Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang

Bài báo mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi

Bắc Giang. Nghiên cứu mô tả hồi cứu được thực hiện trên 48 bệnh nhi mắc ho gà điều trị tại Bệnh

viện Sản Nhi Bắc Giang từ năm 2016- 2020. Kết quả cho thấy bệnh ho gà thường gặp ở trẻ ≤ 3

tháng tuổi. Bệnh xảy ra rải rác quanh năm nhưng gặp nhiều ở các tháng từ tháng 3 đến tháng 10.

Đa số trẻ bị phơi nhiễm với nguồn lây ho gà là không rõ nguyên nhân (83,3%). Trẻ thường nhập

viện trong tuần đầu tính từ ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên (60,4%). Tỷ lệ bệnh nhi mắc ho gà

ở thể không nặng là 54,2%, ở thể nặng là 45,8%. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là ho cơn đỏ mặt,

ho cơn kịch phát và chảy mũi. Các biến chứng của ho gà thường gặp là viêm phế quản phổi

(87,5%), suy hô hấp (43,8%), tiếp đến là xuất huyết (2,1%)

Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang trang 1

Trang 1

Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang trang 2

Trang 2

Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang trang 3

Trang 3

Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang trang 4

Trang 4

Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang trang 5

Trang 5

Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 14260
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang

Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại bệnh viện Sản nhi Bắc Giang
 TNU Journal of Science and Technology 225(11): 215 - 220 
 Email: jst@tnu.edu.vn 215 
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG BỆNH HO GÀ Ở TRẺ EM 
ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC GIANG 
Nguyễn Thị Kim Thoa*1, Nguyễn Đình Học1, 
Nguyễn Thị Lê2, Bùi Thị Thu Hương2, Đỗ Thái Sơn1 
1Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên, 
2Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang 
TÓM TẮT 
Bài báo mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi 
Bắc Giang. Nghiên cứu mô tả hồi cứu được thực hiện trên 48 bệnh nhi mắc ho gà điều trị tại Bệnh 
viện Sản Nhi Bắc Giang từ năm 2016- 2020. Kết quả cho thấy bệnh ho gà thường gặp ở trẻ ≤ 3 
tháng tuổi. Bệnh xảy ra rải rác quanh năm nhưng gặp nhiều ở các tháng từ tháng 3 đến tháng 10. 
Đa số trẻ bị phơi nhiễm với nguồn lây ho gà là không rõ nguyên nhân (83,3%). Trẻ thường nhập 
viện trong tuần đầu tính từ ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên (60,4%). Tỷ lệ bệnh nhi mắc ho gà 
ở thể không nặng là 54,2%, ở thể nặng là 45,8%. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là ho cơn đỏ mặt, 
ho cơn kịch phát và chảy mũi. Các biến chứng của ho gà thường gặp là viêm phế quản phổi 
(87,5%), suy hô hấp (43,8%), tiếp đến là xuất huyết (2,1%). 
Từ khóa: Bệnh ho gà; dịch tễ học; lâm sàng ; biến chứng; Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang 
Ngày nhận bài: 22/10/2020; Ngày hoàn thiện: 30/10/2020; Ngày đăng: 31/10/2020 
CLINICAL EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERS OF PERTUSSIS AT 
CHILDREN AT BAC GIANG WOMEN’S AND CHILDREN’S HOSPITAL 
Nguyen Thi Kim Thoa*1, Nguyen Dinh Hoc1, 
Nguyen Thi Le2, Bui Thi Thu Huong2, Do Thai Son1 
1TNU – University of Medicine and Pharmacy, 
2Bac Giang Women’s and Children’s Hospital 
ABSTRACT 
To describe the clinical epidemiological character of pertussis at children at Bac Giang Women’s 
anhd Children’s Hospital from 2016 to 2020. A retrospective descriptive study was carried out on 
48 children suffering from pertussis treated at Bac Giang Women’s and Children’s Hospital from 
2016 to 2020. Results showed the age group of ≤ 3 months was accounted for most cases. The 
disease occurred around year but concentrated from March to October. The source of infection of 
the disease was not unclear (83.3%). The day of hospitalization was always in the first week of 
illness (60.4%). The percentage of pertussis patients in non-severe was 54.2%, in severe form was 
45.8%. The most frequent symptoms of pertussis were coughing bout blush, long duration 
paroxysmal cough and rhinorrhea. Most complications of pertussis in children were pneumonia 
(87.5%), respiratory failure (43.8%) and hemorrhage (2.1%). 
Keywords: Pertussis; epidemiology; clinical symptoms; complication; Bac Giang Women’s and 
Children’s Hospital 
Received: 22/10/2020; Revised: 30/10/2020; Published: 31/10/2020 
* Corresponding author. Email: dr.kimthoanguyen@gmail.com
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 215 - 220 
 Email: jst@tnu.edu.vn 216 
1. Đặt vấn đề 
Ho gà là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp 
tính gây ra bởi vi khuẩn Bordetella pertussis, 
có khả năng lây nhiễm cao và là một trong 
những bệnh gây tử vong nhiều trong các loại 
bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc xin. 
Mặc dù đã có vắc xin phòng bệnh nhưng trên 
thế giới bệnh vẫn chưa hoàn toàn được kiểm 
soát và có thể gây tử vong, đặc biệt là trẻ nhỏ 
[1]. Theo ước tính của WHO, trong năm 
2008, toàn thế giới có khoảng 16 triệu người 
mắc bệnh ho gà trong đó có 195.000 trẻ em tử 
vong, hầu hết là ở các nước đang phát triển. 
Tại Mỹ, năm 2012, có tổng số 48.000 trường 
hợp ho gà được báo cáo, trong đó có 20 
trường hợp tử vong chủ yếu ở trẻ dưới ba 
tháng tuổi [2]. Tại Việt Nam, mặc dù trẻ em 
đã được tiêm phòng theo chương trình tiêm 
chủng mở rộng quốc gia nhưng bệnh vẫn tái 
xuất hiện và thường gặp ở trẻ dưới 6 tháng 
tuổi. Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, từ năm 
2012 - 2014, có 226 trẻ mắc ho gà với tỉ lệ tử 
vong là 2,8%, 5% ở thể ho gà nặng [3], [4]. 
Tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang, trong 
những năm gần đây nhờ áp dụng phương 
pháp xét nghiệm PCR ho gà vào trong chẩn 
đoán đã giúp phát hiện và điều trị được nhiều 
ca bệnh mắc ho gà. Tuy nhiên, có những thể 
bệnh không điển hình trên lâm sàng cũng có 
thể khiến bác sĩ bỏ sót bệnh. Nghiên cứu này 
được thực hiện nhằm đánh giá các đặc điểm 
dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh ho 
gà ở trẻ em tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang 
giai đoạn 2016 – 2020. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả các trường hợp dưới 16 tuổi được chẩn 
đoán mắc ho gà tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc 
Giang. 
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Thời gian thu thập số liệu: Từ tháng 1 năm 
2020 đến tháng 8 năm 2020. 
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Sản Nhi Bắc 
Giang. 
2.3. Phương pháp nghiên cứu 
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. 
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 
Cỡ mẫu: Tất cả các đối tượng dưới 16 tuổi 
được chẩn đoán và điều trị ho gà tại Bệnh 
viện Sản Nhi Bắc Giang. 
Chọn mẫu: thuận tiện. 
2.3.3. Kỹ thuật thu thập số liệu: Số liệu được 
thu thập từ bệnh án qua mẫu phiếu nghiên cứu 
in sẵn. 
2.4. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu sau khi thu thập, được làm sạch và 
nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 
3.1, sau đó được xử lý và phân tích số liệu 
trên phần mềm SPSS 22.0. 
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu 
Nghiên cứu đã được Hội đồng Y đức, trường 
Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 
thông qua và chấp nhận. 
3. Kết quả và bàn luận 
3.1. Kết quả 
Khảo sát trên 48 bệnh nhi được chẩn đoán ho 
gà tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang từ 
01/01/2016 đến 31/07/2020. 
Bảng 1. Phân bố bệnh ho gà theo tuổi và giới (n = 48) 
Tuổi Số lượng (SL) Tỉ lệ (%) 
Tuổi 
≤ 3 tháng 26 54,2 
Từ 4 tháng - ≤ 9 tuổi 22 45,8 
Giới tính 
Nam 22 45,8 
Nữ 26 54,2 
Tổng 48 100 
Nhận xét: Bảng 1 cho kết quả bệnh gặp chủ yếu ở nhóm trẻ dưới 3 tháng, với tỷ lệ 54,2%. Tuổi 
nhỏ nhất của nhóm trẻ bị ho là 7 ngày tuổi, lớn nhất là 60 tháng. Bệnh nhi nam chiếm 45,8% 
(22/48), nữ chiếm 54,2% (49/108). Tỷ lệ nam nữ xấp xỉ 1/1. 
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 215 - 220 
 Email: jst@tnu.edu.vn 217 
Hình 1. Phân bố bệnh theo các tháng trong năm (n = 48) 
Nhận xét: Hình 1 cho kết quả tỷ lệ bệnh nhi mắc ho gà rải rác ở các tháng trong một năm. Tháng 
3 và tháng 7 có tỷ lệ mắc ho gà cao nhất, chiếm 22,9% và 14,6%. 
Bảng 2. Tình trạng bị phơi nhiễm với người bệnh bị ho gà 
Tình trang bị phơi nhiễm với nguồn lây SL Tỉ lệ (%) 
Cộng đồng 8 16,7 
Không rõ 40 83,3 
Tổng 48 100 
Nhận xét: Bảng 2 cho thấy có 83,3% (40/48) trẻ bị phơi nhiễm với nguồn lây là không rõ nguyên 
nhân. Tình trạng bị phơi nhiễm nguồn lây ở cộng đồng chiếm 16,7%. 
Bảng 3. Thời gian nhập viện theo ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên 
Thời gian nhập viện SL Tỉ lệ (%) 
< 7 ngày 29 60,4 
7 – 14 ngày 18 37,5 
> 14 ngày 1 2,1 
Tổng 48 100 
Nhận xét: Số liệu nêu trong bảng 3 cho thấy theo ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên, thời gian 
nhập viện dưới 7 ngày chiếm 60,4%, từ 7 - 14 ngày chiếm 37,5%. 
Bảng 4. Phân bố bệnh theo thể bệnh 
Thể bệnh SL Tỉ lệ (%) 
Thể không nặng 26 54,2 
Thể nặng 22 45,8 
Tổng 48 100 
Nhận xét: Bảng 4 cho kết quả trong số 48 bệnh nhi mắc ho gà, có 45,8% trẻ mắc với thể nặng, 
54,2% trẻ bị bệnh ở thể không nặng. 
Bảng 5. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh ho gà theo các nhóm tuổi 
Đặc điểm 
≤ 3 tháng (n = 26) Từ 4 tháng đến ≤ 9 tuổi (n = 22) Tổng (n = 48) 
SL % SL % SL % 
Chảy mũi 26 100 20 90,9 46 95,8 
Ho cơn kịch phát 26 100 22 100 48 100 
Ho cơn đỏ mặt 24 92,3 21 95,5 45 93,8 
Ho cơn có tím 17 65,4 7 31,8 24 50 
Cơn ngừng thở 1 3,8 1 4,5 2 4,2 
Tiếng rít sau ho 5 19,2 10 45,5 15 31,3 
Nôn sau ho 22 84,6 17 77,3 39 81,3 
Tăng tiết đờm dãi 16 61,5 12 54,5 28 58,3 
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 215 - 220 
 Email: jst@tnu.edu.vn 218 
Nhận xét: Bảng 5 cho kết quả 100% bệnh nhi 
có cơn ho kịch phát, 95,8% trẻ có chảy mũi; 
93,8% ho cơn đỏ mặt; với trẻ dưới 3 tháng tỉ 
lệ trẻ ho cơn có tím, nôn sau ho cao hơn trẻ từ 
4 tháng trở lên (tương ứng 65,4% với 31,8% 
và 84,6% với 77,3%). Riêng tiếng thở rít thì 
gặp nhiều hơn (45,5%) ở trẻ từ 4 tháng trở lên 
(trẻ < 3 tháng chỉ 19,2%). 
Bảng 6. Các biến chứng của ho gà 
Các biến chứng SL Tỉ lệ (%) 
Viêm phổi 42 87,5 
Suy hô hấp 21 43,8 
Xuất huyết 1 2,1 
Nhận xét: Bảng 6 cho kết quả biến chứng 
viêm phế quản phổi chiếm 87,5% và suy hô 
hấp 43,8%, biến chứng ít gặp hơn là xuất 
huyết chiếm 2,4%, ngoài ra không gặp các 
biến chứng co giật, viêm não trong nhóm 
nghiên cứu. 
3.2. Bàn luận 
Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ mắc ho gà ở 
trẻ ≤ 3 tháng cao, chiếm 54,2% tổng số trẻ 
mắc ho gà trong thời gian nghiên cứu. Bệnh 
có thể khởi phát sớm ngay trong tuần đầu sau 
đẻ. Trẻ dưới 3 tháng tuổi có tỷ lệ mắc cao vì 
đây là lứa tuổi chưa được tiêm phòng ho gà, 
hoặc mới tiêm phòng mũi 1 trong khi đó miễn 
dịch của mẹ với bệnh ho gà có thể thấp không 
đủ giúp trẻ phòng được bệnh này trong giai 
đoạn đầu đời. Kết quả này tương đồng với 
một số nghiên cứu gần đây của Phạm Quang 
Thái và Hoàng Thị Thu Hà tại Bệnh viện Nhi 
Trung ương [4], [5]. Đây là nhóm chưa có 
miễn dịch hoặc miễn dịch chưa đầy đủ do 
chưa đến tuổi tiêm chủng trong khi miễn dịch 
từ mẹ có thể không đủ hoặc chưa tiêm đủ liều 
vắc xin. Điều này gợi ý cho việc có thể phải 
tiêm phòng vắc xin ho gà cho bà mẹ trong 
thời kỳ mang thai/ tuổi sinh đẻ hoặc nghiên 
cứu thay đổi lịch tiêm chủng để những trẻ nhỏ 
có cơ hội được tiếp xúc với vắc xin sớm hơn. 
Ho gà là bệnh truyền nhiễm với chu kỳ dịch 
khoảng từ 2 - 5 năm. Các ca bệnh tập trung 
chủ yếu vào cuối mùa Hè và đầu mùa Thu. 
Các nghiên cứu tại Mỹ, Ma rốc, Anh và xứ 
Wales đều cho thấy bệnh thường xuất hiện 
cao điểm từ tháng 4 đến tháng 9 [6]. Tại Việt 
Nam, theo báo cáo thông kê bệnh truyền 
nhiễm từ năm 1984 đến 2014, tỷ lệ mắc ho gà 
được báo cáo luôn cao nhất trong khoảng thời 
gian từ tháng 4 đến tháng 8 [7]. Cũng giống 
như mô hình chung tại Việt Nam cũng như 
trên thế giới, các trường hợp mắc bệnh ho gà 
ở nghiên cứu của chúng tôi cũng tập trung chủ 
yếu vào các tháng từ tháng 3 đến tháng 10, cao 
nhất là tháng 3 và tháng 7. Tuy nhiên điều này 
khác với nhận xét trong y văn, là các tháng 
chuyển mùa từ Đông sang Xuân. Sự khác nhau 
này có thể do sự khác biệt về mặt địa lý và đặc 
điểm khí hậu khác nhau giữa các nước. 
Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng có 
tới 83,3% tình trạng bệnh nhi bị phơi nhiễm 
với nguồn lây ho gà là không rõ nguyên nhân. 
Phân tích về nguồn lây cho thấy nguồn lây 
chủ yếu là thành viên trong gia đình có tiếp 
xúc gần gũi với trẻ. Tỷ lệ nghiên cứu của 
chúng tôi khác với nghiên cứu của Hoàng Thị 
Thu Hà: mẹ là nguồn lây hay gặp nhất 
(52,9%), tiếp theo là bố (19,6%), những 
người không sống cùng nhà (9,8%) [4]. Kết 
quả này của nghiên cứu đặt ra một vấn đề 
rằng các trẻ mắc bệnh trong nghiên cứu còn 
quá nhỏ tuổi, khả năng tiếp xúc trực tiếp với 
nhau để lây bệnh là rất thấp, vậy nguồn lây 
cho những trẻ này từ đâu ra, rất có thể đó là từ 
những người ở lứa tuổi lớn hơn. Một nghiên 
cứu tại Mỹ về chứng ho gà kéo dài ở thanh 
thiếu niên và người lớn cũng đã cho thấy 13% 
đến 20% là kết quả của nhiễm trùng ho gà. 
Nghiên cứu huyết thanh học cho thấy tỷ lệ 
nhiễm ho gà ở thanh thiếu niên và người lớn 
xấp xỉ 2,0% mỗi năm [6]. Điều này cho thấy 
ngoài việc quan tâm đến trẻ bị mắc bệnh, 
chúng ta cũng cần quan tâm đến lứa tuổi 
thanh thiếu niên và người lớn vì có thể đây 
mới chính là nguồn lây cho trẻ nhỏ và cộng 
đồng. Qua đó có thể thấy để tìm được nguồn 
lây nhiễm ho gà ở trẻ nhỏ rất khó. Những ca 
không xác định được nguồn lây nhiễm có thể 
do phơi nhiễm với người ho gà nhẹ hoặc 
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 215 - 220 
 Email: jst@tnu.edu.vn 219 
không biết mắc ho gà với các cơn ho rất nhẹ 
cũng là thách thức chẩn đoán cho nhân viên y 
tế vì triệu chứng không điển hình và xét 
nghiệm chẩn đoán có độ nhạy thấp. 
Số liệu nêu trong bảng 3 cho thấy trẻ thường 
nhập viện vào tuần thứ nhất của bệnh 
(60,4%), đây thường là thời điểm cuối giai 
đoạn khởi phát bước sang giai đoạn toàn phát 
với triệu chứng ho điển hình xuất hiện khiến 
trẻ phải nhập viện. Kết quả nghiên cứu tương 
đồng với kết quả của Hoàng Thị Thu Hà và 
cộng sự [4], nhưng sớm hơn nghiên cứu của 
Đỗ Thiện Hải [3]. Thời gian nhập viện trung 
bình theo nghiên cứu của Bayhan và cộng sự 
là 11,6 ± 7 ngày. Kết quả này theo nghiên cứu 
ở trẻ sơ sinh là 6,8 ngày [8]. Điều này cho 
thấy có thể trẻ càng nhỏ thời gian khởi phát 
bệnh càng ngắn. Các đối tượng nghiên cứu 
của chúng tôi có tỷ lệ trẻ sơ sinh chiếm đa số, 
đây có thể là nguyên nhân gây thời gian nhập 
viện sớm hơn so với các nhóm bệnh nhi khác. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ 
lệ bệnh nhi mắc ho gà ở thể không nặng là 
54,2%, ở thể nặng là 45,8%. Tỷ lệ thể nặng/ 
thể không nặng xấp xỉ 1/1. Có thể thấy tỷ lệ 
bệnh nhi thể nặng trong nghiên cứu của chúng 
tôi cao hơn các nghiên cứu của Đỗ Thiện Hải 
(5%) [3], và của Castagini (tỷ lệ bệnh nhân 
nặng phải thở máy là 27%) [9]. 
Triệu chứng phổ biến của các bệnh nhân 
trong nghiên cứu này là có cơn ho kịch phát, 
ho có đỏ mặt và chảy mũi. Kết quả này cũng 
khá tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thiện 
Hải [3] và Nguyễn Thành Lê [10]. Các triệu 
chứng đặc hiệu cho ho gà nhưng tỷ lệ gặp ít 
hơn như thở rít sau ho (19,2%), nôn sau ho 
(84,6%) và cơn ngưng thở (3,8%) đối với 
nhóm tuổi ≤ 3 tháng. Tỷ lệ này ở nhóm tuổi 
từ 4 tháng trở lên lần lượt theo thứ tự là 
31,3%; 81,3% và 4,2%. Triệu chứng bệnh 
chính là chỉ điểm cho những gợi ý để chẩn 
đoán bệnh được chính xác. Tuy nhiên, việc 
dựa nguyên vào triệu chứng đôi khi sẽ bỏ sót 
các trường hợp bệnh, đặc biệt là những bệnh 
nhân có triệu chứng không điển hình. Tổng 
hợp tình hình ho gà trên thế giới cho thấy tỷ 
lệ ho gà được báo cáo thấp hơn khoảng 40 
đến 160 lần so với tỷ lệ bệnh thực tế. Trong 
đó nhiễm trùng ho gà không triệu chứng là 
phổ biến và cao gấp từ 4 đến 22 lần so với 
nhiễm trùng có triệu chứng. Do đó, việc sử 
dụng các kỹ thuật xét nghiệm kết hợp với 
triệu chứng lâm sàng sẽ giúp phát hiện sớm, 
không bỏ sót các trường hợp bệnh, đồng thời 
phòng tránh được các biến chứng nặng có thể 
xảy ra. 
Về các biến chứng thường gặp ở trẻ mắc ho 
gà, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biến 
chứng thường gặp nhất là viêm phế quản phổi 
(87,5%) và suy hô hấp (43,8%). Kết quả này 
tương dương với nghiên cứu của Phạm Quang 
Thái và Đỗ Thiện Hải, Castaghini và Nieves 
cũng cho thấy trẻ mắc ho gà có tỷ lệ gặp các 
biến chứng đăc biệt là viêm phổi cao hơn và 
nặng hơn so với các nhóm mắc các căn 
nguyên khác [3], [5], [9]. Biến chứng viêm 
phổi có thể do bản thân vi khuẩn ho gà hoặc 
do đồng nhiễm các căn nguyên khác. Trong 
nghiên cứu của Hoàng Thị Thu Hà cho thấy 
có 14,2% bệnh nhân ho gà có biến chứng 
viêm phế quản phổi đồng nhiễm các vi khuẩn, 
vi rút khác. Trong đó hay gặp nhất là nhiễm 
Rhino virus chiếm 38,8%, ngoài ra còn gặp 
đồng nhiễm RSV, Adeno, Phế cầu, trực khuẩn 
mủ xanh [4]. Biến chứng co giật, viêm não 
không tìm thấy ở nghiên cứu của chúng tôi. 
4. Kết luận 
Nghiên cứu cho thấy bệnh ho gà ở trẻ em vẫn 
là một vấn đề sức khỏe cần quan tâm. Kết quả 
cho thấy bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tháng 
tuổi, không có sự khác biệt về giới tính. Bệnh 
xảy ra rải rác ở các tháng trong năm, tập trung 
từ tháng 3 đến tháng 10. Bệnh nhi thường 
nhập viện trong tuần đầu từ ngày khởi phát 
nên có khả năng lây nhiễm cộng đồng cao. 
Thể bệnh nặng trên lâm sàng chiếm tỷ lệ cao. 
Các biến chứng thường gặp nhất là viêm phổi 
(87,5%) và suy hô hấp (43,8%), tiếp đến là 
xuất huyết (2,1%). 
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 215 - 220 
 Email: jst@tnu.edu.vn 220 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. D. Bui, and H. T. Nguyen, Pertussis. 
Infectious Pathology. Medical Puslishing 
House, Ha Noi, 2009, pp. 219-225. 
[2]. WHO, “Immunization, Vaccines and 
Biologicals: Pertussis,” 2020. [Online]. 
Available: 
ussis/en/. [Accessed Sept. 25, 2020]. 
[3]. T. H. Do, T. H. Duong, and T. N. Do, 
“Clinical, epidemiological characteristics of 
pertussis in children at the national pediatrict 
Hospital during 2012-2014,” Vietnam Journal 
of Preventive Medicine, vol. 26, no. 6, pp. 35-
44, 2016. 
[4]. T. T. H. Hoang, H. M. Hoang, and T. T. N. 
Phan, “Clinical epidemiological characters of 
pertussis at children aged from under 3 
months in Vietnam National Children’s 
Hospital,” Vietnam Journal of Preventive 
Medicine, vol. 28, no. 6, pp. 93-101, 2019. 
[5]. Q. T. Pham, T. H. Nguyen, and V. K. Pham, 
“Epidemiological, clinical characters of 
pertussis and some related factors at National 
Hospital of Pediatric in 2015,” Vietnam 
Journal of Preventive Medicine, vol. 26, no. 
15, pp. 39-47, 2016. 
[6]. J. D. Cherry, “The epidemiology of pertussis: 
a comparison of the epidemiology of the 
disease pertussis with the epidemiology of 
Bordetella pertussis infection,” Pediatrics, 
vol. 115, no. 5, pp. 1422-1427, 2005. 
[7]. Ministry of Health, Infectious disease 
statistics yearbook, 1984 - 2014. 
[8]. G. I. Bayhan, G. Tanir, and S. Nar-Otgun, 
“The clinical characteristics and treatment of 
pertussis patients in a tertiary center over a 
four-year period,” The Turkish Journal of 
Pediatrics, vol. 54, no. 6, pp. 596-604, 2012. 
[9]. L. A. Castagnini, and F. M. Munoz, “Clinical 
characteristics and outcomes of neonatal 
pertussis: a comparative study,” J. Pediatr, 
vol. 156, no. 3, pp. 498-500, 2010. 
[10]. T. L. Nguyen, and V. H. Bui, “Clinical 
characteristics and treatment results of 
children with Pertussis disease at National 
Hospital of Tropical Diseases,” Vietnam 
Journal of Preventive Medicine, vol. 12, pp. 
77-83, 2015. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_dich_te_hoc_lam_sang_benh_ho_ga_o_tre_em_dieu_tri_t.pdf