Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi

Di sản múa dân gian là tài sản vô giá của người

Tà Ôi, là sợi dây gắn kết cộng đồng là cốt lõi của bản

sắc văn hóa dân tộc. Chính trong lao động sáng tạo

cùng với lối ứng xử đẹp của con người với con người,

của con người với môi trường tự nhiên đã tạo nên

loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo, chứa đựng

những nét đặc trưng riêng có của người Tà Ôi.

Người Tà Ôi cho rằng múa là một bộ phận thiết

yếu trong đời sống văn hóa tinh thần của họ, nó

không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn

liền với tín ngưỡng, đời sống tâm linh, là phương tiện

để tiếp xúc với thế giới siêu nhiên.

Trong nhạc lễ múa, khi vị chủ lễ làm phép xin thần

linh, ma quỷ về dự lễ, chứng giám cho lòng thành của

dân làng thì hòa chung với tiếng trống, tiếng cồng

chiêng là sự cổ vũ của dân làng, những chàng trai,

cô gái nhảy múa xung quanh sân nhà Rông tạo nên

không khí đầy nhiệt huyết, đầy sức sống. Tất cả hòa

vào nhau tạo thành một bản nhạc rộn ràng, đầy lạc

quan, báo hiệu những điều tốt đẹp bắt đầu. Thông

qua múa truyền thống mà tinh thần dân tộc được

nâng cao, ý thức đoàn kết như được tiếp nối tạo nên

sức mạnh toàn diện của dân tộc Tà Ôi. Chính vì những

lẽ đó mà nghệ thuật múa của người Tà Ôi có những

đặc điểm sâu sắc và riêng biệt so với các dân tộc thiểu

số khác ở nước ta.

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi trang 1

Trang 1

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi trang 2

Trang 2

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi trang 3

Trang 3

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi trang 4

Trang 4

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi trang 5

Trang 5

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 7900
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi

Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi
Miền Trung - Tây Nguyên
 ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT MÚA CỦA NGƯỜI TÀ ÔI
 ? TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG*
 1. Đặt vấn đề
 Di sản múa dân gian là tài sản vô giá của người 
Tà Ôi, là sợi dây gắn kết cộng đồng là cốt lõi của bản 
sắc văn hóa dân tộc. Chính trong lao động sáng tạo 
cùng với lối ứng xử đẹp của con người với con người, 
của con người với môi trường tự nhiên đã tạo nên 
loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo, chứa đựng 
những nét đặc trưng riêng có của người Tà Ôi.
 Người Tà Ôi cho rằng múa là một bộ phận thiết 
yếu trong đời sống văn hóa tinh thần của họ, nó 
không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn 
 điệu múa.1 Những điệu múa đều mang tính phổ biến. 
liền với tín ngưỡng, đời sống tâm linh, là phương tiện 
 Chúng tôi đã sưu tầm và ghi chép được thêm 7 điệu 
để tiếp xúc với thế giới siêu nhiên.
 múa cổ mà chỉ có những người già Tà Ôi còn nhớ.
 Trong nhạc lễ múa, khi vị chủ lễ làm phép xin thần 
 - Điệu Azưng Radoóc: Xuất hiện trong các đám 
linh, ma quỷ về dự lễ, chứng giám cho lòng thành của 
 tiệc như đâm trâu, đám cưới... phụ họa phần diễn 
dân làng thì hòa chung với tiếng trống, tiếng cồng 
 tả cho các điệu hò, điệu hát. Trong lễ đâm trâu, khi 
chiêng là sự cổ vũ của dân làng, những chàng trai, 
 con trâu được cột vào cây nêu, trai gái, già trẻ đi xung 
cô gái nhảy múa xung quanh sân nhà Rông tạo nên 
 quanh con trâu vừa múa, vừa hát, vừa đánh trống, 
không khí đầy nhiệt huyết, đầy sức sống. Tất cả hòa 
 thanh la, cồng chiêng. Khi biểu diễn con gái đi trước 
vào nhau tạo thành một bản nhạc rộn ràng, đầy lạc 
 hát và múa, con trai đi sau vừa đệm nhạc, vừa hát. Ở 
quan, báo hiệu những điều tốt đẹp bắt đầu. Thông 
 sân khấu hiện đại thì điệu múa này lại mang ý nghĩa 
qua múa truyền thống mà tinh thần dân tộc được 
 khác đó là phản ánh sự đúng sai trong mối quan hệ 
nâng cao, ý thức đoàn kết như được tiếp nối tạo nên 
 của hai làng kết nghĩa.
sức mạnh toàn diện của dân tộc Tà Ôi. Chính vì những 
lẽ đó mà nghệ thuật múa của người Tà Ôi có những - Điệu Azưng zêl: Trong đám cưới, mọi người tập 
đặc điểm sâu sắc và riêng biệt so với các dân tộc thiểu trung thành vòng tròn hát múa những bài vui tươi 
số khác ở nước ta. cầu chúc cho đôi vợ chồng mới cưới được hạnh phúc 
 dài lâu. Điệu này vừa nhún nhảy vừa vỗ tay theo nhịp 
 2. Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi
 người hát.
 2.1. Các điệu múa truyền thống
 - Điệu Xía Cu múi: Dùng trong đám ma, người ta đi 
 Trước đây, trong công trình nghiên cứu, chúng chung quanh nhà để quan tài, vừa đi, vừa đánh trống, 
tôi đã thống kê ra được 21 điệu múa với 3 nội dung: thanh la vừa hát điệu dân ca Ra rọi và múa. Điệu múa 
múa trong lao động có 13 điệu múa, múa trong sinh này thường không sôi nổi, người múa đi chậm chạp, 
hoạt có 4 điệu múa và múa trong tín ngưỡng có 4 nhích từng bước nhẹ nhàng tay buông xuôi, hai bàn 
* Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế.
30 Phaùt trieån 
 Kinh teáÑaø -Naüng Xaõ hoäi
 Miền Trung - Tây Nguyên
tay xòe ra hai bên. Cùng lúc đó bà mẹ của Căn Đôi Ra Dư xuất hiện 
 và ném chiếc vòng trên tay của con gái đi. Anh chàng 
 - Điệu Azưng Curu: Điệu múa đồng bóng xuất 
 nghèo đôi mắt ngạc nhiên và lo lắng. Đúng lúc đó 
hiện trong lúc cầu bóng hộ về nhập. Khi bóng hộ về 
 anh chàng nhà giàu tên là A Rơn vừa tới vừa múa 
nhập vào người nào đó, người đó đứng dậy vung tay, 
 khoe khoang, trao vòng bạc cho bà mẹ cô gái, mặt bà 
vung chân quay qua, quay về, quay lui, quay lại người 
 mẹ phấn khởi đưa vòng bạc cho con gái, cô gái không 
bóng đứng ở giữa múa, xung quanh có vài người hầu 
 nhận, bất chợt cô gái chạy tới ôm anh chàng nghèo, 
bóng vừa đi theo nhịp trống và tiếng thanh la, khèn 
 bà mẹ lôi cô gái ra.
bè hòa vào. Điệu này người múa không có hát hò mà 
chỉ có người đứng phía sau tường hoặc vách nhà hát, Nhạc cồng chiêng nổi lên với điệu nhạc Rarưp, hai 
họ hát theo điệu Câmprưng (âm ngang). chàng trai giao chiến bằng kiếm và khiêng, bà mẹ can 
 - Múa hội mùa: Được biên đạo múa theo 5 giai đoạn: không được.
 + Giai đoạn 1: Người múa tay cầm rựa, lưng đeo Cồng chiêng chuyển nhịp Rarưp sang điệu Palư, 
gùi, nam đi trước, nữ đi sau họ múa theo động tác ông Vỗ Kuun đi tới vừa đi vừa hát điệu Tăngi, mọi 
phát rẫy. người đều đứng im, bà mẹ chắp tay lên ngực, cô gái 
 cúi mặt ngồi xuống, đúng một ngân Tăngi vừa xong, 
 + Giai đoạn 2: Cảnh đốt rẫy, nam tay cầm rìu, rựa, Vỗ Kuun liền hát điệu Cà lơi và cầm tay cô gái kéo lên 
bên hông đeo gùi nhỏ để bỏ các dụng cụ lao động, và đưa tới cho anh chàng nhà nghèo, ông Vỗ Kuun 
còn nữ múa động tác xúc cá dưới suối để lên nấu ăn đứng giữa mẹ cô gái và anh chàng giàu có bắt đầu 
cho chồng. múa Palư điệu Curu 2 vòng, tất cả các loại nhạc nổi 
 + Giai đoạn 3: Thao tác trỉa lúa, động tác này cả lên, mọi người xếp hình chữ U, cô gái đứng ngoài 
nam và nữ đều múa, con trai cầm gậy chọc lỗ, nữ cầm nghiêng đầu vào trong ôm lấy anh chàng nhà nghèo, 
lúa trỉa thành hàng đi sau. Vỗ Kuun cầm tay mụ già và anh chàng nhà giàu g ... ô gái. Cô gái cầm cướp bóc hoặc chặn đoàn người đi trao đổi hàng hóa, 
chiếc vòng được trao rồi mừng rỡ múa. ông Vỗ Kuun biết chuyện liền đi đến đánh nhau với 
 Phaùt trieån 31
 Kinh Ñaøteá Naüng- Xaõ hoäi
Miền Trung - Tây Nguyên
chúng làm cho bọn chúng trở thành người lương thiện.
 Một lần nọ, giữa hai làng A Ka và Ka Lưi có chuyện 
xích mích lớn lắm không làng nào chịu thua, việc diễn 
ra chỉ vì các trai làng của làng A Ka đi chơi về ngang qua 
rẫy của làng Ka Lưi thấy mía lên cao, dài đốt ngon lắm, 
họ liền bẻ vài cây để ăn, trong lúc đang ăn thì bị người 
của làng Ka Lưi bắt được, họ bỏ chạy cũng không được, 
nói láo cũng không xong nên trai làng A Ka bị phạt vạ 
nặng lắm.
 Già làng Ka Lưi tính ra sự mất mát nhiều mía thì phải 
 nhịp 2/4, tiết tấu bình thường, chân qua phải hoặc 
đền gấp nhiều lần, cả trăm rẫy bắp cũng không đủ, phải 
 qua trái, di chuyển ngang.
đền thêm cả trâu, bò nữa để họ cúng Yàng kẻo không sợ 
Yàng bắt vạ. Sự việc đó đã làm cho trai làng A Ka khiếp + Động tác tay phần hạ đóng mở: Một bàn tay úp, 
sợ, họ về báo với già làng của mình thì chẳng giải quyết một bàn tay mở, chuyển luân phiên theo nhịp 2/4, tiết 
được việc gì mà lại thêm bị la mắng. Cả đoàn trai làng A tấu bình thường chân qua phải hoặc qua trái. Khuỷu 
Ka liền tìm đến ông Vỗ Kuun để nhờ vả. tay tròn, di chuyển ngang.
 Khi gặp được ông Vỗ Kuun rồi cả bọn mừng lắm, + Động tác tay phần hạ trước và sau: Chuyển ra 
chúng kể lại sự việc và cầu xin ông Vỗ Kuun cứu giúp. Vỗ trước, vuốt về sau. Chân tiến lên 2 bước, lui 2 bước. 
Kuun không nói gì cả, im lặng đi về hướng làng Ka Lưi, Cuộn cổ tay ra sau rồi đưa ra trước.
Vỗ Kuun cầm chiếc khèn bè lên thổi, ông thổi lúc đầu thì 
 + Động tác tay phần thượng: Hai tay trên cao, lòng 
chẳng ai để ý, họ vẫn cãi cọ nhau rồi đòi đền, đòi phạt rồi 
 bàn tay hướng lên trời, các ngón tay kẹp chặt, khuỷu 
dần dần tiếng khèn inh ỏi len lỏi vào tai từng người. Họ 
 tay hướng ra phía trước, tròn khuỷu tay. Di chuyển 
như có bùa mê làm mê hoặc, cả làng Ka Lưi dừng việc, 
 theo tiết tấu 2/4 vừa, mắt nhìn thẳng, qua phải hoặc 
dừng tay để nghe tiếng khèn. Điệu khèn bè của ông Vỗ 
 qua trái, tiết tấu 2/4.
Kuun rất thông thạo lòng người, biết ai buồn, biết ai vui 
mà thổi vào lòng mọi người và được nhiều người yêu + Động tác tay thượng: Dựng thẳng bàn tay lên 
thích điệu khèn này, họ như lương thiện hẳn lên quên đi cao, hướng ra phía trước, rung bàn tay kéo xuống 
việc bắt người làng A Ka nộp phạt. Nhờ có tiếng khèn đó theo nhịp chân - ngang ngực. Động tác lặp lại theo 
mà hầu khắp các bản làng Tà Ôi đều biết đến Vỗ Kuun. chu kỳ tròn. Di chuyển ngang hoặc tiến lên phía 
 trước. Nhịp tiết tấu 2/4.
 Ngày nay, cứ mỗi lần có lễ hội, tiếng khèn lại cất lên 
để tưởng nhớ Vỗ Kuun người đã bày cho dân làng biết + Động tác tay hạ: Hai bàn tay ở chiều chúc xuống 
làm khèn và các điệu khèn để thổi và họ hay nói: đất, cuộn bàn tay nghiêng qua phải, chân trái bước, 
 nghiêng qua trái thì chân phải bước. Di chuyển hướng 
 Vỗ Kuun đi đâu người dân theo đó.
 thẳng, tiết tấu 2/4.
 Vỗ Kuun khéo nói, giỏi làm”.2
 + Động tác tay trung 1: Hai tay chắp bên hông, 
 Bên cạnh đó trong kho tàng văn hóa dân gian Tà cánh tay khuỷu sang hai bên. Di chuyển ngang, tiết 
Ôi nhóm người Pacô đang lưu giữ trong mình các tấu 2/4.
điệu múa: Pâr chiềng kòong, Pa dưưn kuru, Pa dưưn 
 + Động tác tay trung 2: Một tay chống cằm, một 
Tâng kin, Choan đung, Xịa tì rỉa. Các điệu múa này có 
 tay đỡ cùi chỏ - thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển 
phần giống với các điệu múa trong lễ đâm trâu, lễ cầu 
 ngang, qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.
mùa của người Tà Ôi mà thôi.
 + Động tác tay trung 3: Hai tay chắp vào bên má 
 2.2. Các động tác khi múa của người Tà Ôi
 phải hoặc má trái - thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển 
 Khi khảo sát các điệu múa cơ bản của người Tà Ôi, ngang qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.
chúng tôi thống kê có cả thảy 22 động tác khác nhau gồm:
 + Động tác tay trung 4: Hai tay bắt chéo nhau 
 + Động tác tay nữ phần hạ cùng chiều: Hai bàn tay chắp trước ngực, tâm trạng buồn, di chuyển theo tiết 
cùng úp phần hạ khuỷu tay tròn. Đóng và mở theo tấu 2/4.
32 Phaùt trieån 
 Kinh teáÑaø -Naüng Xaõ hoäi
 Miền Trung - Tây Nguyên
 + Động tác tay thượng: Hai tay ôm đầu - thể hiện + Động tác đánh trống của nam: Người đổ về phía 
sự buồn khổ. Di chuyển ngang qua phải hoặc qua trái, trước, chân khuỵu, di chuyển thấp trung bình, vừa đi 
tiết tấu 2/4. vừa đánh trống theo dàn cồng chiêng. Nhạc khèn, tù 
 và, hò hú diễn tấu từ 1 người đến 2 người.
 + Động tác tay hạ: Hai tay chắp sau lưng. Hai bàn 
tay hướng lên trên, mu bàn tay này đặt lên lòng bàn + Động tác đánh cồng nam: Người đổ về phía 
tay kia hướng lên trên. Dáng người chúc về phía trước, trước, vai đeo cồng đánh bằng tay (nắm đấm, cũng 
mặt nhìn ngang phải hoặc trái, tiết tấu 2/4. có lúc bằng dùi) vừa đánh vừa di chuyển thấp cùng 
 dàn nhạc.
 + Động tác tay có cầm đạo cụ đối với nữ: 
 + Động tác đánh chiêng nam: Người đổ về phía 
 * Cầm quạt.
 trước, vai trái đeo chiêng, đánh bằng dùi, vừa đánh 
 * Cầm lá. vừa di chuyển thấp, tay phải đánh, tay trái điều chỉnh 
 * Cầm lá đựng thức ăn. âm thanh trên mặt chiêng, âm thanh lúc vang, lúc 
 dừng theo trống với tiếng bùng, bục bục bục, bùng, 
 * Cầm Xaar (xập xõa). bục bục bục, bục bục bục, bùng.
 + Động tác chân đi kiễng gót: Di chuyển ngang + Động tác múa giáo nam khi đâm trâu: Trước khi 
tiết tấu 2/4 phải hoặc trái, di chuyển tiến tiết tấu 2/4. đâm trâu, người cầm giáo múa theo dàn nhạc cồng 
 + Động tác pool thấp đối với nam: Động tác di chiêng, tù và, trống, khèn, xập xõa, tingat. Nhún nhảy 
chuyển thẳng hoặc trước mặt. Chân phải thì tay phải, theo tiết tấu nhanh nhẹn, dồn dập. Giáo vác trên vai, 
động tác sát đất. Vòng chấp càng hẹp khi sát đất thì lưỡi giáo hướng lên trời di chuyển theo hình vòng 
chuyển động tác. Nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã (cách tròn. Khi bắt đầu đâm trâu, người đâm cầm giáo, mũi 
mặt đất 30 cm). giáo hướng thẳng vào trâu, vòng tròn quanh con 
 trâu, lựa chọn hướng thích hợp để đâm trâu và đâm 
 + Động tác pool nam cao: Động tác di chuyển 
 trúng chỗ hiểm.
thẳng hướng trước mặt, chân trái thì tay phải và ngược 
lại. Động tác ở phần trung (cách mặt đất khoảng 50 2.3. Âm nhạc trong nghệ thuật múa của người 
cm). Động tác nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã. Tà Ôi
 + Động tác ẻo nam: Di chuyển hướng thẳng trước Từ thời tiền sử âm nhạc và múa có mối quan hệ 
mặt. Động tác vui tươi, tinh nghịch, mềm mại uyển hữu cơ, không thể chia cắt, chúng hỗ trợ nhau cùng 
chuyển, tiết tấu 2/4. phát triển. Bản thân nội tại của mọi hoạt động múa 
 đã hàm chứa yếu tố tiết tấu nhịp điệu của âm nhạc 
 + Động tác chân của nam: Di chuyển ngang tiết 
 (múa theo nhịp, phách, tiết tấu) đến khi phát triển, 
tấu 2/4 nhanh nhẹn, dứt khoát. Di chuyển về phía 
 định hình hóa nghệ thuật múa thì vai trò của âm nhạc 
trước động tác đi dứt khoát tiết tấu 2/4. Di chuyển 
 trở nên thiết yếu. Nếu múa mà không có âm nhạc thì 
phần thấp hơi cúi gập đầu gối, di chuyển phần trung 
 vô hồn, vô cảm. Điều này càng thấy rõ vai trò của âm 
hơi khom mình, di chuyển phần cao chân hơi đá về 
 nhạc trong múa dân gian. Trong tất cả các nội dung 
phía trước.
 múa của người Tà Ôi đều có âm nhạc, ngoài các loại 
 nhạc cụ như đã trình bày ở trên thì trong quá trình 
 diễn tấu nhạc người diễn tấu cũng hòa đồng vào 
 không gian múa và động tác múa uyển chuyển, nhịp 
 nhàng, sinh động.
 Đối với người Tà Ôi, âm nhạc dân gian là nhịp cầu 
 nối những cá thể lại với cộng đồng, nối cộng đồng 
 này với cộng đồng khác, nối con người với tất cả thần 
 linh trong trời đất. 
 Trong các tiến trình của lễ xin đất chôn nọc buộc 
 trâu, lễ khấn cầu mùa (Tà nêm azakonh) và đặc biệt 
 là lễ đâm trâu... vào đầu năm 1999, âm nhạc thường 
 Phaùt trieån 33
 Kinh Ñaøteá Naüng- Xaõ hoäi
Miền Trung - Tây Nguyên
được tấu lên theo thứ tự gồm các khúc sau: đội hình di chuyển ngược kim đồng hồ với các điệu 
 múa cố định như za zả, pa dứt tiría, răm.
  - Roong hêl tâm moi (mừng khách): tiết tấu nhanh, 
vui tươi rộn ràng. Các thành viên sử dụng nhạc cụ đều Biên chế đội nhạc gồm: 1 khèn, 2 trống, 2 cồng, 1 
nằm trong đội hình múa đi vòng tròn theo nhịp trống. tù và, chuông, lục lạc để cho ai chơi thì tùy thích. 
 - Palư tâm moi (vui cùng khách): tiết tấu khoan Nhìn chung, âm nhạc của người Tà Ôi, nhạc hát 
thai hơn, như lời mời trân trọng cùng khách vui chơi, cũng như nhạc đàn mang đậm dấu ấn thiên nhiên và 
ăn uống. cuộc sống bộ tộc: hoang sơ, đơn giản, mộc mạc, trữ 
 tình và trầm hùng. Tiết tấu không nhanh lắm nhưng 
 - Tặc ân toch tôr (thi đấu): dành cho người già đấu 
 rộn ràng, ưa sử dụng loại nhịp chẵn có trọng âm rõ 
lý với nhau bằng lời lẽ, người trẻ đấu với nhau bằng 
 ràng, ít biến hóa, chỉ thỉnh thoảng có đảo phách. 
tài năng, sức mạnh và sự khéo léo. 
 Có thể ngày xưa, trong không gian nguyên sơ với 
 - Đăng tâm moi vel cho ăt se (tiễn khách): vui vẻ, 
 nhà sàn và bếp lửa hay bên bờ suối róc rách, trong 
mãn nguyện, lưu luyến, hẹn hò.
 sự âm u hùng vĩ của núi rừng Trường Sơn, lời hát của 
 Cả 4 khúc nhạc trên được gộp lại đánh trong khi họ cất lên nghe rất huyền bí, đầy ma lực nhưng lại rất 
tế lễ, khi vào hội và luôn được kết hợp với nhảy múa thân thiết gần gũi. Họ hát mà như nói với nhau, như 
như một thể thống nhất. Mỗi cuộc lễ đều được tấu đi nắm tay nhau kéo lại, như kể cho nhau chuyện ban 
tấu lại nhiều lần. Giai điệu mộc mạc, đơn sơ nhưng sáng, ban trưa, như nói về nhau chuyện ngày mai, nói 
tiết tấu chắc, ít biến hóa, tạo nên sự khỏe mạnh hùng về niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, khổ đau của cuộc 
tráng, mặc dù tính chất hòa tấu mang nhiều nét sống... từ đó âm nhạc của họ sinh thành nên cho đến 
ngẫu hứng của từng cá nhân, giai điệu thô sơ, dễ nhớ ngày hôm nay.3
được phụ họa khèn, tù và một cách tùy hứng, nghịch 
 Ngoài các loại nhạc cụ truyền thống được sử dụng 
ngợm cũng như tiếng hú hét của nhạc công và đội 
 trong khi múa thì người Tà Ôi còn sử dụng các đạo 
múa. Đặc biệt trong lúc đâm trâu, khi ngọn lao của 
 cụ khác như quạt, kiếm, khiên, cung tên, cây mía, rìu, 
già làng đâm trúng điểm quy định, có nghĩa là con 
 rựa để phụ họa cho các động tác, các điệu múa 
trâu sẽ phải gục chết thì tiết tấu được tăng lên, dồn 
 được thêm sinh động.
dập hơn, cường độ mạnh hơn, tiếng hú hét cũng nhặt 
hơn theo nhịp chân nhảy múa khẩn trương dần theo Nghệ thuật múa của người Tà Ôi từ ngoài đời đã 
34 Phaùt trieån 
 Kinh teáÑaø -Naüng Xaõ hoäi
 Miền Trung - Tây Nguyên
được đưa vào trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình qua tiếp gặp các nghệ nhân để tiến hành khảo sát, thu 
những tác phẩm điêu khắc tượng nhà mồ, các hình thập tư liệu và nghiên cứu các điệu múa truyền thống 
vẽ trên nhà Rông, cột lễ đâm trâu. Đặc biệt trang trí của dân tộc Tà Ôi. Đây được coi là một trong những 
hoa văn trên vải dzèng người Tà Ôi đã thể hiện 2 hình biện pháp quan trọng góp phần bảo tồn nghệ thuật 
người đàn ông múa và người đàn bà múa với tên gọi múa cũng như các loại nhạc cụ, các thể loại dân ca.
Răm/Ngai răm/Ngai za zả.4
 Với nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản múa truyền 
 3. Kết luận thống của người Tà Ôi, Sở Văn hóa, Thể thao và Du 
 lịch đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến 
 Điệu múa của người Tà Ôi mang nhiều yếu tố 
 hành nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, xuất bản các 
hoang dã, không bị pha tạp các yếu tố văn hóa 
 cuốn sách có liên quan đến múa truyền thống của 
ngoại lai. Các điệu múa được truyền từ đời này sang 
 người Tà Ôi; mời các nghệ nhân đến truyền dạy các 
đời khác thông qua phương pháp truyền dạy trong 
 điệu múa truyền thống cho học sinh Trường Trung 
những lễ hội truyền thống. Mỗi thế hệ tiếp nhận đều 
 học Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế; phối hợp 
trân trọng, giữ gìn nghiêm túc phong cách thể hiện. 
 với các xã có phong trào thực hành điệu múa truyền 
Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang 
 thống, có nghệ nhân tâm huyết để đào tạo bài bản 
tính cộng đồng cao, nhiều màu sắc. Mỗi động tác 
 cho thế hệ trẻ. Trong đó có hình thức lồng ghép 
múa đều có những chủ đề nhất định, có thể diễn tả 
 chương trình nghệ thuật trình diễn dân gian vào các 
hết được những công việc lao động sản xuất, được 
 chương trình ngoại khóa ở các trường phổ thông trên 
chắt lọc từ chính cuộc sống lao động, sinh hoạt của 
 địa bàn người Tà Ôi.5 
người Tà Ôi. Chính vì lẽ đó mà múa của người Tà Ôi 
ngày càng có sức sống, tồn tại mãi mãi. Đây là nguồn T.N.K.P.
tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền 
thống văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán của người 
Tà Ôi.
 Múa của người Tà Ôi được hình thành trên cơ sở 
xã hội với nhiều yếu tố tâm linh, lao động, sản xuất, 
sinh hoạt gia đình, dòng họ. Múa là sự kết hợp và kế 
thừa của các loại hình nghệ thuật khác đó là âm nhạc, CHÚ THÍCH
dân ca, văn học dân gian, văn hóa dân gian, dân tộc 1 Trần Nguyễn Khánh Phong, “Về việc phát huy các điệu 
học, xã hội học, ngôn ngữ tạo hình... do vậy việc gìn múa dân gian của người Tà Ôi”, Kỷ yếu Thông báo Văn hóa 
giữ và phát huy bảo tồn các điệu múa truyền thống 2009, (Hà Nội: Từ điển Bách khoa, 2010), 602-621. Có 21 
 điệu múa đó là múa đeo gùi, múa nhổ sắn, múa làm cỏ, 
của người Tà Ôi là việc làm cần thiết không chỉ làm 
 múa xúc cá, múa phát rẫy, múa bắn nỏ, múa giáo, múa đi 
phong phú thêm đời sống tinh thần của người Tà Ôi 
 săn, múa chặt củi, múa trỉa lúa, múa dệt vải, múa giã gạo, 
nói riêng mà còn của đồng bào các dân tộc thiểu số múa đẽo cột nhà, múa quạt cho khách, múa bưng nước 
trên đất nước Việt Nam nói chung. mời khách, múa mời rượu, múa múc nước suối, múa Ariêu 
 Hàng năm mỗi khi cộng đồng Tà Ôi có lễ hội quan ada za zả, múa Sasai veel, múa adưn choán paching dung, 
 múa ada koonh.
trọng thì những điệu múa dân gian lại được phát huy. 
 2 
Các cấp, các ban ngành đã và đang quan tâm bảo vệ, Trần Nguyễn Khánh Phong, Truyện cổ của người Pa Cô 
 ở Thừa Thiên Huế, (Hà Nội, Khoa học Xã hội, 2015), 129, 130, 
tiếp tục duy trì các điệu múa truyền thống. Cụ thể là 
 131.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế 
 3 
đã phối hợp với Phòng Văn hóa Thông tin huyện A Dương Bích Hà, “Âm nhạc trong lễ cầu mùa của người 
 Tà Ôi ở Thừa Thiên Huế”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 8/2000.
Lưới đã tiến hành sưu tầm, nghiên cứu múa truyền 
thống trong các lễ hội trên địa bàn người Tà Ôi cư trú 4 Trần Nguyễn Khánh Phong, “Phức hệ hoa văn trang trí 
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trên trang phục của người Tà Ôi”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 12 
 (258)/2005, 64.
truyền thống.
 5 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Cao 
 Ngành văn hóa đã cử các cán bộ đến từng thôn, xã Chí Hải, Lý lịch di sản văn hóa phi vật thể múa truyền thống 
nơi tập trung nhiều đồng bào Tà Ôi sinh sống tại các trong lễ hội Aza Kooh của dân tộc Tà Ôi, huyện A Lưới, tỉnh 
xã như A Ngo, Nhâm, Hồng Thái, A Đớt, A Roàng, trực Thừa Thiên Huế. Huế, 10.2014. 50 trang.
 Phaùt trieån 35
 Kinh Ñaøteá Naüng- Xaõ hoäi

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_nghe_thuat_mua_cua_nguoi_ta_oi.pdf