Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái

Tóm tắt: Chiến tranh tiền tệ là chiến tranh tỉ giá hối đoái giữa các đồng tiền.

Chiến tranh tỉ giá hối đoái được thực hiện bằng cách phá giá hoặc nâng giá đồng tiền

nước này để làm tổn hại nền kinh tế nước khác. Loài người đã từng trải qua hai cuộc

chiến tranh tiền tệ. Mỗi cuộc chiến đều làm sụp đổ Hệ thống Tiền tệ quốc tế. Nguy cơ

chiến tranh tiền tệ lần thứ ba đang hiện hữu. Cần có biện pháp ngăn chặn và ổn định

Hệ thống Tiền tệ quốc tế và duy trì sự phát triển đều đặn kinh tế toàn cầu.

Từ khoá: Tiền tệ, chiến tranh tiền tệ, tỉ giá hối đoái, phá giá, nâng giá.

Summary: A currency war is a war of exchange rates between currencies. Exchange

rate warfare is done by devaluing or appreciating one country’s currency to damage

another country’s economies. Humans have experienced two currency wars. Every

war brought down the International Monetary System. The risk of a third currency war

exists. Measures should be taken to prevent and stabilize the International Monetary

System and maintain steady global economic development.

Keywords: Currency, currency war, exchange rate, devaluation, appreciation.

Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái trang 1

Trang 1

Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái trang 2

Trang 2

Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái trang 3

Trang 3

Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái trang 4

Trang 4

Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 10000
Bạn đang xem tài liệu "Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái

Chiến tranh tiền tệ - Điều hành tỉ giá hối đoái
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
24Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 10/2020
* Khoa Ngân hàng, Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
Nhân loại đã trải qua hai cuộc đại 
chiến thế giới và rất nhiều cuộc chiến 
tranh cục bộ, khu vực. Đó là những cuộc 
chiến tranh giành giật lãnh thổ, hoặc địa 
vị chính trị và là các cuộc chiến tranh 
quân sự mà vũ khí được sử dung là súng 
đạn (sinh mạng con người cũng được coi 
là vũ khí). Bên cạnh các cuộc chiến tranh 
quân sự là các cuộc “chiến tranh tiền tệ” 
– loại chiến tranh có sức tàn phá ghê gớm, 
nhưng không mấy ai quan tâm.
Người ta lãng quên hoặc không chú 
ý tới chiến tranh tiền tệ cũng là lẽ đương 
nhiên, bởi có rất nhiều lý do khách quan. 
Cho đến gần đây, vào năm 2019 này, khi 
đã quá ba lần Tổng thống Mỹ Donald J. 
Trump chỉ trích gay gắt rằng “việc thao 
túng tiền tệ ở nước ngoài, khiến đồng USD 
mạnh lên, gây thiệt hại cho kinh tế Mỹ”.
Hãy nhớ lại cách đây bốn năm, liên 
tiếp ba ngày, 13, 14 và 15/8/ 2015, Trung 
Quốc tăng giá đồng nhân dân tệ (CNY) 
từ mức tỉ giá USD/CNY= 6,4010 xuống 
USD/CNY = 6,0000, song lúc đó cũng rất 
ít người chỉ trích, vì bấy giờ đồng CNY 
của Trung Quốc chưa nằm trong “giỏ tiền 
tệ” để tính giá trị “đồng tiền ghi sổ” SDR 
của IMF (trong“giỏ tiền tệ” mới có bốn 
đồng tiền: USD - 45%, EUR - 29%, JPY 
- 15% và GBP - 11%. Tỉ giá SDR/USD 
= 1,27154). Việc tăng giá đồng CNY khi 
đó được coi là thủ đoạn kỹ thuật nhằm có 
lợi khi gia nhập “giỏ tiền tệ”. Từ tháng 
12/2015, khi đồng CNY được đưa vào 
CHIẾN TRANH TIỀN TỆ - 
ĐIỀU HÀNH TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI 
Nguyễn Võ Ngoạn *
Tóm tắt: Chiến tranh tiền tệ là chiến tranh tỉ giá hối đoái giữa các đồng tiền. 
Chiến tranh tỉ giá hối đoái được thực hiện bằng cách phá giá hoặc nâng giá đồng tiền 
nước này để làm tổn hại nền kinh tế nước khác. Loài người đã từng trải qua hai cuộc 
chiến tranh tiền tệ. Mỗi cuộc chiến đều làm sụp đổ Hệ thống Tiền tệ quốc tế. Nguy cơ 
chiến tranh tiền tệ lần thứ ba đang hiện hữu. Cần có biện pháp ngăn chặn và ổn định 
Hệ thống Tiền tệ quốc tế và duy trì sự phát triển đều đặn kinh tế toàn cầu. 
Từ khoá: Tiền tệ, chiến tranh tiền tệ, tỉ giá hối đoái, phá giá, nâng giá.
Summary: A currency war is a war of exchange rates between currencies. Exchange 
rate warfare is done by devaluing or appreciating one country’s currency to damage 
another country’s economies. Humans have experienced two currency wars. Every 
war brought down the International Monetary System. The risk of a third currency war 
exists. Measures should be taken to prevent and stabilize the International Monetary 
System and maintain steady global economic development.
Keywords: Currency, currency war, exchange rate, devaluation, appreciation.
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
25Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 10/2020
“giỏ tiền tệ” tính SDR của IMF (theo 
tỉ trọng mới hình thành, tỉ trọng CNY 
= 10,92 %, vượt trên JPY và GBP), thì 
những động thái của đồng CNY mang ý 
đồ khác, ngược chiều năm 2015. Trong 
khi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung 
đang tiếp diễn, Trung Quốc đẩy tỉ giá 
USD/ CNY lên mức trên 7,000, thì không 
riêng ông J. Trump, mà chắc chắn còn rất 
nhiều người khác quan ngại và cũng đang 
cảnh báo về chiến tranh tiền tệ.
Ngày 12/6/2019, ông Cesar Roas, 
nhà kinh tế toàn cầu tại Citigroup Global 
Markets Inc, lại một lần nữa nhắc đến 
những chuyển động tỉ giá (giảm giá 
đồng CNY) có ý đồ của Trung Quốc và 
đề phòng nguy cơ “chiến tranh tiền tệ” 
(currency wars). Báo chí các nước tới tấp 
đăng tải các bài về đề tài này, rằng: “Liệu 
pháp sốc! Trung Quốc kích hoạt chiến 
tranh tiền tệ”, “Trung Quốc phá giá đồng 
nhân dân tệ và nguy cơ chiến tranh tiền 
tệ”. nhiều người mới sực nhớ đến nhân 
loại đã từng có hai cuộc chiến tranh tiền 
tệ, với con số không kém số lượng các 
cuộc đại chiến thế giới.
Để phòng ngừa một cuộc chiến tranh 
tiền tệ mới, hãy xem xét kỹ cuộc chiến 
tranh tiền tệ trước đây.
1. Đại chiến thế giới và chiến tranh 
tiền tệ
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã 
để lại hậu quả tệ hại, không ai muốn nhắc 
đến, ngoài một vài sự kiện lớn đã xuất 
hiện trong thời kỳ này, chẳng hạn như 
sự thành công của Cách mạng Tháng 10 
Nga. Tiếc thay, chẳng mấy ai nhắc đến 
nỗi đau lớn là hậu quả của các cuộc chiến 
tranh tiền tệ.
Sau chiến tranh, kinh tế thế giới suy 
sụp, cơ chế bản vị vàng của hệ thống tiền 
tệ thế giới (chế độ tiêu chuẩn vàng - Gold 
standard) tan vỡ. Các nhà kinh tế và một số 
chính phủ có chủ trương (và kêu gọi) khôi 
phục chế độ bản vị vàng, một chủ định 
đúng đắn thời đó để nhanh chóng khôi 
phục kinh tế thế giới. Khôi phục bản vị 
vàng là để các “nền tiền tệ” được “chung 
sống hòa bình” với nhau trên cơ sở tỉ giá 
hối đoái theo cơ chế “đồng giá vàng” đã 
vận hành lâu nay, tạo tiền đề nền tảng cho 
khôi phục kinh tế toàn cầu. Một ý tưởng 
khoa học và đúng đắn, nhưng kêu gọi 
này không được hưởng ứng, chủ định đó 
không thành công. (Riêng chính phủ Anh, 
vì không muốn bị mất vị trí “bá chủ” tiền 
tệ, nên đã “gồng mình” vay vàng của Mỹ 
khôi phục chế độ bản vị “vàng hối đoái” 
do đồng bảng Anh làm trụ cột. Đó là một 
chế độ bản vị nửa vời). Nhưng, Hội nghị 
Tiền tệ Quốc tế ở Genova (Italy) năm 
1922 đã chấp nhận “chế độ bản vị vàng 
hối đoái” do đế quốc Anh đề xướng.
Thời kỳ này vẫn âm ỉ trào lưu khôi 
phuc “bản vị vàng”. Một số nước không 
chỉ chống đối trào lưu này, mà còn có ý 
đồ gây “chiến tranh tiền tệ ”. Thế là chiến 
tranh tiền tệ thưc sự đã nổ ra.
Các nhà khoa học định nghĩa rằng, 
chiến tranh tiền tệ là loại chiến tranh mà vũ 
khí không phải là súng đạn, nhưng thảm 
họa không kém gì sự tàn phá của súng đạn; 
chúng được tiến hành bằng cách: chính phủ 
các nước phá giá đồng tiền nước mình.
Theo các học thuyết tiền tệ, phá giá 
tiền tệ là phương thức quan trọng để lập 
lại thế cân bằng trong nền kinh tế. Nhưng 
các chính khách lại cho đó là “hoạt động 
kỹ thuật của chính sách tỉ giá”, là công cụ 
của họ và say sưa vận dụng một cách thích 
thú, có thời kỳ thường xuyên sử dụng. Phá 
giá được tiến hành bằng nhiều hình thức 
khác nhau: - Phá giá ngầm (được che giấu 
bằng các biện pháp kín đáo, như tăng thuế 
nhập khẩu, giảm thuế xuất khẩu); - Phá 
giá công khai (được công bố rộng rãi); 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
26Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 10/2020
- Phá giá nóng trong điều kiện mất cân 
bằng kinh tế; - Phá giá lạnh trong dự kiến 
“lạm phát ỳ”.
Các hình thức phá giá được thực hiên 
bằng nhiều phương thức khác nhau. Cần 
quan tâm đến hai “phương thức mục tiêu” 
có nội dung trái chiều là phá giá tự vệ để 
ứng phó và phản công lại sự tấn công của 
các đồng tiền khác và phá giá tấn công để 
tấn công các đồng tiền đối thủ.
2. Cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 
nhất, các nước đều kiệt quệ. Nước Đức 
thất bại nặng nề, tìm cách khắc phục hậu 
quả bằng cách tồi tệ nhất là tiến hành 
chiến tranh tiền tệ. Cuộc chiến tranh 
tiền tệ lần thứ nhất này được chính phủ 
Đức “kích hoạt” vào năm 1921. Ngân 
hàng trung ương Đức (Reichsbank) áp 
dụng một chính sách tiền tệ xa lạ và 
điên rồ, đó là thưc hiện “lạm phát phi 
mã chủ động” [1], bằng cách đã ra sức 
phát hành tiền giấy Mác Đức (Deutsch 
Mark), ào ạt đưa tiền vào lưu thông 
nhằm giải đáp quan hệ “tổng cung” 
và “tổng cầu” của nền kinh tế Đức bị 
tiêu điều trong chiến tranh. Reichsbank 
tính toán rằng, chiến lược này sẽ đáp 
ứng được mục tiêu tăng cường năng 
lực cạnh tranh đồng thời thực hiện cuộc 
“phá giá tấn công” các đồng tiền khác, 
chủ yếu là Dollar Mỹ (USD). 
Sau chiến tranh, mặc dù chế độ bản 
vị vàng tan vỡ, nhưng chưa nước nào 
công bố thay đổi hàm lượng vàng chứa 
trong đồng tiền nước mình. GBP được 
coi là số một, nhưng USD mạnh không 
kém, mà còn lưu hành rộng rãi hơn GBP. 
Khi đó các nhà khoa học đã tính toán và 
vận hành thành thạo quan hệ tỉ giá song 
phương (Nomined bilateral exchange 
rate, NER, – giá trị một đồng tiền được 
biểu thị thông qua một đồng tiền khác, 
trong đó chưa đề cập đến tương quan sức 
mua hàng hóa và dịch vụ của hai đồng 
tiến). Tuy nhiên, họ không hề biết đến sự 
chi phối phức tạp trong mối quan hệ đa 
phương của tỉ giá.
Tỉ giá đa phương (Nomined effective 
exchange rate, NEER) là chỉ số tính toán 
cho một đồng tiền được xác định là lên 
giá hay xuống giá so với các đồng tiền 
khác. Chẳng hạn, có n quốc gia đối tác 
thương mại. Các chỉ số tỉ giá danh nghĩa 
song phương của các quốc gia này là: e1, 
e2, en, tỉ trọng của tỉ giá song phương 
các quốc gia này là: W1, W2, Wn. 
Tỉ giá đa phương tạị thời điểm t = i 
được biểu hiện theo hàm số:
Do không quan tâm đến mối quan hệ 
đa phương (quan hệ của hàm đa biến), 
nên Reichsbank khi đó đã hoàn toàn sai 
lầm trong việc không tính toán tỉ giá 
trong quan hệ đa phương đến lưu thông 
tiền tệ trong nước. Do đó, lạm phát vượt 
khỏi tầm kiểm soát, khiến nền kinh tế 
Đức suy sụp, dân chúng đói khổ. Ngạn 
ngữ phương Đông có câu: “Phú quí sinh 
lễ nghĩa, bần hàn sinh đạo tặc”. Đúng 
vậy! Đó là thời kỳ đạo tặc xuất hiện 
nhiều ở Đức. Lịch sử từng ghi lại rằng, 
cướp bóc hoành hành nhiều nơi; bọn 
cướp đón đường và cướp một xe chở 
tiền của ngân hàng Đức, nhưng chỉ để 
lấy chiếc xe cũ nát, còn tiền thì đổ xuống 
lề đường. Riêng ở Đức còn có tình trạng 
dân chúng từ chối USD trong nuối tiếc. 
Đó là chuyện các cửa hàng đều không 
nhận dù chỉ 1$, vì không đủ hàng triệu 
Deutsch Mark để thoái (thối) lại cho 
khách mua hàng. Có thể nghi ngờ, đây là 
ý đồ mục tiêu hồi đó của chính phủ Đức 
tẩy chay USD?
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
27Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 10/2020
Đồng Deutsch Mark mất giá hàng trăm 
lần, kinh tế Đức hỗn loạn, chính phủ Đức 
đã phá giá mạnh tiền tệ của mình. Không 
chỉ kinh tế Đức mà các quốc gia lân cận và 
toàn châu Âu cũng rối loạn, xuất nhập khẩu 
đình đốn, thanh toán quốc tế ngừng trệ.
Để trả đũa Đức, các quốc gia khác lần 
lượt “phản vệ” bằng các cuộc “phá giá tự 
vệ”. Pháp tuyên bố phá giá đồng France 
năm 1926 [1]; sau đó, năm 1931, quyết 
định không thu nhận GBP và tung ra thị 
trường số GBP Pháp nắm giữ đổi lấy vàng. 
Một số nước cũng hành động theo Pháp 
làm rung chuyển chế độ “bản vị vàng hối 
đoái”. Các đồng tiền trong các nước Liên 
hiệp Anh mất giá mạnh. GBP không còn 
khả năng đổi ra vàng, chế độ “vàng hối 
đoái” sụp đổ, buộc chính phủ Anh phải 
tuyên bố phá giá GBP vào năm 1931 [1]. 
Chiến tranh tiền tệ đã tấn công nền 
kinh tế Mỹ ngay từ sau chiến tranh, nhưng 
mãi đến khi, tại Mỹ xảy ra sự kiện “Thứ 
Năm đen tối” (29/10/1929), mở đầu suy 
thoái thị trường chứng khoán New York, 
kinh tế Mỹ bắt đầu rối loạn, thì mới buộc 
Mỹ phá giá USD vào năm 1933 [1]. Tiếp 
theo là hàng loạt các nước khác tuyên bố 
phá giá đồng tiền. Cuộc chiến này lan rộng 
khắp năm châu và kéo dài nhiều năm.
Cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác 
nhau về thời điểm sụp đổ hoàn toàn của chế 
độ bản vị vàng. Trong cuốn “International 
Economics” (Nxb Macmillan, 1969), nhà 
kinh tế Mỹ Bo Sodersten cho rằng “Đồng 
bảng Anh, trung tâm của chế độ bản vị 
vàng, không còn khả năng chuyển đổi ra 
vàng nữa. Hàng loạt các nước khác cũng 
phải theo Anh, chấm dứt chế độ chuyển 
đổi tiền giấy ra vàng. Cuối cùng, đến năm 
1934, dollar Mỹ cũng phá giá. Chế độ 
bản vị vàng hoàn toàn sụp đổ”. Như vậy, 
theo Bo Sodersten, năm 1934 chế độ bản 
vị vàng mới sụp đổ hoàn toàn [2]. 
3. Những hậu quả của chiến tranh 
tiền tệ lần thứ nhất
Chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất đã ảnh 
hưởng đến mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, 
xã hội toàn cầu – một hậu quả tồi tệ mà 
loài người đã từng gánh chịu. Hệ lụy từ 
cuộc chiến tiền tệ lần này là vô cùng rộng 
lớn. Tại các nước công nghiệp phát triển, 
tỉ lệ thất nghiệp lên tới 25-30%, sản lượng 
sản xuất tụt xuống mức -15-20%. Trong 
vòng hai tháng, chỉ số chứng khoán của 
trên 50 thị trường chủ chốt đều biến động 
theo chiều tụt giảm mạnh, trong đó thị 
trường New York, có thể nói, là ảm đạm 
nhất. Ở Mỹ, hơn 11.000 ngân hàng trong 
số 25.000 ngân hàng đổ vỡ [3]. Đợt suy 
thoái này đã được các nhà khoa học kinh 
tế xác định là một trong những đại suy 
thoái trong lịch sử tiền tệ thế giới. Nhiều 
tài liệu còn cho đây là cuộc khủng hoảng 
kinh tế toàn cầu lần thứ nhất, mà hậu quả 
nặng nề của nó cho đến Chiến tranh thế 
giới lần thứ hai kết thúc vẫn chưa khắc 
phục xong. 
Nếu như Chiến tranh thế giới lần thứ 
nhất xảy ra là do mâu thuẫn giữa các đế 
quốc Áo - Hung, Pháp - Phổ,, mà “cú 
hich”, hay còn gọi là “tạo cớ”, cho “giọt 
nước tràn ly” là vụ ám sát hoàng tử nước 
Áo, thì “chiến tranh tiền tệ” lần thứ nhất 
xảy ra do “xung đột nội tại” của bản thân 
nền kinh tế Đức, không có “tạo cớ” nào. 
Chiến tranh thế giới chỉ kéo dài bốn năm 
(1914 -1918), nhưng chiến tranh tiền tệ 
lần thứ nhất kéo rất dài, từ 1921 cho đến 
tận 1936 vẫn chưa kết thúc hoàn toàn. Tuy 
không thiệt hại về mạng sống con người, 
nhưng tổn thất về kinh tế thì không thể tính 
được. Không những thế, chiến tranh tiền 
tệ lần thứ nhất đã làm thay đổi cục diện 
chính trị, thay đổi bộ máy cai trị nhiều 
nước. Nhiều chính phủ bị lật nhào, nhiều 
thế lực mới ở các quốc gia lên nắm quyền 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
28Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 10/2020
điều hành đất nước. Ở Mỹ, Rusevel thay 
Huver. Ở Đức, ở Ý, phái phát xit lên cầm 
quyền. Ở Nhật, phái quân phiệt thắng thế, 
nắm giữ việc điều hành chính thể quốc gia. 
Cục diện mới đó (do chiến tranh tiền tệ tạo 
ra) đã “gieo mầm” cho Đại chiến thế giới 
thứ hai và chiến tranh tiền tệ lần thứ hai. 
Cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ hai là 
cuộc chiến phức tạp, kéo dài nhiều năm, 
có sức tàn phá nặng nề, đánh sụp hoàn 
toàn một hệ thống tiền tệ quốc tế vừa 
mới được dầy công xây dựng trước đó 
không lâu. Cuộc chiến này dẫn đến Đại 
suy thoái kinh tế toàn cầu lần thứ hai. 
Nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của 
cuộc chiến tiền tệ này là khúc bi thương 
kéo dài, vừa “giật dội”, vừa đau đớn. 
Cuộc chiến tiền tệ “thí nghiệm” thực 
hiện cái gọi là “học thuyết súng và bơ” 
của Lyndon B. Johnson, Tổng thống thứ 
36 của Hoa Kỳ, một học thuyết liên quan 
đến vận mệnh và sứ mệnh của Việt Nam, 
mà loài người không bao giờ quên.
Chiến tranh tiền tệ thảm hại như vậy, 
nhưng hiện tại, vì quyền lợi cục bộ nào 
đó, một số người đang có ý định khởi sự 
nó lần thứ ba.
Tất cả mọi người, từ các chính khách 
đến các nhà khoa học, các nhà quản lý,, 
hãy chung sức cùng IMF ngăn chặn chiến 
tranh tiền tệ lần thứ ba đang rình rập. Hãy 
giữ gìn sự ổn định của Hệ thống Tiền tệ 
quốc tế, ngăn chặn đại suy thoái kinh tế 
toàn cầu, đảm bảo cho kinh tế toàn cầu 
tăng trưởng đều đặn không ngừng, để 
nhân loại được bình yên./.
Tài liệu tham khảo
1. Barry Eichengreen (1990). Elusive Stability Essay in the History of International 
Finance 1919-1939. Cambridge University Press, ISBN 0-521-36538-4, S. 145-147.
2. Bo Sodersten (1969). International Economics. Macmillan.
3. Maurice Sbogan (1972). International economic and financial relations. Mason Paris.
4. The Making of the Next Global Crisis. “Economist”, London June, 14, 1965.
Ngày nhận bài: 22/10/2020

File đính kèm:

  • pdfchien_tranh_tien_te_dieu_hanh_ti_gia_hoi_doai.pdf