Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị bệnh động kinh ở người lớn tuổi
Mở đầu: Trong các bệnh thần kinh ở người lớn tuổi, động kinh (ĐK) là bệnh đứng hàng thứ ba, sau đột
quỵ và sa sút trí tuệ (SSTT). Tuy nhiên, công việc chẩn đoán bệnh ĐK ở người lớn tuổi không đơn giản, thể hiện
ở tỉ lệ bỏ sót chẩn đoán là khá cao. Chẩn đoán muộn sẽ làm chậm trễ cơ hội được điều trị của bệnh nhân. Bên
cạnh đó, công việc điều trị bệnh ĐK ở bệnh nhân lớn tuổi cũng gặp nhiều khó khăn vì thường người lớn tuổi có
nhiều bệnh đi kèm, đòi hỏi điều trị nhiều thuốc nên dễ có sự tương tác thuốc và dễ xuất hiện tác dụng phụ.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, điện não đồ và hình ảnh học, xác định tỉ lệ nguyên
nhân, nhận xét về điều trị bệnh động kinh ở người lớn tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu 300 bệnh nhân trên 60 tuổi được chẩn đoán ĐK lúc
ra viện theo tiêu chuẩn của hiệp hội quốc tế chống động kinh 2005 tại Bệnh viện nhân dân 115 từ 01/01/2010
đến 30/06/2013. Các biến số thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê Stata 12.0.
Kết quả: Tổng số 300 bệnh nhân, tuổi trung bình là 72 ± 8,1; nam chiếm 53% (n = 159). Động kinh cục bộ
toàn thể hóa chiếm tỉ lệ cao nhất (n = 175, 58,3%). Phóng điện dạng động kinh chiếm 22% (n = 66). Bất thường
hình ảnh học thường gặp nhất là nhồi máu não (n = 155, 65,1%). Nguyên nhân động kinh thường gặp nhất là
tai biến mạch máu não (n = 178, 59,3%). Đơn trị liệu chiếm 91% (n = 273).
Kết luận: Động kinh cục bộ toàn thể hóa chiếm tỉ lệ cao nhất. Phóng điện dạng động kinh chiếm tỉ lệ không
cao. Bất thường hình ảnh học thường gặp nhất là nhồi máu não. Nguyên nhân thường gặp nhất là các loại tai
biến mạch máu não. Đa số bệnh nhân được điều trị đơn trị liệu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị bệnh động kinh ở người lớn tuổi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 516 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐỘNG KINH Ở NGƯỜI LỚN TUỔI Vũ Anh Nhị*, Trần Thị Mai Thy** TÓM TẮT Mở đầu: Trong các bệnh thần kinh ở người lớn tuổi, động kinh (ĐK) là bệnh đứng hàng thứ ba, sau đột quỵ và sa sút trí tuệ (SSTT). Tuy nhiên, công việc chẩn đoán bệnh ĐK ở người lớn tuổi không đơn giản, thể hiện ở tỉ lệ bỏ sót chẩn đoán là khá cao. Chẩn đoán muộn sẽ làm chậm trễ cơ hội được điều trị của bệnh nhân. Bên cạnh đó, công việc điều trị bệnh ĐK ở bệnh nhân lớn tuổi cũng gặp nhiều khó khăn vì thường người lớn tuổi có nhiều bệnh đi kèm, đòi hỏi điều trị nhiều thuốc nên dễ có sự tương tác thuốc và dễ xuất hiện tác dụng phụ. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, điện não đồ và hình ảnh học, xác định tỉ lệ nguyên nhân, nhận xét về điều trị bệnh động kinh ở người lớn tuổi. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu 300 bệnh nhân trên 60 tuổi được chẩn đoán ĐK lúc ra viện theo tiêu chuẩn của hiệp hội quốc tế chống động kinh 2005 tại Bệnh viện nhân dân 115 từ 01/01/2010 đến 30/06/2013. Các biến số thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê Stata 12.0. Kết quả: Tổng số 300 bệnh nhân, tuổi trung bình là 72 ± 8,1; nam chiếm 53% (n = 159). Động kinh cục bộ toàn thể hóa chiếm tỉ lệ cao nhất (n = 175, 58,3%). Phóng điện dạng động kinh chiếm 22% (n = 66). Bất thường hình ảnh học thường gặp nhất là nhồi máu não (n = 155, 65,1%). Nguyên nhân động kinh thường gặp nhất là tai biến mạch máu não (n = 178, 59,3%). Đơn trị liệu chiếm 91% (n = 273). Kết luận: Động kinh cục bộ toàn thể hóa chiếm tỉ lệ cao nhất. Phóng điện dạng động kinh chiếm tỉ lệ không cao. Bất thường hình ảnh học thường gặp nhất là nhồi máu não. Nguyên nhân thường gặp nhất là các loại tai biến mạch máu não. Đa số bệnh nhân được điều trị đơn trị liệu. Từ khóa: Đặc điểm lâm sàng, đặc điểm cận lâm sàng, điều trị, động kinh, người lớn tuổi. ABSTRACT CLINICAL MANIFESTATIONS, DIAGNOSTIC STUDIES AND TREATMENT OF EPILEPSY IN THE ELDERLY Vu Anh Nhi, Tran Thi Mai Thy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 516 ‐ 520 Background: Epilepsy is the third most common neurological disorder after dementia and stroke. In the elderly, epilepsy can be difficult to diagnose. Delay in the diagnosis can lead to delay in the treatment of epilepsy. Concomitant diseases are highly prevalent in the elderly so elderly has a greater sensitivity to adverse effects and drug interactions. Objective: The aim of this study was to describe clinical manifestations, EEG, imaging studies, cause of epilepsy and treatment of epilepsy in the elderly. Methods: The case series study was performed evaluations in 300 patients with epilepsy older than 60 years in People’s Hospital 115 from 01/01/2010 to 30/06/2013 (the epilepsy diagnosis was set based on the criteria of International League against Epilepsy 2005). Statistical analysis is done with the software Stata 12.0 for window. Results: 300 patients could be studied, mean age is 72±8.1; male ratio is 53%. Secondarily generalized * Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM ** Bệnh viện Nhân Dân 115 Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Thị Mai Thy ĐT: 0966925349 Email: thytranthimai@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Thần Kinh 517 seizures (n = 175, 58.3%) were most frequent. Interictal EEG revealed epileptiform discharges in 22% (n = 66) patients. Ischemic stroke (n = 155, 65.1%) was most frequent on imaging study. Stroke is the most common cause of epilepsy in the elderly (n = 178, 59.3%). 273 patients (91%) were on antiepileptic monotherapy. Conclusion: Secondarily generalized seizures were most frequent. The rate of epileptiform discharges was not high. Ischemic stroke was most frequent on imaging study. Stroke is the most common cause of epilepsy in the elderly. Most patients were on antiepileptic monotherapy. Keywords: clinical manifestations, diagnostic study, treatment, epilepsy, elderly. ĐẶT VẤN ĐỀ Người lớn tuổi là nhóm dân số tăng nhanh nhất trong dân số chung. Trong các bệnh thần kinh ở người lớn tuổi, động kinh (ĐK) là bệnh đứng hàng thứ ba, sau đột quỵ và sa sút trí tuệ (SSTT)(13). Tuy nhiên, công việc chẩn đoán bệnh ĐK ở người lớn tuổi không đơn giản. Chẩn đoán muộn sẽ làm chậm trễ cơ hội được điều trị của bệnh nhân. Hơn thế nữa, công việc điều trị bệnh ĐK ở người lớn tuổi cũng có những nét rất riêng và phức tạp. Chính vì số lượng người lớn tuổi ngày càng nhiều, tỉ lệ bệnh ĐK ở người lớn tuổi cao và có nhiều điểm đặc biệt nên bệnh ĐK ở người lớn tuổi ngày càng là vấn đề sức khỏe cần được quan tâm và cần có nghiên cứu riêng cho nhóm đối tượng này. Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về ĐK ở người lớn tuổi. Tuy nhiên, tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu chuyên biệt về bệnh ĐK ở nhóm đối tượng này. Từ những phân tích trên, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị ĐK ở người lớn tuổi” với các mục tiêu sau: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, điện não đồ và hình ảnh học, xác định tỉ lệ nguyên nhân, nhận xét về điều trị bệnh động kinh ở người lớn tuổi. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Dân số mục tiêu gồm những bệnh nhân lớn tuổi được chẩn đoán động kinh. Dân số chọn mẫu gồm tất cả bệnh nhân trên 60 tuổi được chẩn đoán động kinh lúc ra viện (theo định nghĩa động kinh của Hiệp hội quốc tế chống động kinh 2005) tại Bệnh viện Nhân Dân 115 từ 01/01/2010 – 30/06/2013. Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, hồi cứu. Các biến số thu thập bao gồm các dữ liệu lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị như: tuổi, giới, các tiền căn, lý do nhập viện, chẩn đoán ban đầu, tiền triệu, phân loại cơn động kinh, thời gian từ lúc bệnh đến lúc được chẩn đoán, lý do co giật tái phát, trạng thái động kinh, nguyên nhân động kinh. các cận lâm sàng thường quy, điện não đồ, hình ảnh học, loại thuốc chống động kinh, liều lượng thuốc chống động kinh. Các dữ liệu thu thập được ghi trong bệnh án nghiên cứu, sau đó nhập liệu và xử lý bằng phần mềm thống kê Stata 12.0. Các biến số định tính được phân tích bằng phép kiểm chi bình phương, các biến số định lượng được phân tích bằng phép kiểm t. KẾT QUẢ Mẫu nghiên cứu 300 bệnh nhân, trong đó có 159 nam chiếm 53%, tuổi trung bình 72,49 ± 8,1, trong đó bệnh nhân nhỏ nhất 60 tuổi, lớn nhất 95 tuổi. Có 62% bệnh nhân ở ngoại thành. Bệnh nhân mới được chẩn đoán động kinh chiếm 74%, bệnh nhân đã được chẩn đoán động kinh chiếm 26%. Tuổi khởi phát động kinh trung bình 68,14 ± 8. Tiền căn tai biến mạch máu não chiếm 67,66%, tiền căn tăng huyết áp chiếm 67,33%, tiền căn rối loạn lipid máu chiếm 51%. Thời gian từ lúc bị nhồi máu não đến lúc bị động kinh trung bình 18 tháng, thời gian từ lúc bị xuất huyết máu não đến lúc bị động kinh trung bình 19,5 tháng, thời gian từ lúc bị chấn thương sọ não đến lúc bị động kinh trung bình 36 tháng. Lý do nhập viện là co giật chiếm 83,33%. Chẩn đoán ban đầu chưa chính xác chiếm 25%. Chẩn đoán ban đầu là rối loạn ý thức chiếm 28,95%. Chỉ có 5% bệnh nhân động kinh có tiền triệu. Cơn cục bộ toàn thể hóa chiếm tỉ lệ cao nhất 58,33%. Thời gian một cơn ĐK trung bình: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 518 3,01±1,58 phút. Thời gian phục hồi tri giác sau cơn trung bình: 10 phút, dài nhất 3 ngày. Lý do co giật tái phát đa số do không tuân thủ điều trị (51%). Chỉ có 2% bệnh nhân bị trạng thái động kinh. Phóng điện dạng động kinh trên điện não đồ chiếm tỉ lệ 22%. So sánh tỉ lệ có phóng điện dạng động kinh giữa 2 nhóm đo điện não đồ trong vòng 24h và sau 24h. Đo EEG trong vòng 24 giờ Tổng cộng Có Không PĐDĐK Có 21 (22,34%) 14 (12,39%) 35 (16,9%) Không 73 (77,66%) 99 (87,61%) 172 (83,1%) Tổng cộng 94 (100%) 113 (100%) 207 (100%) Nhận xét : Có sự khác biệt về tỉ lệ PĐDĐK giữa 2 nhóm đo trong vòng 24 giờ và sau 24 giờ (χ2=3,62, p<0,05) Bất thường trên hình ảnh học chiếm 87%. Nhồi máu não chiếm 65,13% trên hình ảnh học. Nguyên nhân động kinh do tai biến mạch máu não chiếm 59,33%. Bệnh nhân có 3 bệnh lý đi kèm chiếm tỉ lệ cao nhất 32%. Trong đó THA chiếm tỉ lệ cao nhất 67,33%. Thuốc chống động kinh được sử dụng nhiều nhất là Valproic acid 57,33%. Có 8% trường hợp phải điều trị phối hợp thuốc. Thời gian nằm viện trung bình 7,36 ngày. BÀN LUẬN TBMMN là bệnh thường gặp nhất trong tiền căn BN ĐK, chiếm khoảng 2/3 số trường hợp. Trong đó NMN cũ gặp nhiều hơn XHN cũ. Điều này cũng giải thích một phần trong nguyên nhân bệnh động kinh ở người lớn tuổi đa số là TBMMN cũ. Điểm cần lưu ý là tỉ lệ bệnh THA trong tiền căn bệnh cũng rất cao, 67,33%. Điều này cũng tương tự kết quả của tác giả Ramsay(6), tỉ lệ bệnh THA đi kèm là 64%. Tần số mắc bệnh ĐK cao nhất rơi vào thời điểm trong vòng 1 năm sau TBMMN (chiếm tỉ lệ 44,8%). Điều này cũng tương tự trong nghiên cứu của tác giả Adelow(1) cho thấy có đến 49.57% số BN NMN xuất hiện bệnh ĐK trong vòng 1 năm đầu và nguy cơ bệnh ĐK vẫn còn ít nhất trong vòng 7 năm. Rối loạn ý thức là chẩn đoán ban đầu thường gặp nhất ở BN ĐK lớn tuổi (28,95%). Điều này cũng tương tự trong nghiên cứu VACS # 428 với tỉ lệ chẩn đoán rối loạn ý thức khá cao (41,8%)(6). Các chẩn đoán khác bao gồm ngất, cơn thoáng thiếu máu não, choáng váng trong hai nghiên cứu cũng có tỉ lệ tương tự. Như vậy đối với các trường hợp BN lớn tuổi nhập viện vì rối loạn ý thức cần phải lưu ý để loại trừ động kinh. Đa số BN không có tiền triệu. Điều này cũng tương tự trong nghiên cứu của tác giả Tinuper(12). Động kinh cục bộ toàn thể hóa là loại cơn thường gặp nhất trong nghiên cứu của chúng tôi. Và xét trên tổng số các trường hợp, cơn động kinh cục bộ (cục bộ đơn giản, cục bộ phức tạp và động kinh cục bộ toàn thể hóa) là loại cơn thường gặp nhất. Điều này phù hợp với kết quả của tác giả Tabatabaei(9) với cơn động kinh cục bộ toàn thể hóa chiếm tỉ lệ cao nhất là 24%. Trong hai nghiên cứu ở Việt Nam, loại cơn cục bộ đơn giản là cơn thường gặp nhất(3,8). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của các tác giả Hauser(4) và Ramsay(6), ta thấy cơn động kinh cục bộ phức tạp là cơn thường gặp nhất, chiếm tỉ lệ tương ứng là 48,,6% và 38,3%, cũng như trong nghiên cứu của tác giả Tanaka tỉ lệ này là 47,1%(10). Sự khác biệt này có thể do nghiên cứu của chúng tôi lấy mẫu tại bệnh viện, đa số các trường hợp nhập viện vì co giật. Các lý do nhập viện không điển hình khác chỉ chiếm một tỉ lệ thấp (các trường hợp này thường khám tại phòng khám thần kinh hoặc các chuyên khoa tâm thần, hiếm khi phải đưa bệnh nhân đến nhập viện). Đối với các BN động kinh đã được điều trị, hơn 50% các trường hợp co giật lại là do tuân thủ điều trị kém, điều này cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của tác giả Đặng Tiến Hải‐ Nguyễn Văn Chương(3). Trạng thái động kinh chỉ chiếm tỉ lệ 2,33%, con số này thấp hơn trong các nghiên cứu của tác giả Tabatabaei(9) và tác giả Tchalla(11). Tỉ lệ này thấp có thể vẫn chưa phản ánh đúng thực tế Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Thần Kinh 519 vì có những trường hợp hôn mê chưa rõ nguyên nhân, không thể đo được điện não đồ, vẫn chưa loại trừ được trạng thái động kinh. Trong nghiên cứu của chúng tôi các phóng điện dạng động kinh chỉ chiếm chưa đến ¼ số trường hợp. Kết quả này cũng tương tự như trong nghiên cứu của tác giả Ivo Drury(2) (nghiên cứu chuyên biệt về các phóng điện dạng động kinh) với tỉ lệ các phóng điện dạng động kinh dao động từ 26%‐ 35% (ở nhóm động kinh đã có từ trước và ở nhóm khởi phát sau 60 tuổi). Phân tích sâu hơn bằng cách chia nhóm, nhóm đo điện não đồ trong vòng 24 giờ và nhóm đo điện não đồ sau 24 giờ. Kết quả cho thấy nhóm đo điện não đồ trong vòng 24 giờ có tỉ lệ các phóng điện dạng động kinh cao hơn nhóm đo điện não đồ sau 24 giờ. Điều này cũng tương tự trong nghiên cứu của tác giả King MA(5), với tỉ lệ các phóng điện tương ứng là 51% và 34%. Như vậy cần khuyến cáo BN nên được đo điện não đồ sớm để tăng khả năng phát hiện các sóng đặc hiệu góp phần chẩn đoán động kinh ở BN lớn tuổi. Hình ảnh nhồi máu não cũ hoặc xuất huyết não cũ là các bất thường thường gặp nhất trên hình ảnh học BN động kinh lớn tuổi. Kết quả này cũng tương tự của tác giả Ramsay(6) với tỉ lệ 42,6% và tác giả Sinha(7) là 64,3%. Nhìn chung trong tất cả các nghiên cứu, tai biến mạch máu não là nguyên nhân hàng đầu của bệnh ĐK ở người lớn tuổi. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ này cao hơn hẳn so với các nghiên cứu khác. Đó có thể là do BN tai biến mạch máu não đến khám và điều trị tại bệnh viện Nhân Dân 115 khá nhiều. Khi xuất viện họ vẫn thường được theo dõi và tái khám tại 115 và khi có biến chứng động kinh, BN cũng sẽ được tiếp tục nhập viện và điều trị tại đây. Trong các bệnh lý đi kèm, THA là bệnh thường gặp nhất. Điều này cũng tương tự với kết quả của tác giả Ramsay(6) với tỉ lệ bệnh THA trong nhóm nghiên cứu là 64%. BN động kinh lớn tuổi tại BV 115 đa số được điều trị với Valproic acid và Phenytoin. Đây là các thuốc thế hệ cũ. Chỉ có khoảng 6% trường hợp được điều trị với các thuốc chống động kinh thế hệ mới (Levetiracetam và Topiramate). Điều này có thể do đa số BN điều trị tại BV 115 thuộc diện BHYT nên thường chỉ được sử dụng các thuốc trong cơ số BHYT, trong đó có Valproic acid và Phenytoin. KẾT LUẬN Cơn động kinh cục bộ toàn thể hóa là loại cơn thường gặp nhất với tỉ lệ 58,33%. Đa số trường hợp không có tiền triệu. Chỉ khoảng hơn 70% trường hợp được chẩn đoán đúng ngay từ đầu.Không tuân thủ điều trị là nguyên nhân chính gây co giật tái lại ở bệnh nhân động kinh cũ. Mỗi bệnh nhân có trung bình 2,49 bệnh đi kèm, nhiều nhất 6 bệnh, bệnh thường gặp nhất là tăng huyết áp (67,33%), rối loạn lipid máu (51%). Các phóng điện dạng động kinh hiện diện ở 21,88% số trường hợp. Nhóm đo điện não đồ trong vòng 24 giờ có tỉ lệ các phóng điện dạng động kinh cao hơn có ý nghĩa với nhóm đo sau 24 giờ. Hình ảnh học bất thường ghi nhận trong 87,18% số trường hợp, trong đó hình ảnh nhồi máu não và xuất huyết não cũ là thường gặp nhất chiếm tỉ lệ 70,17%. Nguyên nhân thường gặp nhất là TBMMN chiếm tỉ lệ 59,33%. Đa số các trường hợp điều trị một thuốc (thường nhất là Valproic acid). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Adelow C, Andersson T, Ahlbom A, et al (2011).“ Prior hospitalization for stroke, diabetes, myocardial infarction, and subsequent risk of unprovoked seizures”. Epilepsia 52(2), pp.301‐307. 2. Drury I and Beydoun A (1998). “ Interictal epileptiform activity in elderly patients with epilepsy”. Electroencephalogr Clin Neurophysiol 106(4), pp.369‐373. 3. Đặng Tiến Hải và Nguyễn Văn Chương (2012). “Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng và điện não đồ của bệnh động kinh ở người cao tuổi tại bệnh viện tâm thần Ninh Bình”. Tạp chí y học thực hành 5, tr. 35‐38 4. Hauser WA(1992). “Seizure disorders: the changes with age”. Epilepsia 33 (Suppl 4), pp.S6‐14. 5. King MA, Newton MR, Jackson GD, et al (1998). “Epileptology of the first‐seizure presentation: a clinical, electroencephalographic, and magnetic resonance imaging Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 520 study of 300 consecutive patients”. Lancet 352(9133), pp.1007‐ 1011. 6. Ramsay RE, Rowan AJ, and Pryor FM (2004). “Special considerations in treating the elderly patient with epilepsy”. Neurology 62(5 Suppl 2), pp.S24‐29. 7. Sinha S, Satishchandraet P, Kalband BR, et al (2012). “Neuroimaging observations in a cohort of elderly manifesting with new onset seizures: Experience from a university hospital”. Ann Indian Acad Neurol 15(4), pp.273‐280. 8. Phan Việt Nga (2008). “Đặc điểm động kinh khởi phát ở bệnh nhân từ 45 tuổi trở lên”. Tạp chí y dược học quân sự‐ HVQY 7. 9. Tabatabaei SS, Delbari A, Salman ‐Roghani R, et al (2012). “Seizures and epilepsy in elderly patients of an urban area of Iran: clinical manifestation, differential diagnosis, etiology, and epilepsy subtypes”. Neurol Sci. 10. Tanaka A, Takamatsu N, Shuzaki T, et al (2013). “Clinical characteristics and treament responses in new‐ onset epilepsy in the elderly”. Seizure. 11. Tchalla AE, Marin B, Mignard C, et al (2011). “Newly diagnosed epileptic seizures: focus on an elderly population on the French island of Reunion in the Southern Indian Ocean”. Epilepsia 52(12), pp.2203‐2208. 12. Tinuper P, Provini F, Marini C, et al (1996). “Partial epilepsy of long duration: changing semiology with age”. Epilepsia 37(2), pp.162‐164. 13. Vũ Anh Nhị (2012). “Động kinh ở người lớn tuổi”, Bài giảng sau đại học 2012. Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
File đính kèm:
- dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_dieu_tri_benh_dong_kinh_o.pdf