Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ

Tóm tắt

Trong bài bản nhạc cổ truyền Việt Nam, cụ thể là nhạc Tài tử Nam bộ, chúng ta thường bắt gặp những

thuật ngữ như Lớp, Câu, Lái, Mô, Chầu và Rao. Đây được xem là một trong những đặc trưng của nhạc

Tài tử, là khung sườn của bài bản nhạc Tài tử. Hiểu theo âm nhạc phương Tây, thì đó là những hình

thức, cấu trúc của các thể loại hay các tác phẩm. Như vậy, trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, cụ thể là

nhạc Tài tử Nam bộ cũng không ngoại lệ. Với bộ 7 bản Lễ trong 4 bộ Bắc, Lễ Nam, Oán (20 bản Tổ)

của nhạc Tài tử Nam bộ là một trong những minh chứng cho chúng ta thấy sự cân đối, khúc chiết trong

cấu trúc của một loại hình nghệ thuật đặc săc không chỉ của phương Nam mà là của dân tộc.

Từ khoá: nhạc Tài tử, Nam Bộ, cấu trúc, bản Lễ.

Abstract

Among Vietnamese traditional musical composition, especially southern “Tai tu” style, we often see

terms such as “Lop”, “Cau”, “Lai”, “Mo”, “Chau” and “Rao”, which are used to name different units

that constitute the musical piece. These terms make the core of a “Tai tu” composition and are

considered the prominent features of “Tai tu” music. In this paper, 7 musical compositions of group

“Le” (Ceremony) - one of the 4 groups that constitute the heritage of 20 “Tai tu” compositions besides 3

other groups “Bac” (North), “Nam” (South), “Oan” (Sadness) - will be explicated to illustrate the

balanced and concise structure of this treasury art form of Vietnam.

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 1

Trang 1

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 2

Trang 2

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 3

Trang 3

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 4

Trang 4

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 5

Trang 5

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 6

Trang 6

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 7

Trang 7

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 10440
Bạn đang xem tài liệu "Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ

Cấu trúc bảy bản lễ nhạc tài tử Nam Bộ
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017 
 Cấu trúc Bảy bản Lễ nhạc Tài tử Nam Bộ 
 The structure of Seven Ceremonial Compositions in Southern “Tài tử” music 
 TS. Bùi Thiên Hoàng Quân 
 Nhạc viện TP.HCM 
 Bui Thien Hoang Quan, Ph.D. 
 Ho Chi Minh City Conservatoire 
Tóm tắt 
Trong bài bản nhạc cổ truyền Việt Nam, cụ thể là nhạc Tài tử Nam bộ, chúng ta thường bắt gặp những 
thuật ngữ như Lớp, Câu, Lái, Mô, Chầu và Rao. Đây được xem là một trong những đặc trưng của nhạc 
Tài tử, là khung sườn của bài bản nhạc Tài tử. Hiểu theo âm nhạc phương Tây, thì đó là những hình 
thức, cấu trúc của các thể loại hay các tác phẩm. Như vậy, trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, cụ thể là 
nhạc Tài tử Nam bộ cũng không ngoại lệ. Với bộ 7 bản Lễ trong 4 bộ Bắc, Lễ Nam, Oán (20 bản Tổ) 
của nhạc Tài tử Nam bộ là một trong những minh chứng cho chúng ta thấy sự cân đối, khúc chiết trong 
cấu trúc của một loại hình nghệ thuật đặc săc không chỉ của phương Nam mà là của dân tộc. 
Từ khoá: nhạc Tài tử, Nam Bộ, cấu trúc, bản Lễ. 
Abstract 
Among Vietnamese traditional musical composition, especially southern “Tai tu” style, we often see 
terms such as “Lop”, “Cau”, “Lai”, “Mo”, “Chau” and “Rao”, which are used to name different units 
that constitute the musical piece. These terms make the core of a “Tai tu” composition and are 
considered the prominent features of “Tai tu” music. In this paper, 7 musical compositions of group 
“Le” (Ceremony) - one of the 4 groups that constitute the heritage of 20 “Tai tu” compositions besides 3 
other groups “Bac” (North), “Nam” (South), “Oan” (Sadness) - will be explicated to illustrate the 
balanced and concise structure of this treasury art form of Vietnam. 
Keywords: “Tài tử” music, Southern Vietnam, structure, ceremonial composition. 
 Như chúng ta biết, hầu hết các bài bản là Chấn như (Bình Bán Chấn, Xuân Tình 
được sử dụng trong nhạc Tài tử nói chung Chấn,) hoặc gọi là Vắn (Cổ Bản Vắn, 
hay trong số hai mươi bản Tổ nói riêng đều Tây Thi Vắn) nhưng tất cả đều có cấu trúc 
có nguồn gốc từ những bản nhạc không lời. tổng thể giống nhau, nghĩa là đều được 
Và trong nhạc Tài tử Nam bộ, ngoài phần phân Lớp, phân Câu và phân nhịp một cách 
đàn thì phải có phần hát đi theo, nhưng rõ ràng (hiểu theo lối ghi âm nhạc trên năm 
chúng ta cần xác định bản chất của nó, dòng kẻ). 
nhạc Tài tử vẫn là khí nhạc. Tuy trong nhạc a. Lớp: là sự phân chia thành nhiều 
Tài tử Nam bộ thiếu sự nhất quán về hệ phần của một bản nhạc. Do vậy, cấu trúc 
thống, về tên gọi trong các bài bản như khi của mỗi lớp trong nhạc Tài tử là hoàn 
gọi là Trường (Lưu Thủy Trường), khi gọi chỉnh, độc lập và người ta có thể diễn tấu 
 18 
 BÙI THIÊN HOÀNG QUÂN 
độc lập từng lớp riêng. Âm kết của lớp Tài tử. Bảy bản Lễ còn có nhiều cách gọi 
không bắt buộc phải về chủ âm mà là bất khác như: 
kỳ âm nào trong thang âm, điệu thức của - Bảy bản Cò: do bảy bản này có xuất 
bản nhạc. xứ từ nhạc Lễ (phe Văn - dàn nhạc Lễ Nam 
 b. Câu: là đơn vị chia đều của một bộ, phần nhạc đàn chủ yếu là đàn Cò). 
Lớp trong bài bản nhạc Tài tử. Câu nhạc - Bảy bản dây nhạc: phe Văn của dàn 
trong các bài bản nhạc Tài Tử rất cân đối, nhạc Lễ, phần nhạc đàn chủ yếu là đàn Cò, 
khúc chiết, biểu hiện qua số nhịp trong mỗi mà đàn Cò là nhạc khí thuộc bộ dây, nên 
câu. người ta gọi là “dây nhạc”. 
 c. Lái: là đơn vị chia đôi của một nhịp. - Bảy bản Bắc Lớn: còn gọi là bảy bài 
Hiểu theo nhạc giới Tài tử, Lái là nhịp nhỏ, Bắc hay bảy bài Lớn vì nó và bộ sáu bản 
cụ thể trong hai mươi bản Tổ, mỗi Lái Bắc đều cùng hệ thống điệu Bắc hay nói 
tương đương với 2 phách của nhịp 4/4. cách khác là vẫn dùng dây Bắc để đàn bài 
 d. Mô: là đoạn nghỉ thường ở đầu câu bản Lễ, chỉ có khác là sáu bản Bắc lấy Hò - 
nhạc, ít khi xuất hiện ở giữa câu. Xang làm trục còn bảy bản Bắc lớn lấy U - 
 e. Chầu: là đoạn nhạc thêm thắt ở một Xê làm trục. Gọi là Bắc lớn vì các nghệ 
số chỗ kết câu. Về cấu trúc, có thể hiểu câu nhân đánh giá bài bản Lễ có vị trí “Lớn” 
Chầu là câu bổ sung của câu nhạc trước đó, hơn bài bản Bắc. 
làm cho người nghe hiểu rằng bản nhạc chưa - Bảy bản Hạ: Khi trình tấu nhạc Lễ, 
kết thúc. Cũng giống như Mô, câu nhạc mở bản Ngũ Đối Hạ được sử dụng nhiều nhất 
rộng này phải có tối thiểu là ba Lái. nên các nhạc sĩ thường gọi tắt là “bài Hạ” 
 f. Rao: Trước khi vào một bản đàn, và đã lấy chữ “Hạ” thay cho chữ “Lễ” khi 
một bản hòa tấu, hoặc khi đệm cho ca, nói đến bảy bản Lễ. Cũng có người cho 
nhạc công phải diễn tấu một đoạn nhạc rằng gọi là bảy bài Hạ vì khi trình tấu nhạc 
mang tính tự do, ngẫu hứng, giới Tài tử gọi Lễ, các nhạc sĩ phải lên dây Hạ. Trường 
là “Rao”. hợp này là do trong nhạc Tài tử, tùy theo 
 Sắc thái, nhịp độ: Trong tất cả các bài bài bản thuộc hệ thống thang âm, điệu thức 
bản nhạc Tài tử là không có ghi chú hay nào, lấy âm nào làm trục, các nhạc sĩ sẽ tìm 
quy định sắc thái, nhịp độ, Theo Giáo sư hệ thống dây hay loại Hò phù hợp để diễn 
Trần Văn Khê, nhạc Tài ... y, do bản Ngũ 
 - Cấp điệu = Tẩu mã = Presto Đối Hạ được thường xuyên sử dụng và 
 - Bình điệu = Đoản, Vắn = Allegro, được gọi là bài Hạ, bảy bản Lễ cũng gọi là 
Allegretto, đôi khi là Moderato bảy bản Hạ nên cách lên dây để đàn bản 
 - Hoãn điệu = Trường = Lento (1) Ngũ Đối Hạ nói riêng hay bảy bản Lễ nói 
 - Giữa Hoãn điệu và Bình điệu là nhịp chung được gọi là dây Hạ. 
Lơi, tức đàn mở ra, chậm lại, tương đương Do xuất xứ từ nhạc Lễ nên bảy bản 
Andante nhạc Lễ đều mang tính chất trang nghiêm 
 Những vấn đề về cấu trúc của 7 bản Lễ với thang âm chủ đạo là Hò – Xư – Xang – 
 Theo một số nhà nghiên cứu, ông Xê – Công – Liu. 
Nguyễn Quang Đại, tức Ba Đợi đã chuyển Xàng Xê 
soạn các bài bản từ nhạc Lễ sang cho nhạc Nếu bản Ngũ Đối Hạ được sử dụng 
 19 
CẤU TRÚC BẢY BẢN LỄ NHẠC TÀI TỬ NAM B 
nhiều nhất trong những buổi sinh hoạt của đó sẽ được chuyển thành Chầu 2 lái, nghỉ 1 
nhạc Lễ thì khi đưa vào nhạc Tài tử, bản lái. Chữ kết của câu Chầu trùng với chữ kết 
Xàng Xê lại là bài thông dụng nhất. Bản của câu trước đó. Trong khi hòa đàn, 
nhạc có tính chất trang nghiêm nhưng những câu Chầu có thể chuyển thành Mô. 
không căng cứng, đôi lúc giai điệu rất du + Dứt các lớp ở bậc I và V, nhịp nội 
dương, ngân nga. Đặc biệt bản nhạc có sự Song Loan. 
xen lẫn hai thang âm trong cùng một lớp đã Ngũ Đối Thượng 
tạo cho người nghe cảm giác rất thú vị. Với nhịp độ vừa phải, Ngũ Đối 
 Xàng Xê được viết theo nhịp tám, lái Thượng được thể hiện với một phong cách 
mười sáu hay còn gọi là nhịp tư lơi, có 4 đỉnh đạc, cùng với sự xuất hiện của các 
lớp và 64 câu. Mở đầu bằng chữ Xang và chữ nhạc I, Phan đã làm cho bản nhạc có 
Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song Loan. màu sắc “Lễ” hơn. 
 + Đặc biệt ở lớp III (lớp Xề), thang âm Ngũ Đối Thượng được viết theo nhịp 
đã thay đổi thành Xề - Phan - Liu - U - tư, lái tám, có 5 lớp và 61 câu. Mở đầu 
Xang. Đây là sự chuyển hơi điệu thức, lấy bằng chữ U và Kết bằng chữ Liu, nhịp nội 
Xê làm Hò, do đó, ta có thể có điệu thức Song Loan. 
Hò - I (2) - Xang - Xê - Phan, hơi Nam - + Có 2 âm ngoại I và Phan là hai âm 
Oán. Hai điệu thức này thay đổi gần như lướt. 
liên tục nên người nghe có được cảm giác + Một số nhạc sĩ thì chia lớp I có 16 
buồn vui hòa lẫn vào nhau. câu, lớp II 8 câu, lớp III có 8 câu, lớp IV có 
 + Các lớp đều có nhiều câu, ít nhất 12 16 câu và lớp V có 13 câu. Một số nhạc sĩ 
câu (Lớp III), nhiều nhất 20 câu (Lớp I). khác sắp xếp lớp I có 10 câu, lớp II có 6 
Ngoài cách chia lớp như trên, còn có cách câu, lớp III có 8 câu, lớp IV có 24 câu và 
chia bản nhạc thành 5 lớp vì giới nhạc Tài lớp V cũng có 13 câu. Chúng tôi chọn cách 
tử, Cải lương ngày nay thường chỉ hát 8 chia lớp như phân tích trên vì thấy rằng độ 
câu đầu nên đặt luôn là lớp I, còn 12 câu dài của mỗi lớp không có cách biệt quá 
sau thì đặt là lớp II. Chúng tôi chọn cách lớn, bố cục bản nhạc cân đối hơn. 
chia lớp như trên để bảo đảm tính cổ truyền + Có nhiều câu trùng, nhiều nhất là ở 
của bài bản. lớp II, từ câu 18 đến câu 22 giống từ câu 
 + Có nhiều câu trùng với nhau như 10 đến câu 15 của lớp I, câu 24 cũng trùng 
trong lớp II, câu 23 trùng câu 21, câu 31 với câu 10. 
trùng câu 28; Nhiều nhất là ở lớp IV, hầu + Lớp I và II không nghỉ 3 lái như 
hết đều giống các câu ở lớp I: từ câu 49 – thường gặp. Các lớp III, IV và V khi vào 
54 giống từ câu 9 – 14, câu 55, 56 giống đầu có thể nghỉ 3 lái nếu chúng được trình 
câu 11, 12, câu 57, 58 giống câu 15, 16, từ tấu độc lập nhưng nếu trình tấu một cách 
câu 59 – 62 giống từ câu 11 – 14, câu 63 lien hoàn từ lớp này sang lớp kia thì 3 lái 
giống câu 11. đó sẽ được chuyển thành chầu 2 lái, nghỉ 1 
 + Nghỉ 3 lái trước khi vào bản nhạc lái.Chữ kết của câu Chầu trùng với chữ kết 
hay vào lớp I. Các lớp II, III và IV khi vào của câu trước đó.Trong khi hòa đàn, những 
đầu có thể nghỉ 3 lái nếu chúng được trình câu Chầu có thể chuyển thành Mô. 
tấu độc lập nhưng nếu trình tấu một cách + Thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp 
liên hoàn từ lớp này sang lớp kia thì 3 lái ngoại Song Loan. 
 20 
 BÙI THIÊN HOÀNG QUÂN 
 + Kết các lớp ở bậc I và II (rất ít gặp), Long Đăng 
nhịp nội Song Loan. Với tiết tấu vừa phải, tính chất âm 
 Ngũ Đối Hạ nhạc khoan thai, đượm một ít sự u buồn, do 
 Như trên đã nêu, Ngũ Đối Hạ là tác đó, Long Đăng không thể hiện rõ nét trang 
phẩm được sử dụng nhiều nhất trong nghiêm như thường thấy trong nhạc Lễ. 
những buổi trình tấu nhạc Lễ, còn được gọi Long Đăng được viết theo nhịp tư, lái 
là bản Hạ và đã trở thành tên gọi của bộ tám, có 3 lớp và 40 câu. Mở đầu bằng chữ U 
bảy bản Lễ: bảy bài Hạ. Tính chất nghiêm và Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song Loan. 
trang là tính chất chung của bảy bản Lễ mà + Có 2 âm ngoại I và Phan. Âm I đôi 
Ngũ Đối Hạ như là một đại diện. lúc có giá trị như âm chính, làm cho điệu 
 Ngũ Đối Hạ được viết theo nhịp tư, lái thức có sự chuyển tạm (ly điệu) sang Hò – 
tám, có 5 lớp và 38 câu. Mở đầu bằng chữ I – Xang – Xê – Công – Liu. 
Liu và Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song + Lớp I có câu 3 và 4 trùng câu 9 và 
Loan. 10. Tất cả các câu của lớp III (từ câu 29 
 + Có 2 âm ngoại I và Phan. Âm I đôi đến 40) trùng từ câu 5 đến câu 16 của lớp I. 
lúc có giá trị là âm chính, làm cho điệu + Chỉ có lớp I nghỉ 3 lái trước khi vào 
thức có sự chuyển tạm (ly điệu) sang Hò – bản nhạc, còn các lớp khác thì không. 
I – Xang – Xê – Công – Liu (là điệu thức Không thấy sự xuất hiện của Chầu hay Mô 
Nam nhưng khác Hơi). ở giữa bài. 
 + Một số nhạc sĩ chia bản nhạc chỉ có + Thường sử dụng nhịp ngoại. 
ba lớp: lớp I có 20 câu, lớp II có 10 câu và + 3 lớp đều kết ở âm bậc I, nhịp nội 
lớp III có 8 câu. Chúng ta dễ dàng nhận Song Loan. 
thấy sự mất cân đối giữa các lớp nếu được Long Ngâm 
phân chiatheo cách này nên chúng tôi chọn Như Long Đăng, Long Ngâm cũng 
cách chia thành năm lớp như trên. Trong không thể hiện rõ tính trang nghiêm của 
khi các lớp II, III, IV có số câu chẵn thì lớp nhạc Lễ mà lại nhẹ nhàng, khoan thai, 
I và V có số câu lẻ, lớp V còn là lớp dài mang nhiều chất tự sự. 
nhất (11 câu). Long Ngâm được viết theo nhịp tư, lái 
 + Có nhiều câu trùng, nhiều nhất là ở tám, có 3 lớp và 33 câu. Mở đầu bằng chữ Xư 
lớp III, từ câu 16 đến câu 21 giống từ câu và Kết bằng chữ Xang, nhịp nội Song Loan. 
10 đến câu 15 của lớp II, câu 24 cũng trùng + Có 2 âm ngoại I và Phan. Âm I đôi 
với câu 10. lúc có giá trị là âm chính, làm cho điệu 
 + Chỉ có lớp I nghỉ 3 lái trước khi vào thức có sự chuyển tạm (ly điệu) sang Hò – 
bản nhạc, còn các lớp khác thì không. Việc I – Xang – Xê – Công – Liu. 
không nghỉ 3 lái trước khi vào mỗi lớp đã + Lớp I có câu 6 và 7 trùng câu 2 và 3. 
tạo cho người nghe một cảm xúc trọn vẹn + Nghỉ 3 lái trước khi vào bản nhạc 
từ đầu đến cuối bản nhạc, không bị chia cắt hay vào lớp I. Các lớp II và III khi vào đầu 
ở các lớp với nhau. Ngoài ra, cả bản nhạc có thể nghỉ 3 lái nếu chúng được trình tấu 
không có sự xuất hiện của Chầu hay Mô. độc lập nhưng nếu trình tấu một cách liên 
 + Thường sử dụng nhịp ngoại. hoàn từ lớp này sang lớp kia thì 3 lái đó sẽ 
 + Kết các lớp ở bậc I, II và V, nhịp nội được chuyển thành chầu 2 lái, nghỉ 1 lái. 
Song Loan. Chữ kết của câu Chầu trùng với chữ kết 
 21 
CẤU TRÚC BẢY BẢN LỄ NHẠC TÀI TỬ NAM B 
của câu trước đó. Trong khi hòa đàn, trong bộ bảy bản Lễ: 29 câu. Nhịp độ chậm 
những câu Chầu có thể chuyển thành Mô. rãi, tính chất trang nghiêm của nhạc Lễ 
 + Thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp được thể hiện rất rõ. 
ngoại Song Loan. Tiểu Khúc được viết theo nhịp tư, lái 
 + Bài không có lớp nào kết ở âm bậc I tám, có 4 lớp và 29 câu. Mở đầu bằng chữ U 
mà kết ở những bậc II, V và VI. Các lớp và Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song Loan. 
đều kết ở nhịp nội Song Loan. + Có 2 âm ngoại I và Phan. 
 Vạn Giá + Một số nhạc sĩ chia bản nhạc thành 4 
 Tính chất âm nhạc trang nghiêm. Tuy lớp nhưng số câu trong mỗi lớp khác nhau: 
Vạn Giá đã được “chuyển hóa” để mang lớp I – 10 câu, lớp II – 7 câu, lớp III – 8 
cho mình phong cách Tài tử nhưng sự đỉnh câu và lớp IV – 4 câu. Ngoài ra, chúng ta 
đạc của nhạc Lễ vẫn còn thể hiện rất rõ. còn thấy một số nhạc sĩ chia bản nhạc chỉ 
 Vạn Giá được viết theo nhịp tư, lái tám, còn 3 lớp: lớp I – 10 câu, lớp II – 7 câu và 
có 5 lớp và 47 câu Mở đầu bằng chữ Liu và lớp III – 12 câu. 
Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song Loan. + Có một số câu trùng nhau như ở lớp 
 + Có 2 âm ngoại I và Phan. Âm I đôi III: các câu 20, 21, 22 trùng với các câu 16, 
lúc có giá trị là âm chính, làm cho điệu 17, 18. 
thức có sự chuyển tạm (ly điệu) sang Hò – + Các lớp đều được vào thẳng, không 
I – Xang – Xê – Công – Liu. nghỉ 3 lái trước khi vào bản nhạc hay vào 
 + Có một số câu trùng nhau như ở lớp các lớp như thường thấy. Thêm nữa, cả bản 
III – các câu 20, 21, 22 trùng với các câu nhạc chỉ có hai câu Chầu (hoặc Mô) nhưng 
16, 17, 18. lại xuất hiện liền nhau và rất sớm là câu 2 
 + Nghỉ 3 lái trước khi vào bản nhạc hay và 3 của lớp I. Chữ kết của câu Chầu trùng 
vào lớp I. Các lớp khác khi vào đầu có thể với chữ kết của câu trước đó. Trong khi 
nghỉ 3 lái nếu chúng được trình tấu độc lập hòa đàn, những câu Chầu có thể chuyển 
nhưng nếu trình tấu một cách liên hoàn từ thành Mô. 
lớp này sang lớp kia thì 3 lái đó sẽ được + Thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp 
chuyển thành Chầu 2 lái, nghỉ 1 lái. Chữ kết ngoại Song Loan. 
của câu Chầu trùng với chữ kết của câu trước + Cả ba lớp đều Kết ở âm bậc I, nhịp 
đó. Trong khi hòa đàn, những câu Chầu có nội Song Loan. 
thể chuyển thành Mô. Đặc biệt là sự xuất Tóm lại, trong cấu trúc của bảy bản 
hiện câu Chầu hay Mô rất sớm như Chầu ở Lễ, ta thấy có những điểm như sau: 
câu thứ 2 của lớp III (câu 16), hoặc rất muộn - Về thang âm: Hò – Xư – Xang – Xê – 
như câu Kết của lớp V (câu 47). Việc Chầu ở Công – Liu là thang âm chủ đạo. Tuy nhiên, 
câu 47 làm cho câu nhạc này có giá trị như với sự xuất hiện thường xuyên của hai âm 
câu Kết của lớp và của bản nhạc. ngoại là I và Phan đã làm cho hơi Lễ được 
 + Thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp thể hiện một cách rõ nét hơn. Khác với âm 
ngoại Song Loan. ngoại (Phan) trong bộ sáu bản Bắc có giá trị 
 + Kết lớp ở âm bậc I, V và VI, nhịp như âm lướt, thường hay xuất hiện ở cuối 
nội Song Loan. các lớp, cuối bản nhạc, âm chữ I trong bảy 
 Tiểu Khúc bản Lễ đôi lúc trở thành âm chính của câu 
 Đây là bản nhạc có số câu ngắn nhất nhạc, tạo nên sự chuyển đổi điệu thức tạm 
 22 
 BÙI THIÊN HOÀNG QUÂN 
thời (hình thức ly điệu trong âm nhạc vào đầu của các bản nhạc, các Lớp không 
phương Tây) sang Hò – I – Xang – Xê – quy định phải là âm nào của thang âm mà 
Công. Ngoài ra, đã có sự luân chuyển Thang bất kỳ, tùy theo yêu cầu của bài bản. Chữ 
âm – Điệu thức – Hơi: Bản Xàng Xê, lớp kết ở các Câu, các Lớp không quy định ở 
Xề, từ Hò – Xư – Xang – Xê – Công chuyển bậc nào trong thang âm nhưng chữ kết của 
sang Hò – I – Xang – Xê – Phan. Hai thang các bản, hầu hết đều về chủ âm, ngoại trừ 
âm này được kết nối xen lẫn nhau, đã tạo bản Long Ngâm kết ở chữ Xang (bậc IV). 
cảm giác mới lạ cho người nghe. Kết lớp hay kết bài hầu hết đều ở phách 1 
 - Về tính chất: Tuy một vài bản nhạc có (nhịp nội Song Loan), riêng lớp II (lớp Hò) 
tiết tấu chậm rãi, tạo nên một phong cách bản Xàng Xê kết ở phách 3, nhịp thứ 4 
thư thái, nhàn hạ, đôi lúc có nét u buồn (nhịp ngoại Song Loan). Trong mỗi bản 
nhưng sự trang nghiêm vẫn là tính chất chủ đều có một số câu trùng lặp với nhau. 
đạo trong âm nhạc của bảy bản Lễ. - Về Chầu, Mô: Việc Mô hay nghỉ 3 
 - Về Lớp: các lớp có độ dài, ngắn khác lái trước khi vào bản nhạc đa số vẫn được 
nhau nhưng không chênh lệch nhiều nên bố tuân thủ, ngoại trừ Ngũ Đối Thượng và 
cục của các bản Lễ nhìn chung là cân đối. Tiểu Khúc. Đối với những bản nhạc có 
Riêng bản Vạn Giá có bố cục ít cân đối nghỉ 3 lái ở mỗi lớp, nếu được trình tấu độc 
hơn do có lớp quá ngắn như lớp II chỉ có 6 lập, chúng sẽ nghỉ 3 lái nhưng nếu được 
câu trong khi lớp IV lại có tới 14 câu. Đa trình tấu liên hoàn thì 3 lái đó sẽ được 
số các bài bản có 4 lớp, một số chia thành 5 chuyển thành Chầu 2 lái, nghỉ 1 lái. Bảy 
lớp như Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ; bản Lễ có ít câu Chầu và Mô hơn sáu bản 
Một số chia thành 3 lớp là Long Đăng, Bắc. Hầu hết các bản nhạc đều có Mô và 
Long Ngâm. Cũng như các bản Bắc, việc Chầu ở giữa bài, chỉ riêng bản Ngũ Đối Hạ 
phân lớp của bảy bản Lễ hiện nay vẫn chưa thì không. Các câu Chầu đều có chữ dứt 
đi đến sự thống nhất trong giới nhạc Tài tử trùng với chữ dứt của câu nhạc trước đó. 
như bản Ngũ Đối Hạ, người chia năm lớp, Các câu Chầu hay Mô không diễn ra một 
người chia ba lớp hay bản Tiểu Khúc, cách đều đặn mà rất tùy thích, thường thì 
người chia bốn lớp, người lại chia còn ba phải cách mấy câu mới có Chầu hay Mô, 
lớp. Số câu trong mỗi lớp cũng có sự sắp cũng có khi cách một câu đã có như ở các 
xếp, phân chia khác nhau như trong bản câu 15, 17, 19 ở lớp I bản Xàng Xê, lúc thì 
Ngũ Đối Thượng. Không có hiện tượng cứ câu 3 của mỗi lớp là có như trong bản 
giống nguyên xi giữa các lớp với nhau Ngũ Đối Thượng. Đặc biệt cũng trong bản 
trong cùng một bản thuộc bộ bảy bản Lễ; Ngũ Đối Thượng, ta thấy Chầu hay Mô 
Ngũ Đối Thượng, Long Ngâm, Tiểu Khúc xuất hiện ở hai câu liền nhau ở câu 7 và 
và Vạn Giá có tổng số câu bị lẻ còn các câu 8; Ta cũng thấy điều này ở câu 2 và 3 
bản khác đều chẵn. của lớp I trong bản Tiểu Khúc. Ngoài ra, 
 - Về Câu: thông thường ở các bản Bắc, Chầu hay Mô đôi khi xuất hiện rất sớm khi 
câu nhạc được kết thúc ở các câu chẵn và mới câu 2 đã có (lớp I – Tiểu Khúc và lớp 
sau đó sẽ Chầu hay Mô ở những câu lẻ III –Vạn Giá) hoặc rất muộn như tới câu 47 
nhưng trong bảy bản Lễ thì việc kết câu cũng là câu kết của bản Vạn Giá mới xuất 
không thấy theo kết cấu như trên mà có thể hiện, những điều này rất ít gặp trong nhạc 
kết thúc ở vị trí nào, câu nào tùy thích. Chữ Tài tử, cụ thể là trong các bản thuộc các bộ 
 23 
CẤU TRÚC BẢY BẢN LỄ NHẠC TÀI TỬ NAM B 
Bắc, Lễ và Nam. dụng nhịp ngoại và nhịp ngoại Song Loan, 
 - Về nhịp: các bản nhạc Lễ hay sử có khi gần như liên tục. 
 CẤU TRÚC BẢY BẢN LỄ 
 24 
 BÙI THIÊN HOÀNG QUÂN 
Chú thích: 3. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2010), Nhạc khí trong 
1. Trương Bỉnh Tòng (1992), Từ điệu đến hơi và “dàn đờn” Tài tử (Nam Bộ), ANVN số 13. 
 quá trình hình thành bản Vọng Cổ, Viện 4. Nguyễn Thụy Loan (1990), Lược sử âm nhạc 
 nghiên cứu Cải lương, tr. 5. Việt Nam, Nxb âm nhạc Hà Nội, Nhạc Viện 
2. Tác giả, âm Xư nhấn mạnh hơn một chút Hà Nội. 
 thành âm I. 5. Đắc Nhẫn (1990), Văn hóa và cư dân đồng 
TÀI LIỆU THAM KHẢO bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội. 
1. Nguyễn Hữu Ba (1970), Nhạc pháp quốc 6. Lê Thương (1963), Nhạc lý quốc nhạc, Nxb 
 nhạc, Trường QGAN & Kịch nghệ Sài Gòn. Nhạc Thư. 
2. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc 7. Trương Bình Tòng (1992), Từ điệu đến hơi và 
 Đường (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng quá trình hình thành bản Vọng Cổ, Viện 
 sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội. Nghiên cứu Cải lương. 
Ngày nhận bài: 08/01/2017 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017 
 25 

File đính kèm:

  • pdfcau_truc_bay_ban_le_nhac_tai_tu_nam_bo.pdf