beijing, China: A general 
population-based survey”, Sleep, Vol. 31, No. 12: 1655-1662. 
16. Zailinawati A, Ariff K, et al (2008), “Epidemiology of insomnia 
in Malaysian adults: a community-based survey in 4 urban 
areas”, International Medical University, Jalan, Kuala Lumpur, 
Malaysia. zailina@nasioncom.net, Asia Pac J Public Health, 20(3): 
224-33. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_ve_tinh_trang_mat_ngu_o_nguoi_cao_tuoi.pdf