Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018
Việt Nam là một trong những nước có tốc
độ già hóa nhanh nhất thế giới.¹ Quá trình già
hoá quá nhanh khiến chúng ta không kịp ứng
phó với những thách thức mà nó gây ra. Một
vấn đề cần được chú trọng trong xã hội đang
phát triển hiện nay là chất lượng cuộc sống của
người cao tuổi. Theo Tổ chức Y tế Thế giới,
chất lượng cuộc sống là “sự hiểu biết của cá
nhân về vị trí xã hội của họ trong bối cảnh văn
hóa và hệ thống các giá trị, và trong mối quan
hệ với các mục tiêu, kỳ vọng, chuẩn mực và
mối quan tâm của họ”.2 Chất lượng cuộc sống
thường được đánh giá về bốn khía cạnh chính
là sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm lý, các mối
quan hệ xã hội và môi trường sống.3,4 chất
lượng cuộc sống có những đặc điểm khác nhau
tại các vùng kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hóa, kinh tế,
chính trị của Việt Nam với sự phát triển kinh tế,
dân cư đông đúc. Gánh nặng từ sự già hóa dân
số nhanh chóng đang gây áp lực nặng nề lên sự
phát triển chung của Thủ đô đặc biệt là về đảm
bảo chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi.
Kết quả nghiên cứu tại phường Trung Tự, Hà
Nội năm 2016 cho thấy điểm chất lượng cuộc
sống của người cao tuổi ở tất cả các khía cạnh
đều ở mức trung bình trong đó thấp nhất là khía
cạnh thể chất.⁵ Những năm gần đây, mặc dù
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thủ
đô đã được cải thiện cùng với những tiến bộ
nhất định của hệ thống y tế, chính sách, pháp
luật tuy nhiên đây vẫn còn là một vấn đề gây
nhiều thách thức. Một nguyên nhân không nhỏ
là do thiếu các bằng chứng khách quan phục
vụ việc thiết kế và thực hiện các chính sách và
chương trình can thiệp phù hợp. Vì vậy, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành
phố Hà Nội năm 2018.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 66 TCNCYH 129 (5) - 2020 Tác giả liên hệ: Nguyễn Hữu Thắng, Viện ĐT YHDP &YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội Email: nguyenhuuthang@hmu.edu.vn Ngày nhận: 07/02/2020 Ngày được chấp nhận: 11/06/2020 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 2018 Nguyễn Hữu Thắng1, , Nguyễn Thị Như Ngọc2, Nguyễn Hà Lâm2, Phạm Hải Thanh2, Nguyễn Ngọc Khánh2, Nguyễn Vũ Thiện2, Đỗ Thị Thanh Toàn1, Lê Thị Thanh Xuân1, Nguyễn Thị Phương Thùy3 1 Viện ĐT YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội, 2Sinh viên Viện ĐT YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội, 3Trường Đại học Thành Đô Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 504 người từ 60 tuổi trở lên sử dụng bộ câu hỏi WHOQOL-OLD nhằm mô tả chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018. Kết quả nghiên cứu cho thấy: trung bình điểm chất lượng cuộc sống chung của người cao tuổi theo thang điểm 100 là 74,94 ± 13,14 điểm. Điểm chất lượng cao nhất ở khía cạnh Tình thân với 77,95 ± 21,70 điểm, thấp nhất là Giác quan với 70,56 ± 21,31 điểm. Đa số đối tượng nghiên cứu có CLCS ở mức tốt và khá, tuy nhiên vẫn còn 5,0% ở mức trung bình và 0,4% ở mức thấp. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới.¹ Quá trình già hoá quá nhanh khiến chúng ta không kịp ứng phó với những thách thức mà nó gây ra. Một vấn đề cần được chú trọng trong xã hội đang phát triển hiện nay là chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, chất lượng cuộc sống là “sự hiểu biết của cá nhân về vị trí xã hội của họ trong bối cảnh văn hóa và hệ thống các giá trị, và trong mối quan hệ với các mục tiêu, kỳ vọng, chuẩn mực và mối quan tâm của họ”.2 Chất lượng cuộc sống thường được đánh giá về bốn khía cạnh chính là sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm lý, các mối quan hệ xã hội và môi trường sống.3,4 chất lượng cuộc sống có những đặc điểm khác nhau tại các vùng kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau. Thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của Việt Nam với sự phát triển kinh tế, dân cư đông đúc. Gánh nặng từ sự già hóa dân số nhanh chóng đang gây áp lực nặng nề lên sự phát triển chung của Thủ đô đặc biệt là về đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi. Kết quả nghiên cứu tại phường Trung Tự, Hà Nội năm 2016 cho thấy điểm chất lượng cuộc sống của người cao tuổi ở tất cả các khía cạnh đều ở mức trung bình trong đó thấp nhất là khía cạnh thể chất.⁵ Những năm gần đây, mặc dù chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thủ đô đã được cải thiện cùng với những tiến bộ nhất định của hệ thống y tế, chính sách, pháp luật tuy nhiên đây vẫn còn là một vấn đề gây nhiều thách thức. Một nguyên nhân không nhỏ là do thiếu các bằng chứng khách quan phục vụ việc thiết kế và thực hiện các chính sách và chương trình can thiệp phù hợp. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, người cao tuổi, WHOQOL-OLD, Hà Nội. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 67TCNCYH 129 (5) - 2020 1. Đối tượng Người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) hiện đang sinh sống trong địa bàn thành phố Hà Nội liên tục ít nhất 12 tháng tính đến thời điểm nghiên cứu và tự nguyện tham gia phỏng vấn. Những người từ chối tham gia nghiên cứu hoặc gặp khó khăn trong việc hiểu và hoàn thành bộ câu hỏi đều bị loại. 2. Phương pháp Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Nghiên cứu được triển khai tại thành phố Hà Nội từ tháng 9/2018 đến tháng 6/2019. Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước tính giá trị trung bình trong quần thể: Trong đó: n: là số người cao tuổi cần điều tra; s: độ lệch chuẩn = 10,16 ước tính từ nghiên cứu trước đây;6 ∆ = 0,93: khoảng sai lệch cho phép giữa điểm trung bình chất lượng cuộc sống thu được từ mẫu nghiên cứu và tham số của quần thể; α : Mức ý nghĩa thống kê lựa chọn = 0,05; Giá trị Z thu được từ bảng Z ứng với giá trị a = 0,05 là 1,96. Dự phòng 10%, cỡ mẫu tính được và thực tế số đối tượng tham gia nghiên cứu là 504. Chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn. Chọn ngẫu nhiên hệ thống 3 quận nội thành (Đống Đa, Long Biên, Nam Từ Liêm) và 3 huyện ngoại thành (Thanh Trì, Đông Anh, Thanh Oai) thuộc địa bàn thành phố Hà Nội. Trong mỗi quận / huyện đó chọn ngẫu nhiên hệ thống 3 phường / xã. Trong mỗi phường/ xã chọn mẫu thuận tiện 2 tổ dân phố / thôn. Trong mỗi tổ dân phố / thôn chọn 21 người cao tuổi theo phương pháp “cổng liền cổng”. Thông tin được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người cao tuổi với bộ câu hỏi gồm 2 phần. Phần 1: Thông tin chung về đặc điểm cá nhân gồm: tuổi, giới, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập, nợ nần, bệnh đang mắc, sức khỏe tự đánh giá, người sống cùng, người chăm sóc chính, chủ hộ gia đình, số con, thời gian lưu trú, khu vực sống. Phần 2: Thang đo chất lượng cuộc sống WHOQOL - OLD gồm 24 câu hỏi chia thành 6 khía cạnh, mỗi khía cạnh gồm 4 câu hỏi: Giác quan, Tự chủ, Hoạt động xã hội, Hoạt động quá khứ, hiện tại và tương lai, Cái chết và Tình thân.⁷ 3. Xử lý phân tích số liệu Thông tin được thu thập được nhập, mã hóa bằng phần mềm Epidata 3.1 và phân tích bằng phần mềm STATA 15. Điểm chất lượng cuộc sống được tính bằng tổng điểm của các câu và quy đổi sang thang điểm 100 theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới. Phân loại chất lượng cuộc sống thành 4 mức độ: 0 - 25 điểm: chất lượng cuộc sống thấp. 26 - 50 điểm: chất lượng cuộc sống trung bình. 51 - 75 điểm: chất lượng cuộc sống khá. 76 - 100 điểm: chất lượng cuộc sống cao. Áp dụng các phương pháp phân tích mô tả: tần số, tỷ lệ phần trăm, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn , so sánh sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 4. Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu là một phần nghiên cứu của Đại học Mahidol, Thái Lan tại 5 quốc gia được hội đồng đạo đức Trường đại học Mahidol phê duyệt ngày 10/03/2018 với mã số 2018/218.2809. Các đối tượng tham gia nghiên cứu được giải thích về mục đích, nội dung của nghiên cứu, tự nguyện đồng ý tham gia. Thông tin thu được sẽ được giữ bí mật và chỉ được sử dụng phục vụ cho mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ n = Z1-α/2 2 s 2 ∆2 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 68 TCNCYH 129 (5) - 2020 1. Thông tin chung Nghiên cứu được thực hiện trên 504 người từ 60 tuổi trở lên có độ tuổi trung bình là 67,97 ± 6.93; nhỏ nhất là 60 tuổi và lớn nhất là 92 tuổi. người cao tuổi là nữ giới chiếm đa số với 56,94% và 51,98% người cao tuổi có trình độ THCS/ Trường dạy nghề. người cao tuổi có vợ/ chồng chiếm 74,61%; 22,22% người cao tuổi góa/ ly thân/ ly dị; còn lại 3,17% sống một mình. người cao tuổi sinh sống tại khu vực nông thôn chiếm 53,17%. người cao tuổi có thu nhập từ công việc chiếm 76,39% và chỉ 4,37% đối tượng có nợ nần. Tỷ lệ người cao tuổi tự làm chủ hộ gia đình là lớn nhất với 42,46%. Liên quan đến tình trạng sức khỏe, tỷ lệ người cao tuổi tự đánh giá ở mức độ trung bình là 51,4%. Tỷ lệ người cao tuổi tự đánh giá mức độ tốt và rất tốt là lần lượt là 20,8% và 5,2%. Có 21,4 % người cao tuổi tự đánh giá ở mức không tốt và 1,2% ở mức rất không tốt. Phần lớn người cao tuổi hiện đang sống cùng với vợ/ chồng (72,22%) và con cái (59,33%). Trong sinh hoạt hàng ngày, người cao tuổi tự chăm sóc chiếm 70,04% và 21,63% được chăm sóc bởi vợ/chồng. 2. Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội Bảng 1. Điểm chất lượng cuộc sống người cao tuổi (n = 504) Khía cạnh chất lượng cuộc sống TB ± ĐLC (Thang điểm 100) Giác quan 70,56 ± 21,31 Tự chủ 73,66 ± 19,17 Hoạt động xã hội 75,62 ± 19,98 Hoạt động quá khứ, hiện tại, tương lai 74,21 ± 20,00 Cái chết 77,64 ± 24,50 Tình thân 77,95 ± 21,70 Điểm CLCS chung 74,94 ± 13,14 Trung bình điểm chất lượng cuộc sống chung của người cao tuổi trong nghiên cứu này theo thang điểm 100 là 74,94 ± 13,14 điểm, trong đó cao nhất ở khía cạnh Tình thân với 77,95 ± 21,70 điểm, thấp nhất là Giác quan với 70,56 ± 21,31 điểm. Điểm trung bình của khía cạnh Tự chủ là 73,66 ± 19,17 điểm, khía cạnh Hoạt động xã hội là 75,62 ± 19,98 điểm, khía cạnh Hoạt động quá khứ, hiện tại, tương lai là 74,21 ± 20,00 điểm và khía cạnh Cái chết là 77,64 ± 24,50 điểm. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 69TCNCYH 129 (5) - 2020 Biểu đồ 1. Xếp loại chất lượng cuộc sống của người cao tuổi (N=504) Đa số đối tượng nghiên cứu có chất lượng cuộc sống ở mức tốt với 50,8%, tiếp đó là chất lượng cuộc sống khá với 43,8%. Có 5,0% đối tượng có chất lượng cuộc sống ở mức trung bình và chỉ có 0,4% đối tượng có điểm chất lượng cuộc sống kém. 0,40% 4,96% 43,85%50,79% Thấp Trung bình Khá Tốt IV. BÀN LUẬN WHOQOL-OLD là bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống chú trọng vào các thuộc tính tâm lý của người cao tuổi đã được sử dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Việc đánh giá chất lượng cuộc sống của người cao tuổi dựa trên 6 khía cạnh: Giác quan; Tự chủ; Hoạt động xã hội; Hoạt động quá khứ, hiện tại và tương lai; Cái chết; Tình thân.⁷ Trong sáu khía cạnh trên, khía cạnh “Giác quan” có điểm trung bình thấp nhất là 70,56 ± 21,31 điểm (0 - 100). Kết quả này thấp hơn không đáng kể so với nghiên cứu của Võ Xuân Nam tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2015 với 74,24 ± 20,30 điểm.⁶ Do đó, người cao tuổi cần được kiểm tra thường xuyên chức năng các giác quan nhằm phát hiện sớm những bất thường đồng thời được tư vấn các biện pháp khắc phục những bất tiện sẽ gặp phải gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống. Khía cạnh “Tự chủ” với điểm trung bình 73,66 ± 19,17; cao hơn kết quả nghiên cứu của Gambin và cộng sự tại Brazil năm 2015 với 62,3 ± 10,9 điểm.⁸ Điều này có thể là do sự khác nhau về khu vực giữa địa điểm của hai nghiên cứu. Trong khi Gambin thực hiện nghiên cứu tại một vùng nông thôn thì nghiên cứu này được thực hiện tại Hà Nội – trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của Việt Nam. Trong WHOQOL-OLD, khía cạnh “Hoạt động xã hội” miêu tả mức độ tham gia vào các hoạt động trong đời sống hằng ngày của người cao tuổi, đặc biệt là các hoạt động cộng đồng có điểm trung bình là 75,62 ± 19,98 tương đồng với nghiên cứu của Võ Xuân Nam năm 2015 với 76,02 ± 14,56 điểm.⁶ Có thể thấy, khuyến khích người cao tuổi tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội là một phương pháp trợ giúp họ tự khẳng định vai trò và những đóng góp của mình cho xã hội qua đó chủ động nâng cao chất lượng cuộc sống. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 70 TCNCYH 129 (5) - 2020 Xem xét chất lượng cuộc sống từ sự hài lòng về các thành tựu đã đạt được và những điều mong đợi trong tương lai, khía cạnh “Hoạt động quá khứ, hiện tại và tương lai” có điểm trung bình là 74,21 ± 20,00 và trên thang điểm từ 4 - 20 là 16,10 ± 3,20, cao hơn kết quả nghiên cứu của Bilgili trên 300 người cao tuổi tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 2014 với 13,25 ± 2,92.⁹ Sự khác biệt này có thể giải thích do Nhà nước ta đã thực hiện rất tốt công tác đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với đất nước. Có điểm trung bình khá cao là khía cạnh “Cái chết” với 77,64 ± 24,50 điểm và 16,42 ± 3,92 điểm trên thang điểm từ 4-20, tương đồng với nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Vân Anh năm 2017 tại thị trấn Gia Rai, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.10 Đa phần người cao tuổi không sợ chết nhưng họ sợ đau đớn trước khi chết. Sự lo lắng về bệnh tật đặc biệt là căn bệnh ung thư mang đến nhiều đau đớn trước khi chết làm chất lượng cuộc sống của người cao tuổi kém hơn. Cuối cùng, khía cạnh “Tình thân” cho thấy khả năng có thể có các mối quan hệ cá nhân và thân mật mang lại điểm cao nhất trong 6 khía cạnh là 77,95 ± 21,70. Kết quả này cao hơn so với hầu hết các trung tâm tham gia thử nghiệm bộ công cụ WHOQOL-OLD của WHO.⁷ Xem xét về vấn đề này trên phương diện văn hóa truyền thống của Việt Nam, người già rất nhạy cảm với các chủ đề về tình yêu, tình dục và có thể không thể hiện cảm xúc thật của họ khi được phỏng vấn. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung bình chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2018 là 74,94 ± 13,14, tương đồng với nghiên cứu của Võ Xuân Nam với điểm trung bình chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hồ Chí Minh năm 2015 là 76,62 ± 10,16 điểm.6 Đa số đối tượng nghiên cứu có chất lượng cuộc sống ở mức tốt và khá tuy nhiên vẫn còn 5,0% ở mức trung bình và 0,4% có chất lượng cuộc sống thấp. Kết quả này cao hơn so với một nghiên cứu tại Campuchia năm 2017 với 69,0% người cao tuổi có mức chất lượng cuộc sống thấp.11 Như vậy, chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thành phố Hà Nội là khá cao. Tuy nhiên, cũng cần có thêm các nghiên cứu tương tự tại Hà Nội để làm rõ hơn kết quả này đồng thời tìm hiểu thêm về các yếu tố liên quan. V. KẾT LUẬN Trung bình điểm chất lượng cuộc sống chung của người cao tuổi trong nghiên cứu này theo thang điểm 100 là 74,94 ± 13,14 điểm, trong đó cao nhất ở khía cạnh Tình thân với 77,95 ± 21,70 điểm còn thấp nhất là Giác quan với 70,56 ± 21,31 điểm. Điểm trung bình của khía cạnh Tự chủ là 73,66 ± 19,17 điểm, khía cạnh Hoạt động xã hội là 75,62 ± 19,98 điểm, khía cạnh Hoạt động quá khứ, hiện tại, tương lai là 74,21 ± 20,00 điểm và khía cạnh Cái chết là 77,64 ± 24,50 điểm. Đa số đối tượng nghiên cứu có chất lượng cuộc sống ở mức tốt với 50,8%, tiếp đó là chất lượng cuộc sống khá với 43,8%. Vẫn còn 5,0% đối tượng có chất lượng cuộc sống ở mức trung bình và chỉ có 0,4% đối tượng có điểm chất lượng cuộc sống kém. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế. Báo cáo tổng quan chung ngành Y tế năm 2016. Hướng tới mục tiêu già hóa khỏe mạnh ở Việt Nam. 2016. 2. The World Health Organization quality of life assessment (WHOQOL). Possition paper from the World Health Organization. Soc Sci Med. 1995;41 (10):1403-1409. 3. Conde-Sala JL, Portellano-Ortiz C, Calvó- Perxas L, Garre-Olmo J. Quality of life in people aged 65+ in Europe: associated factors and models of social welfare—analysis of data from the SHARE project (Wave 5). Qual Life Res. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 71TCNCYH 129 (5) - 2020 2017; 26(4):1059-1070. 4. Jan Nilsson, A. K. M. Masud Rana, Zarina Nahar Kabir. Social capital and quality of life in old age: results from a cross-sectional study in rural Bangladesh. J Aging Health. 2006; 18(3):419-434. 5. Vu Toan Thinh. Quality of life and some determinants among the elderly living in Trung Tu commune - Ha Noi. Med Bachelor Hanoi Med Univ. 2013. 6. Nam Xuan Vo, Trung Quang Vo, Somtip Watanapongvanich et al. Measurement and Determinants of Quality of Life of Older Adults in Ho Chi Minh City, Vietnam. Soc Indic Res. 2018; 142(3):1285-1303. 7. WHO. The WHOQOL-OLD module - manual. 2006. 8. G. Gambin, A. Molzahn, A. C. Fuhrmann et al. Quality of life of older adults in rural southern Brazil. 2015;15 (3):3300. 9. Bilgili N, Arpacı F. Quality of life of older adults in Turkey. Arch Gerontol Geriatr. 2014; 59(2):415-421. 10. Huỳnh Ngọc Vân Anh. Trầm cảm và các yêu tố liên quan của người cao tuổi tại thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Lần 34 Đại Học Dược 2017. 2017. 11. Sereyraksmey Long, Supaporn Sudnongbua. Quality of life among elderly people in Kampong Cham province, Cambodia. Southeast Asian J Trop Med Public Health. 2017;48 (4):884-891. Summary QUALITY OF LIFE OF THE ELDERLY IN HANOI CITY IN 2018 A cross-sectional study was conducted to describe the quality of life of the elderly in Hanoi city in 2018. 504 subjects were interviewed using the WHOQOL-OLD questionnaire. Results showed that the overall quality of life of the elderly was 74.94 ± 13,14 on 100 scale. The highest facet scored was Intimacy (77.95 ± 21.70) while the lowest facet scored was the Sensory with 70.56 ± 21.31 points. The majority of participants had quality of life at good and very good level but there was 5.0% at medium level and 0.4% at low level. Keywords: Quality of life, the elderly, WHOQOL-OLD, Hanoi.
File đính kèm:
- chat_luong_cuoc_song_cua_nguoi_cao_tuoi_thanh_pho_ha_noi_nam.pdf