Công nghệ sinh học thực vật trong thế kỉ XXI: Triển vọng và thách thức
Trong bài tổng quan này, tác giả xin đề cập đến triển vọng của lĩnh vực công nghệ sinh học thực vật trong quang cảnh chung của nền kinh tế nông nghiệp và những định hướng tiêu biểu của chúng trong công tác giống cây trồng. Hiện nay, trên thế giới có trên 700 công ty giống cây trồng áp dụng công nghệ nuôi cấy mô, cơ quan và tế bào thực vật để sản xuất hàng trăm triệu giống cây trồng sạch bệnh mỗi năm (cây dược liệu, cây ăn quả, cây lương thực, cây hoa, cây cảnh, cây rừng) và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao so với việc sử dụng các phương pháp truyền hống khác, góp phần bảo vệ an ninh lương thực và chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở Việt Nam, hiện tại có trên 100 phòng thí nghiệm sử dụng kĩ thuật này và đã sản xuất gần 30 triệu cây giống vô tính; riêng Đà Lạt, thành phố đi đầu trong cả nước đã sản xuất hơn 26 triệu giống và là nơi có phòng thí nghiệm tư nhân có quy mô thuộc loại hàng đầu thế giới.
Bên cạnh đó, kĩ thuật này là kĩ thuật không thể thiếu được trong công tác tạo giống mới như kĩ thuật chuyển gen, dung hợp, nuôi cấy tế bào đơn, tạo cây đơn bội với nhiều mục đích như tạo cây chống stress, tích lũy các chất có hoạt tính sinh học, thích nghi với những điều kiện trồng trọt khác nhau Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải có được những kiến thức liên quan như sinh lí thực vật, sinh hóa, di truyền, phân loại, sinh học phân tử Những thông tin ngắn gọn trong bài tổng quan này sẽ chỉ ra vai trò quan trọng của công nghệ sinh học thực vật trong cuộc cách mạng xanh và sự ghi nhận của chúng trong phát triển kinh tế xã hội trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công nghệ sinh học thực vật trong thế kỉ XXI: Triển vọng và thách thức
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 50 (6) (2012) 859-874 CÔNG NGHỆ SINH HỌC THỰC VẬT TRONG THẾ KỈ XXI: TRIỂN VỌNG VÀ THÁCH THỨC Dương Tấn Nhựt*, Hoàng Xuân Chiến Viện Sinh học Tây Nguyên, Viện KHCNVN, Tp Đà Lạt * Email: duongtannhut@gmail.com Đến Tòa soạn: 16/12/2012; Chấp nhận đăng: 24/12/2012 TÓM TẮT Trong bài tổng quan này, tác giả xin đề cập đến triển vọng của lĩnh vực công nghệ sinh học thực vật trong quang cảnh chung của nền kinh tế nông nghiệp và những định hướng tiêu biểu của chúng trong công tác giống cây trồng. Hiện nay, trên thế giới có trên 700 công ty giống cây trồng áp dụng công nghệ nuôi cấy mô, cơ quan và tế bào thực vật để sản xuất hàng trăm triệu giống cây trồng sạch bệnh mỗi năm (cây dược liệu, cây ăn quả, cây lương thực, cây hoa, cây cảnh, cây rừng) và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao so với việc sử dụng các phương pháp truyền thống khác, góp phần bảo vệ an ninh lương thực và chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở Việt Nam, hiện tại có trên 100 phòng thí nghiệm sử dụng kĩ thuật này và đã sản xuất gần 30 triệu cây giống vô tính; riêng Đà Lạt, thành phố đi đầu trong cả nước đã sản xuất hơn 26 triệu giống và là nơi có phòng thí nghiệm tư nhân có quy mô thuộc loại hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó, kĩ thuật này là kĩ thuật không thể thiếu được trong công tác tạo giống mới như kĩ thuật chuyển gen, dung hợp, nuôi cấy tế bào đơn, tạo cây đơn bội với nhiều mục đích như tạo cây chống stress, tích lũy các chất có hoạt tính sinh học, thích nghi với những điều kiện trồng trọt khác nhau Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải có được những kiến thức liên quan như sinh lí thực vật, sinh hóa, di truyền, phân loại, sinh học phân tử Những thông tin ngắn gọn trong bài tổng quan này sẽ chỉ ra vai trò quan trọng của công nghệ sinh học thực vật trong cuộc cách mạng xanh và sự ghi nhận của chúng trong phát triển kinh tế xã hội trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Từ khóa: An ninh lương thực, biến đổi khí hậu, cây trồng biến đổi gen, chuyển gen, công nghệ sinh học thực vật, kĩ thuật chọn giống, nhiên liệu sinh học, kĩ thuật chọn giống, nhiên liệu sinh học, nông nghiệp, tăng mùa vụ, vi nhân giống. 1. MỞ ĐẦU Công nghệ sinh học nói chung, công nghệ sinh học thực vật nói riêng đã và đang có những đóng góp nhất định trong sự phát triển kinh tế xã hội. Nhìn thấy tầm quan trọng đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đầu tư rất nhiều kinh phí cho lĩnh vực Công nghệ sinh học thực vật. Với hai phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về công nghệ tế bào thực vật (Viện di truyền nông nghiệp và Viện sinh học nhiệt đới), một phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về Dương Tấn Nhựt, Hoàng Xuân Chiến 860 công nghệ gen (Viện công nghệ sinh học) do nhà nước tài trợ với tổng kinh phí khoảng 11,5 triệu đô la Mỹ và rất nhiều phòng thí nghiệm trọng điểm về công nghệ sinh học thực vật do Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học – Công nghệ đầu tư trực tiếp cho các Viện trực thuộc với kinh phí không nhỏ. Để giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể hơn về việc phát triển lĩnh vực này, tác giả mong muốn cung cấp những thông tin về “những việc cần làm ngay và những điều cần quan tâm” để phát triển công nghệ sinh học thực vật, qua đó chúng ta thấy rõ trách nhiệm của mình hơn trong hoạt động nghiên cứu này. 2. QUANG CẢNH NGÀNH NÔNG NGHIỆP THẾ GIỚI: AN TOÀN THỰC PHẨM VÀ SỰ THAY ĐỔI CỦA MÔI TRƯỜNG Việc cung cấp lương thực cho toàn thế giới vào năm 2050 đã trở thành vấn đề toàn cầu, nó cũng là chương trình đang được chú trọng hàng đầu của tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc - FAO. Sản lượng thực phẩm toàn cầu cần phải tăng đến 70 % vào năm 2050 để cung cấp đủ cho 9,2 tỉ dân (theo diễn đàn High Level Expert, FAO, tháng 10, 2009, Với sự thành công của cuộc cách mạng xanh và sự tiến bộ của công nghệ sinh học, sản lượng nông nghiệp đã tăng lên đáng kể trong vòng 40 năm qua. Sản lượng lương thực chính (lúa mạch, lúa, bắp) tăng từ 100 – 200 % từ cuối những năm 1960 [1]. Theo bản báo cáo mới nhất về an ninh lương thực thế giới [2], báo cáo này đã trình bày một cách tính mới về số người thiếu ăn trên toàn thế giới dựa trên một phương pháp sửa đổi và cải tiến. Các ước tính mới cho thấy sự tiến bộ trong việc giảm đói trong suốt 20 năm qua đã đạt được tốt hơn chúng ta tưởng và với các nỗ lực đổi mới, chúng ta có thể đạt được mục tiêu của thiên niên kỷ là giảm nạn đói ở cấp độ toàn cầu vào năm 2015 (Hình 1). Tuy nhiên, số lượng những người bị thiếu ăn vẫn đang ở mức cao, thống kê mới nhất của FAO trên thế giới vẫn còn 870 triệu người tương đương với một phần tám dân số thế giới vẫn còn trong tình trạng đói kém và xóa đói vẫn là một thách thức lớn cho toàn cầu ( 2012). Giá lương thực qua các năm có sự gia tăng mạnh đối với nhiều loại thực phẩm, đặc biệt là Lúa mì, Ngô, Gạo, Đậu nành và Bông. Ở các nước phát triển mạnh thì giá của thực phẩm chính thấp, vì vậy việc tăng giá thực phẩm ít tác động đến nền kinh tế. Trong khi vấn đề n ... olysaccharide với đặc tính cản nhiệt trong quá trình tinh chế các hợp chất sinh học đồng dạng, sử dụng các enzyme chịu nhiệt và chịu mặn trong công nghiệp thực phẩm, v.v. Hơn nữa, đối với ngành công nghiệp hóa chất, thực vật có thể được sử dụng để sản xuất polyhydroxybutyrate - nguyên liệu để tạo ra nhựa chịu nhiệt tự hủy, cyclodextrin có khả năng tạo phức hợp với những chất kị nước [5]. Do tế bào thực vật có tính toàn thế (Totipotency) nhờ khả năng ít bị biệt hóa và phát triển tốt nên dễ nuôi cấy hơn so với nuôi cấy tế bào động vật. Việc sử dụng thực vật như một bioreactor sản xuất các hợp chất ngoại lai – không có nguồn gốc từ thực vật đang trên đà phát triển và có khả năng sẽ đưa đến một loại hình nông nghiệp mới, trong đó bao gồm việc sản xuất các peptit có hoạt tính sinh học, vắc xin, kháng thể và rất nhiều loại enzym khác nhau, chủ yếu sử dụng trong ngành công nghiệp dược phẩm. Ngoài việc giúp gia tăng sản lượng của cây trồng, còn tạo niềm hy vọng rất lớn trong việc cải thiện cuộc sống và sức khỏe cho người dân ở các nước đang phát triển như tiến bộ trong việc tạo vắc xin thực vật ăn được [17]. Ngày nay công nghệ sinh học thực vật đã được áp dụng ở quy mô lớn và tiến dần đến mở rộng sản xuất công nghiệp. Tạo sinh khối có hoạt chất sinh học cao được phát triển và áp dụng trong quy mô sản xuất công nghiệp mà không cần qua giai đoạn trồng trên đồng ruộng. Thực vật bậc cao là nguồn cung cấp hợp chất có tác dụng sinh học cao được dùng trong công nghiệp dược. Một số hợp chất thứ cấp được dùng làm thuốc như: morphin, codein, cocain, quinin, các alkaloid Dừa cạn, alkaloid Dương địa hoàng, colchicin, phytostigminin, pilocarpin, reserpin và các steroid như: Diosgenin, digoxin, và digitoxin (bảng 1). Với sự phát triển công nghệ gen thực vật nhờ phát hiện vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens gây khối u ở thực vật, việc tạo giống bằng kĩ thuật di truyền đã mở ra nhiều ứng dụng mới cho trồng trọt cũng như tạo các hợp chất thứ cấp có tác dụng sinh học cao trong các Dương Tấn Nhựt, Hoàng Xuân Chiến 870 mô cấy tế bào với hàm lượng có thể ly trích được ở quy mô công nghiệp, đặc biệt là sự hình thành rễ tơ có hàm lượng các hoạt chất cao nhờ vào các kĩ thuật nuối cấy trong bioreactor và có bổ sung các tiền chất như acid jasmonic và dẫn chất (bảng 2). Bảng 1. Một số hợp chất thứ cấp được dùng làm thuốc Hợp chất Điều trị Loài Giá (USD/kg) Ajmalicin Cao huyết áp Catharanthus roseus 37.000 Ajmalin Sốt rét Rauwolfia serpentine 75.000 Camptothecin Ung thư Camptotheca acuminata 432.000 Codein Giảm đau Papaver somniferum 17.000 Colchicin Ung thư Colchium autumnale 35.000 Ellipticin Ung thư Orchrosia elliptica 240.000 Morphin Giảm đau Papaver somniferum 340.000 Shikonin Sát khuẩn Lithospermum erythrorhizon 4.500 Taxol Ung thư vú, phổi, buồng trứng Taxus brevifolia 600.000 Vinblastin Ung thư máu Catharanthus roseus 1.000.000 Vincristin Ung thư máu Catharanthus roseus 2.000.000 Bảng 2. Sản xuất hợp chất thứ cấp bằng kĩ thuật nuôi cấy mô rễ tơ từ một số loài cây thuốc Họ thực vật Cây thuốc Hợp chất chính Tác dụng Araliaceae Panax ginseng Các ginsenosid Bổ, tăng lực, chống stress Apocynaceae Rauwolfia micrantha Ajmalicin, Ajmalin Hạ huyết áp Asteraceae Saussurea medusa Jaceosidin Kháng ung thư Cucurbitaceae Gynostemma pentaphyllum Gypenosid (Saponin) Một số tác dụng sinh học Fabaceae Pueraria phaseoloides Puerarin Hạ nhiệt, co thắt, hạ áp, chống loạn nhịp Ginkgoaceae Gingko biloba Ginkgolid Phòng chống bệnh tim mạch và tuổi già Linaceae Linum favum Coniferin (Lignan) Kháng ung thư Nyssaceae Camptotheca acuminate Camptothecin Kháng ung thư, kháng virus Papaveraceae Papaver somniferum Morphin, sanguinarin, codein Giảm đau Solanaceae Solanum chrysotrichum Saponin Kháng virus Verbenaceae Gmelina arborea Verbascosid Phòng chống bệnh đau bao tử, sốt và bệnh ngoài da Công nghệ sinh học thực vật trong thế kỉ XXI: Triển vọng và thách thức 871 Việc ứng dụng công nghệ sinh học thực vật đã đem lại nhiều lợi ích và có ý nghĩa lớn mà ta có thể minh họa 2 trường hợp rất gần gũi với nước ta sau đây: Taxol Nhu cầu hiện nay trên thế giới đạt tới 259 kg taxol/năm. Taxol đã vào thị trường thuốc generic vào đầu những năm 90, giờ đây được sản xuất trên quy mô lớn từ nuôi cấy mô tế bào hoặc bằng sự bán tổng hợp từ các tiền chất DAB và baccatin III và dễ dàng tách từ lá các loài thông đỏ. Cho đến nay, mức thu được từ 140 - 295 mg/l taxol của tế bào nuôi cấy Thông đỏ Thái Bình Dương (Taxus baccata) được thương mại hóa trong sản xuất. Nhân sâm (Panax ginseng) Trồng Nhân sâm tối thiểu phải 4 năm mới thu hoạch rễ. Sâm phải trồng trong điều kiện đặc biệt về độ cao, độ ẩm, ánh sáng. Ngoài ra phải giải quyết vấn đề bệnh hại và phải thường xuyên chuẩn bị các cánh đồng trồng sâm mới cho vụ mùa sau để đảm bảo chất lượng và sản lượng. Cho đến nay, rất ít sự thay đổi trong kĩ thuật trồng ở đồng ruộng. Vì vậy, áp dụng công nghệ sinh học được xem xét và thay thế cho sự phát triển Nhân sâm và nhân giống và sản xuất nguyên liệu làm thuốc. Tại Hàn Quốc, một số công ty đang sản xuất rễ tơ Nhân sâm với bioreactor có dung tích 10.000 đến 20.000 lít. Sản phẩm này được làm nguyên liệu cho các dạng thực phẩm chức năng và thực phẩm khác nhau trên thị trường. Việt Nam được xếp thứ 16 trong 25 quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới, chiếm 6,5% số loài thực vật trên toàn thế giới, với nhiều nhóm sinh vật có tính đặc hữu cao, có giá trị khoa học và thực tiễn lớn. Riêng thực vật bậc cao đã thống kê được 10.386 loài, trong số này đã ghi nhận 3.950 loài được dùng làm thuốc, chiếm 38 % số loài đã biết. Nếu so với khoảng 20.000 loài cây làm thuốc đã biết trên thế giới thì số loài cây thuốc ở Việt Nam chiếm khoảng 19 %. Trong đó có nhiều loài quý, hiếm như Thông đỏ, Lan gấm, Thạch tùng răng, sâm Ngọc Linh đang bị thu hái hay triệt phá cạn kiệt và được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Vì vậy cần phải có việc tái điều tra tài nguyên cây thuốc trên địa bàn các tỉnh, khoanh vùng bảo vệ và thu hái hợp lí các cây thuốc trong tự nhiên. Tổ chức nhân giống và trồng các cây thuốc quý có tiềm năng và có giá trị kinh tế cao ở quy mô lớn. Để thực hiện mục tiêu này, chúng ta có thể áp dụng kĩ thuật nuôi cấy mô tế bào để bổ sung nguồn cây giống mà kĩ thuật nhân giống truyền thống bằng hạt hoặc bằng hom cành thường mất nhiều thời gian và hạn chế về số lượng. Nhưng để phát triển được nguồn nguyên liệu làm thuốc bằng kĩ thuật nuôi cấy mô tế bào, thì ngoài giá trị điều trị bệnh cao, phải là cây thuốc có giá trị kinh tế cao hơn giá trị của các loại cây trồng truyền thống của như hoa và rau, quả. Trên địa bàn Tây Nguyên hiện có hai cây thuốc quý hội đủ yếu tố này là Thông đỏ lá dài (Taxus wallichiana) và Sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis). Trong đó Thông đỏ là nguồn nguyên liệu ưu thế tại chỗ, hiện nay đang được nhân giống vô tính bằng hom cành ở quy mô sản xuất nguyên liệu và từng bước bằng kĩ thuật nuôi cấy trong ống nghiệm. Còn sâm Ngọc Linh cũng từng được di thực trồng ở Cam Ly, Langbiang và được các nhà khoa học ở trường Đại học Đà Lạt và Viện Sinh học Tây Nguyên nghiên cứu theo hướng nuôi cấy mô tế bào và dạng rễ tơ, tạo ra một triển vọng chủ động nguồn nguyên liệu làm thuốc theo 2 hướng: Một là nhân giống cây sâm hoàn chỉnh để trồng, hai là tạo rễ tơ để sử dụng như nguyên liệu cho các sản phẩm thực phẩm chức năng và mỹ phẩm (hình 5). Dương Tấn Nhựt, Hoàng Xuân Chiến 872 Hình 5. Sản xuất rễ tơ sâm Ngọc Linh bằng bioreactor [18] 7. KHẢ NĂNG CUNG CẤP VÀ NHU CẦU THỰC TẾ: TỪ ĐÂY CHÚNG TA SẼ TIẾN ĐẾN ĐÂU? Ngày nay, những thành tựu trong công nghệ sinh học thực vật đã vượt xa sự mong đợi trước đây và những hoạt động trong tương lai sẽ mang lại nhiều hứa hẹn hơn nữa. Nhận thức đầy đủ và về cuộc cách mạng công nghệ sinh học nông nghiệp và những tác động của những thành tựu nêu trên không chỉ phụ thuộc vào những nghiên cứu cải tiến thành công liên tiếp mà còn phụ thuộc vào xu thế thuận lợi và sự công nhận của cộng đồng. Khoảng 12 % diện tích đất của thế giới được sử dụng cho việc trồng trọt và những hoạt động của lĩnh vực nông nghiệp để cung cấp một lượng thực phẩm bình quân 0,44 ha/đầu người vào năm 1961 và có khả năng tỉ lệ này sẽ giảm còn 0,15 ha/đầu người vào năm 2050. Việc tăng cường hoạt động nông nghiệp trong điều kiện còn nhiều hạn chế nói trên, vì thế cần có những giống cải tiến có hiệu quả cao hơn đồng thời mang lại lợi ích kinh tế, khả năng hoàn vốn cao và tạo ra được những sản phẩm độc quyền có nguồn gốc thực vật. Tất cả những điều nêu trên không thể được thực hiện nếu không có những nghiên cứu chuyên sâu và sự phát triển của sinh hóa học, sinh lí học, di truyền học và công nghệ sinh học nông nghiệp thực vật. Gắn với kĩ thuật canh tác tối hảo, luân canh, quản lí dịch hại; công nghệ sinh học sẽ thể hiện tính ưu việt và tầm ảnh hưởng rộng lớn như cuộc cách mạng xanh khi xưa. Những nhà khoa học thực vật ngày nay giữ một vai trò trung tâm trong xã hội, không như vị trí của họ 300 năm trước đây khi Jonathan Swift (1667 – 1745) từng nói: “Bất cứ ai có thể làm cho cây bắp phát triển ngay tại vùng đất mà trước đây chỉ có cỏ mọc sẽ xứng đáng được vinh danh hoặc được ca ngợi vì đã giúp ích thiết thực cho đất nước của họ. Điều này còn hơn là cuộc chạy đua của giới chính trị gia”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mann C. C. - Crop scientists seek a new revolution, Science 283 (1999) 310-314. 2. FAO, WFP and IFAD - The State of Food Insecurity in the World 2012. Economic growth is necessary but not sufficient to accelerate reduction of hunger and malnutrition. Rome, FAO (2012). 3. Michael E. H., Gunther H. and Ralf R. - Plant biotechnology in support of the Millennium Goals II, Plant Cell Rep 30 (2011) 677-679. 4. Sharkey T. D., Laporte M., Lu Y., Weise S. and Weber A. P. M. - Engineering plants for elevated CO2: a relationship between starch degradation and sugar sensing, Plant. Biol. 6 (2004) 280-288. Công nghệ sinh học thực vật trong thế kỉ XXI: Triển vọng và thách thức 873 5. Altman A. - Plant biotechnology in the 21st century: the challenges ahead, J. Biotechnol. 2 (2) (1999) 51-55. 6. James C. - Global status of commercialized biotech/GM Crops: 2009. ISAAA Brief No. 41. ISAAA, NY. 7. Daniell H. - Molecular strategies for gene containment in transgenic crops, Nat. Biotechnol. 20 (2002) 581–586. 8. Filipecki M. and Malepszy S. - Unintended consequences of plant transformation: a molecular insight, J. Appl. Genet. 47 (2006) 277-286. 9. Grevich J. J. and Daniell H. - Chloroplast genetic engineering: recent advances and future perspectives, Crit. Rev. Plant. Sci. 24 (2005) 83-107. 10. Martino-Catt S. J. and Sachs E. S. - Editor’s choice series: the next generation of biotech crops, Plant. Physiol. 147 (2008) 3-5. 11. Duong Tan Nhut, Nguyen Thanh Hai, Pham Thi Minh Thu, Nguyen Ngoc Thi, Truong Thi Dieu Hien, Tran Trong Tuan, Nguyen Ba Nam, Nguyen Phuc Huy, Hoang Xuan Chien, and S. Mohan Jain - Protocol for inducing flower color somaclonal variation in Torenia (Torenia fournieri Lind.). In: Maurizio Lambardi, E. Aylin Ozudogru, S. Mohan Jain (eds), Protocols for micropropagation of selected economically - important horticultural plants, Springer , 2012, pp. 455-462. 12. Duong Tan Nhut, Takamura T., Watanabe H. and Tanaka. M. - Artificial lighting source using light-emitting diodes (LEDs) in the efficient micropropagation of Spathiphyllum plantlets, Acta Hortic 692 (2005) 137-142. 13. Afroz A., Ali G. M., Mir A. and Komatsu S. - Application of proteomics to investigate stress-induced proteins for improvement in crop protection, Plant. Cell. Rep. 30 (5) (2011) 745-63. 14. Choi J. Y., Seo Y. S., Kim S. J., Kim W. T. and Shin J. S. - Constitutive expression of CaXTH3, a hot pepper xyloglucan endotransglu-cosylase/hydrolase, enhanced tolerance to salt and drought stresses without phenotypic defects in tomato plants (Solanum lycopersicum cv. Dotaerang), Plant. Cell. Rep. 30(5) (2011) 867-877. 15. Ghanem M. E., Hichri I., Smigocki A. C., Albacete A., Fauconnier M. L., Diatloff E., Martinez-Andujar C., Lutts S., Dodd I. C. and Pe´ rez-Alfocea F. - Root-targeted biotechnology to mediate hormonal signaling and improve crop stress tolerance, Plant. Cell. Rep. 30 (5) (2011) 807-823. 16. Trần Công Luận - Công nghệ sinh học thực vật với tài nguyên cây thuốc, Kỷ yếu hội thảo quốc tế tháng 4, 2010. 17. Penney C. A., Thomas D. R., Deen S. S., Walmsley A. M. - Plant-made vaccines in support of the Millennium Development Goals, Plant. Cell. Rep. 30 (5) (2011) 789-798. 18. Dương Tấn Nhựt, Nguyễn Cửu Thành Nhân, Hoàng Xuân Chiến, Nguyễn Phúc Huy, Nguyễn Bá Nam, Trần Xuân Ninh, Phạm Phong Hải, Vũ Quốc Luận, Phan Quốc Tâm, Vũ Thị Hiền, Trịnh Thị Hương, Trần Công Luận và Paek Kee Yoeup - Một số hệ thống nuôi cấy trong nghiên cứu nhân nhanh rễ bất định và rễ thứ cấp cây sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.), Tạp chí Công nghệ Sinh học (2012) (nhận đăng). Dương Tấn Nhựt, Hoàng Xuân Chiến 874 ABSTRACT PLANT BIOTECHNOLOGY IN 21 ST CENTURY: PROSPECTS AND CHALLENGES Duong Tan Nhut * , Hoang Xuan Chien Tay Nguyen Institute of Biology, VAST, Dalat City * Email:duongtannhut@gmail.com The present review mentions the relevance and future prospect of plant biotechnology in agricultural economics and plant breeding industry. So far, 700 plant breeding companies around the world have been applying plant, cell, tissue and organ culture technique to breed thousands of disease-free seedlings per year, including medicinal, fruit, food, woody plants and kinds of flower. The application makes a better profit than using traditional method production and tackles both food security and climate change. In Vietnam, 30 million seedlings are produced by more than 100 laboratories using these modern techniques every year. There are number of high- tech private enterprises in Dalat which are producing about 80 % of the total seedlings. Moreover, the modern techniques being used are required for plant-breeding programs. They are genetic transformation, protoplast fusion, single cell culture, haploid plant, etc. The application of these tecgniques has been serving multi purposes such as anti-stress, accumulation of secondary metabolites and acclimatization. For those reasons, it is necessary to gain the knowledge of plant physiology, biochemistry, taxonomy and molecular biology, etc. This review describes the important role of plant biotechnology in ‘Green Revolution’ and in the Socio - economic Development of both the world and Vietnam. Keywords: agriculture, bioenergy, climate change, crop improvement, food security, GMO, micropropagation, plant biotechnology, plant breeding techniques, stress, transgene.
File đính kèm:
- cong_nghe_sinh_hoc_thuc_vat_trong_the_ki_xxi_trien_vong_va_t.pdf