Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly

Increased life expectancy is one of the great achievements in socio-economic development in general

and health care in particular. However, rapid aging of the population poses a great challenge to

the health care system for the elderly, especially the grassroots level such as the commune health

stations. This study aims to describe the capacity of commune health stations to provide Health care

services for the elderly.

The study applied the mixed method of quantitative and qualitative research. It conducted at 15

medical stations and medical centers in Can Duoc district, Long An province, Vietnam.

Study results show that the health stations are not ready to provide health care services for the

elderly due to lack of health workers; Inadequate of drugs and equipment for screening, diagnosis

and treatment of common chronic diseases in the elderly such as hypertension, diabetes, HPQ/

COPD, cancer.

Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly trang 1

Trang 1

Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly trang 2

Trang 2

Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly trang 3

Trang 3

Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly trang 4

Trang 4

Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly trang 5

Trang 5

Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 7820
Bạn đang xem tài liệu "Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly

Capacity of commune health stations to provide health care services for the elderly
119
CAPACITY OF COMMUNE HEALTH STATIONS TO 
PROVIDE HEALTH CARE SERVICES FOR THE ELDERLY
Nguyen Thi Thuy Nga1,*, Van Cong Man2
1Hanoi University of Public Health
2Health Centre at Can Duoc district, Long An province
Received 22/03/2021 
Revised 29/03/2021; Accepted 03/04/2021
ABSTRACT
Increased life expectancy is one of the great achievements in socio-economic development in general 
and health care in particular. However, rapid aging of the population poses a great challenge to 
the health care system for the elderly, especially the grassroots level such as the commune health 
stations. This study aims to describe the capacity of commune health stations to provide Health care 
services for the elderly.
The study applied the mixed method of quantitative and qualitative research. It conducted at 15 
medical stations and medical centers in Can Duoc district, Long An province, Vietnam.
Study results show that the health stations are not ready to provide health care services for the 
elderly due to lack of health workers; Inadequate of drugs and equipment for screening, diagnosis 
and treatment of common chronic diseases in the elderly such as hypertension, diabetes, HPQ/
COPD, cancer.
Keyword: Commune Health Statioan, the elderly, health care service, capacity to provide.
Journal of Community Medicine, Vol 62, No 4 (2021) 119-124
INSTITUTE OF COMMUNITY HEALTH
*Corressponding author
 Email address: nttn@huph.edu.vn
 Phone number: (+84) 966 132 466
 https://doi.org/10.52163/yhcd.v62i4.119
120
SỰ SẴN SÀNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC 
KHOẺ NGƯỜI CAO TUỔI TẠI CÁC TRẠM Y TẾ
Nguyễn Thị Thúy Nga1,*, Văn Công Mẫn2
1Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội
2Trung tâm Y tế huyện Cần Đước, tỉnh Long An
Ngày nhận bài: 22 tháng 03 năm 2021
Chỉnh sửa ngày: 29 tháng 03 năm 2021; Ngày duyệt đăng: 03 tháng 04 năm 2021
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại hội thế giới về NCT tại Viên (1982) đã thống nhất: 
công dân từ 60 tuổi trở lên được xếp vào nhóm NCT. 
Tại Việt Nam, Quốc hội ban hành Pháp lệnh Người cao 
tuổi (4/2000) và Luật Người cao tuổi (11/2009) quy 
định những người từ 60 tuổi trở lên (không phân biệt 
giới tính) là NCT [1].
Kết quả tổng điều tra dân số năm 2019 cho thấy, tuổi 
thọ trung bình của người Việt Nam là 73,6 tuổi (nam là 
71 tuổi; nữ là 76,3 tuổi). Hiện nay, số người từ 60 tuổi 
trở lên ở Việt Nam chiếm 11,9%, người từ 65 tuổi trở 
lên chiếm 7,9%. Dự báo khoảng 20 năm nữa, người 
trên 65 tuổi sẽ chiếm 14% dân số. Nhiều NCT đang 
phải đối diện với gánh nặng “bệnh tật kép”, trung bình 
mỗi NCT mắc 2,7 bệnh mãn tính [2]. NCT phải đối 
diện với nguy cơ tàn phế do quá trình lão hóa và chi phí 
điều trị lớn [3].
Để sẵn sàng cung cấp dịch vụ CSSK NCT, Tổ chức 
Y tế thế giới (WHO) đã xây dựng gói can thiệp thiết 
yếu phòng chống BKLN (WHO-PEN) [4] thường gặp ở 
NCT như như: THA, ĐTĐ, HPQ/COPD, ung thư.
TÓM TẮT
Tuổi thọ tăng là một trong những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chăm 
sóc sức khỏe nói riêng. Tuy nhiên, già hóa dân số diễn ra với tốc độ nhanh đặt ra thách thức lớn hệ 
thống chăm sóc sức khỏe (CSSK) người cao tuổi (NCT), đặc biệt tuyến y tế cơ sở như các Trạm Y 
tế. Nghiên cứu này nhằm mô tả sự sẵn sàng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi tại 
trạm y tế. 
Nghiên cứu kết hợp giữa định lượng và định tính tại 15 trạm y tế và Trung tâm y tế huyện Cần Đước, 
tỉnh Long An, Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các trạm y tế chưa sẵn sàng cung cấp dịch vụ CSSK người cao tuổi do 
thiếu nhân lực y tế; chưa đảm bảo về thuốc, trang thiết bị (TTB) để khám sàng lọc, chẩn đoán và điều 
trị các bệnh bệnh mạn tính thường gặp ở người cao tuổi (NCT) như: Tăng huyết áp (THA), Đái tháo 
đường (ĐTĐ), Hen phế quả/Phổi tắc nghẽn mãn tính (HPQ/COPD) và ung thư.
Từ khoá: Trạm Y tế, dịch vụ Y tế, người cao tuổi, sẵn sàng cung ứng.
*Tác giả liên hệ
 Email: nttn@huph.edu.vn
 Điện thoại: (+84) 966 132 466
 https://doi.org/10.52163/yhcd.v62i4.119
N.T.T. Nga et al. / Journal of Community Medicine, Vol 62, No 4 (2021) 119-124
121
Hiện tại, có rất ít tài liệu nghiên cứu về sự sẵn sàng 
cung cấp dịch vụ CSSK NCT trên thế giới cũng như ở 
Việt Nam. Sự sẵn sàng cung cấp dịch vụ CSSK NCT 
là năng lực tổng thể của các CSYT có thể cung cấp 
các dịch vụ CSSK cho NCT. Mức độ sẵn sàng được đo 
lường bằng mức độ sẵn sàng của các cấu phần cơ bản 
để cung cấp dịch vụ như: Nhân lực, CSVC cơ bản, TTB 
cơ bản, các quy định về cung cấp dịch vụ CSSK, năng 
lực chẩn đoán và thuốc thiết yếu [4].
Do vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mô tả sự 
sẵn sàng cung cấp dịch vụ CSSK NCT của hệ thống 
YTCS từ đó đưa ra các khuyến nghị để cải thiện việc 
sẵn sàng cung cấp dịch vụ CSSK NCT.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
2.1. Thiết kế và địa điểm nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại 15 trạm y tế và Trung 
tâm y tế huyện Cần Đước, tỉnh Long An, Việt Nam. 
Tổng dân số tại huyện Cần Đước là 194 130, có 29 584 
người cao tuổi (tỷ lệ 15,23%).
2.2. Phương pháp thu thập số liệu
 Phương pháp kết hợp giữa định lượng (phát phiếu tự 
điền cho cán bộ y tế phiếu quan sát trực tiếp cơ sở vật 
chất, thuốc, trang thiết bị theo bảng kiểm) và định tính 
(PVS với 1 giám đốc TTYT; 15 trưởng TYT xã và TLN 
với 24 người cao tuổi và các bên liên quan tại 3 xã).
2.3. Công cụ nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng bộ công cụ SARA của Tổ chức Y 
tế thế giới, đã được điều chỉnh cho phù hợp với mục 
tiêu và bối cảnh nghiên cứu tại địa phương. Bộ công 
cụ bao gồm những nội dung chính sau: Sự sẵn có về 
nhân lực; truyền thông giáo dục CSSK NCT; dịch vụ 
chăm sóc sức khoẻ (sàng lọc, tư vấn, chẩn đoán, điều 
trị); thuốc thiết yếu và trang thiết bị tại 15 trạm y tế và 
1 TTYT.
2.4. Đạo đức của nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu đã được Hội đồng Đạo đức của 
Trường Đại học Y tế Công cộng xem xét, phê chuẩn 
theo sự chấp thuận số 276/2020/YTCC-HD3, ngày 
01/87/2020 của Hội đồng đạo đức trong NCYSH. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nhân lực tại Trạm Y tế
N.T.T. Nga et al. / Journal of Community Medicine, Vol 62, No 4 (2021) 119-124
Bảng 1: Tình hình nhân lực tại 15 TYT xã
STT Đặc điểm n %
1 Tổng số cán bộ y tế 206 100
CBYT tại TYT xã 88 42,7
Y tế thôn bản 118 57,3
2 Trình độ chuyên môn 88 100
Bác sĩ đa khoa 6 6,8
Bác sĩ chuyên khoa I 3 3,4
Điều dưỡng đại học/cao đẳng 2 2,3
Y sĩ đa khoa 10 11,4
Y sĩ sản nhi 6 6,8
Y sĩ y học cổ truyền 10 11,4
Hộ sinh trung học 11 12,5
KTV, điều dưỡng trung học 14 15,9
Dược sĩ trung học 14 15,9
Khác......... 12 13,6
122
90% nhân viên y tế xã có trình độ trung cấp, trình độ cao 
đẳng; trình độ đại học chiếm một tỷ lệ rất thấp (khoảng 
10%). Kết quả NC cho thấy nguồn nhân lực y tế xã còn 
thiếu so với chỉ tiêu biên chế quy định1 là 47 biên chế. 
Các TYT đều có CBCT quản lý chung các bệnh mạn 
tính thường gặp của NCT. Tuy nhiên, tỷ lệ số CBYT 
xã đã tham gia tập huấn một số bệnh thường gặp của 
người cao tuổi khá thấp: THA và ĐTĐ là 22,7%; 
HPQ/ COPD (18,2%) và bệnh ung thư thấp nhất với 
tỷ lệ 9,1%. Cán bộ phụ trách chương trình TYT xã cho 
biết rằng: “...Việc tham gia tập huấn các bệnh mạn 
tính ở NCT còn hạn chế do thiếu nguồn nhân lực...” 
(PVS 1,4,5,7, 8,15, TYT).
3.2. Truyền thông giáo dục CSSK NCT
Kết quả cho thấy các TYT xã đã triển khai hoạt động 
truyền thông, giáo dục sức khoẻ trong phòng, chống 
bệnh mạn tính thường gặp: 15 TYT xã thực hiện truyền 
thông phòng, chống bệnh THA (100%); 13 TYT xã 
thực hiện phòng, chống bệnh ĐTĐ (86,6%); 10 TYT xã 
thực hiện truyền thông phòng, chống bệnh HPQ/COPD 
(66,6%); 12 TYT xã thực hiện truyền thông phòng, 
chống bệnh ung thư CTC/vú có (80%). Tất cả các TYT 
xã đều không triển khai các mô hình nâng cao sức khỏe 
tại cộng đồng.
Hình thức TTGDSK chủ yếu mà các TYT xã thực hiện 
là tư vấn trực tiếp khi bệnh nhân đến khám tại TYT xã 
và truyền thông trên hệ thống loa đài.
3.3. Sự sẵn có những dịch vụ CSSK NCT
Dịch vụ khám sàng lọc, tư vấn, điều trị
TTYT huyện thực hiện khám sàng lọc, tư vấn, điều trị 
bệnh THA và ĐTĐ đối với NCT; khám sàng lọc phát 
hiện sớm ung thư CTC bằng test Via. TTYT huyện có 
hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân đến khám và điều trị 
bằng hệ thống phần mềm quản lý chung của TTYT, 
chưa có phần mềm quản lý riêng cho NCT.
Hoạt động khám sàng lọc bệnh THA được thực hiện 
tại 15/15 TYT xã khi người bệnh trực tiếp đến TYT 
và phối hợp với TTYT huyện thực hiện khám sàng lọc 
THA trong cộng đồng mỗi năm một lần trong đợt khám 
sức khỏe định kỳ cho NCT. 
Sàng lọc ĐTĐ được thực hiện ở 15 TYT xã. Tất cả các 
TYT xã có cán bộ, có máy xét nghiệm đường máu mao 
mạch được hiệu chỉnh theo quy định. Ngoài ra, 100% 
các TYT xã phối hợp với TTYT huyện thực hiện sàng 
lọc trong cộng đồng bệnh ĐTĐ qua khám sức khỏe 
định kỳ cho NCT mỗi năm một lần. Về chẩn đoán bệnh 
ĐTĐ thì tất cả các TYT xã chưa thực hiện được và chủ 
yếu tiếp tục điều trị theo chẩn đoán và hướng điều trị 
của tuyến trên.
Có 93,3% TYT xã thực hiện tư vấn bệnh nhân ĐTĐ 
đến khám định kỳ tại TYT xã, hướng dẫn về chế độ 
ăn uống, sinh hoạt, tuân thủ chế độ điều trị, theo dõi 
đường huyết, theo dõi biến chứng, tăng cường hoạt 
động thể lực.
Trong 15 TYT xã có 11 TYT (chiếm tỷ lệ 73,3%) thực 
hiện báo cáo, theo dõi, quản lý bệnh ĐTĐ theo quy 
định. Cập nhật đầy đủ các thông tin liên quan vào hồ sơ 
quản lý bệnh nhân.
Đối với bệnh HPQ/COPD thì có 100% các TYT xã chỉ 
khám và phát hiện đối với NCT trực tiếp đến TYT vì lý 
do sức khỏe, chưa thực hiện khám sàng lọc phát hiệm 
sớm tại cơ sở và trong cộng đồng. Về hoạt động chẩn 
đoán và điều trị bệnh HPQ/COPD thì 100% các TYT 
chẩn đoán HPQ/COPD dựa vào tiền sử bản thân, gia 
đình và triệu chứng lâm sàng. 
Đối với bệnh ung thư thì 100% TYT xã có khám sàng 
lọc phát hiện sớm ung thư CTC bằng kỹ thuật test Via 
nhưng đối tượng còn hạn chế vì chỉ thực hiện được ở 
những NCT trực tiếp đến CSYT vì vấn đề sức khỏe và 
hoặc có triệu chứng liên quan; TYT xã chưa đủ điều 
kiện trang thiết bị, thuốc và năng lực chuyên môn để 
chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư CTC/vú. Về quản 
lý NCT bệnh ung thư thì chỉ có 47% TYT xã có danh 
sách những người bệnh đến TYT xã khám vì một lý do 
sức khỏe nào đó.
3.4. Sẵn có về thuốc thiết yếu cho CSSK NCT 
Đối với thuốc điều trị THA, tất cả 15 TYT xã đều sẵn 
có thuốc thuộc nhóm ức chế calci (Amlodipin hoặc 
Nifedipin) và ức chế men chuyển (Captopril); nhóm lợi 
tiểu (Furosemid) có 73,3% TYT xã sẵn có.
Thuốc điều trị ĐTĐ nhóm Biguanid (Metformin) 
có 73,3% TYT xã sẵn có; nhóm Sulfonylure 
(Glibenclamide, Gliclazide) có 47%-60% TYT sẵn có; 
thuốc Insulin không sẵn có tại tất cả các TYT xã do quy 
định về phân tuyến kỹ thuật tại tuyến xã không điều trị 
bệnh đái tháo đường tip 1. 
1 Thông tư số 08/2007 của Bộ Y tế - Bộ Nội vụ 
N.T.T. Nga et al. / Journal of Community Medicine, Vol 62, No 4 (2021) 119-124
123
Thuốc điều trị HPQ/COPD bao gồm một số thuốc dãn 
phế quản thuộc nhóm kích thích beta 2: Salbutamol 
dạng uống có 80% TYT xã sẵn có, dạng khí dung 
66,66% TYT xã sẵn có, dạng xịt có 20% TYT xã sẵn 
có; thuốc kháng viêm dạng uống (prednisolon) có 
80% TYT xã sẵn có, dạng tiêm mạch Hydrocortison, 
Methyl prednisolon lần lược là 86,66 và 73,33% TYT 
xã sẵn có. 
Tất cả các loại thuốc điều trị THA, ĐTĐ, HPQ/COPD 
tại TYT thì được BHYT chi trả: “Trong danh mục trên 
đa số thuốc đều được BHYT chi trả, tuy nhiên cũng 
như tại TTYT huyện thuốc BHYT ở TYT xã đôi lúc cũng 
thiếu ở giai đoạn cuối thầu cũ và đầu thầu mới. Chính 
vì thuốc tại bệnh viện huyện thiếu nên dẫn đến cấp 
thuốc cho TYT cũng thiếu” (PVS 4,7,9,12).
3.5. Trang thiết bị y tế của TYT
Tại các TYT xã, 100% TYT được trang bị các trang 
thiết bị đơn giản như thước đo chiều cao, thước đo vòng 
bụng, cân, nhiệt kế, ống nghe, máy phun khí dung, dụng 
cụ khám CTC, sử dụng cho KCB thông thường.
15 TYT xã (tỷ lệ 100%) có máy đo huyết áp, có 14 TYT 
xã (tỷ lệ 93,33%) có máy đo đường huyết mao mạch, 
tất cả các TYT xã (tỷ lệ 100%) thực hiện test Via bằng 
axit acetic, tuy nhiên các TYT xã cũng không sử dụng 
thường xuyên các kỹ thuật này.
Có 100% TYT có Axit Acetic làm kỹ thuật test Via tầm 
soát ung thu CTC, chỉ có 12/15 (80%) TYT xã có que 
thử đường huyết.
4. BÀN LUẬN
4.1. Nhân lực tại trạm y tế
Sự sẵn sàng cung cấp dịch vụ CSSK cho NCT phụ 
thuộc rất nhiều vào sự sẵn có nguồn nhân lực y tế có 
đủ trình độ và năng lực chuyên môn. Tuy nhiên, nguồn 
nhân lực tại TTYT huyện và các TYT xã đều thiếu số 
lượng, yếu về chất lượng. Kết quả này tương tự với 
nhận định tại Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế 2014 
về thực trạng thiếu cán bộ chuyên trách chương trình 
phòng chống BKLN [6]. 
Số lượng NCT mắc các bệnh mạn tính ngày một gia 
tăng, tuy nhiên chỉ có 01 CBCT tại TTYT huyện và 01 
cán bộ chuyên trách tại mỗi TYT xã và tất cả chỉ làm 
công tác kiêm nhiệm. Hiện chưa có chế độ ưu đãi đặc 
thù riêng, nên không khuyến khích được cán bộ chuyên 
trách và CBYT thôn (hỗ trợ những việc đơn giản và 
hướng dẫn người bệnh đi khám tại TYT xã) hoạt động 
tích cực. 
Cũng chính vì TYT xã thiếu CBYT, năng lực chưa 
đáp ứng được nhu cầu KCB, khiến người dân vượt lên 
tuyến trên, gây quá tải bệnh viện tuyến trên. Trước sự 
gia tăng của các bệnh mạn tính đối với NCT như THA, 
ĐTĐ, HPQ/COPD gây quá tải cho tuyến trên trong khi 
hoàn toàn có thể quản lý và điều trị tại TYT xã.
4.2. Truyền thông giáo dục CSSK NCT
Nhìn chung, hoạt động TTGDSK tại TTYT huyện và 
các TYT xã vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu thực 
tế. Các hoạt động truyền thông còn rất hạn chế, chủ yếu 
là tư vấn trực tiếp khi KCB, TTGDSK qua loa, đài. Do 
không có kinh phí riêng cho hoạt động TTGDSK nên 
việc tổ chức truyền thông lưu động, các buổi truyền 
thông họp nhóm cộng đồng, các sự kiện văn hóa/thể 
thao, câu lạc bộ sức khỏe NCT chưa được triển khai. 
Kết quả này tương tự nghiên cứu về công tác truyền 
thông GD CSSK tại huyện Chí Linh, Hải Dương [7].
4.3. Sự sẵn có những dịch vụ CSSK NCT (sàng lọc, 
tư vấn, chẩn đoán, điều trị)
TTYT huyện cung cấp các dịch vụ khám sàng lọc, chẩn 
đoán, điều trị cho bệnh THA, ĐTĐ. Tuy nhiên, tại các 
TYT xã chưa sẵn sàng cung ứng các dịch vụ khám sàng 
lọc, chẩn đoán và điều trị và quản lý các bệnh mạn tính 
thường gặp đối với NCT do còn thiếu về nhân lực và 
TTB. Về quản lý các bệnh mạn tính thường gặp đối với 
NCT, TYT xã chỉ có danh sách bệnh nhân đến khám, 
không có hồ sơ để khám và tư vấn định kỳ. Theo kết 
quả NC của tác gỉa Nguyễn Thị Thắng (2015), có tới 
95% NCT có nhu cầu chữa bệnh, nhưng tính sẵn có 
dịch vụ chưa hoàn toàn được đáp ứng [8]. 
4.4. Sẵn có về TTB và thuốc thiết yếu cho CSSK NCT
Các TYT xã đều không có TTB như máy đo điện tâm 
đồ (ECG), phế dung kế, máy đo mỡ máu, máy đo lưu 
lượng đỉnh, máy đo dung tích khi thở, máy siêu âm, 
máy xét nghiệm nước tiểu. Đây là những trang thiết bị 
rất cần thiết sử dụng cho khám phát hiện các bệnh mạn 
tính thường gặp của NCT, nhưng hoàn toàn chưa được 
trang bị và cung cấp cho TYT tuyến xã; sự không sẵn 
có của TTB y tế làm hạn chế khả năng cung cấp các 
dịch vụ về khám sàng lọc, phát hiện và chẩn đoán các 
bệnh mạn tính NCT tại các TYT xã hiện nay. Trong 
nghiên cứu của Hoàng Văn Minh tại Đồng Hỷ, Thái 
Nguyên, cho thấy TYT xã chưa có đầy đủ các TTB cơ 
N.T.T. Nga et al. / Journal of Community Medicine, Vol 62, No 4 (2021) 119-124
124
bản để cung cấp dịch vụ phòng, chống BKLN theo như 
khuyến cáo của TCYTTG [9]. 
Thuốc điều trị cho NCT tại TTYT huyện và thuốc 
cung cấp cho các TYT xã thường là BHYT chi trả. Tuy 
nhiên, thuốc BHYT thường xuyên xảy ra tình trạng 
thiếu chủng loại hoặc thiếu về số lượng nhất là vào giai 
đoạn cuối thầu cũ và đầu thầu mới. Nguyên nhân chủ 
yếu do danh mục thuốc BHYT không đủ chủng loại 
tại TYT xã (ví dụ không có các thuốc giãn phế quản 
dạng khí dung để sử dụng trong các trường hợp cấp 
cứu) do dự trù thuốc không sát với thực tế, không cung 
cấp được thuốc kịp thời theo nhu cầu điều trị; kết quả 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Huy tại Quốc Oai, 
Hà Nội, cũng đưa ra kết quả tương tự [10]. 
5. KẾT LUẬN
Để đảm bảo khả năng sẵn sàng cung cấp dịch vụ CSSK 
NCT tại trạm y tế, Nhà nước cần có chính sách chế độ 
đãi ngộ, khuyến khích bác sĩ về công tác tại TYT xã và 
chế độ khuyến khích cho các cán bộ chuyên trách theo 
dõi, quản lý sức khỏe NCT; ngoài ra, NSNN nên đầu 
tư kinh phí cho cơ sở hạ tầng, TTB và các hoạt động 
thường xuyên của TYT xã.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] General Department of Population and Family 
Planning (2006), Status of Healthcare for the 
Elderly, Journal of Population and Development, 
2006; 1, www.gopfp.gov.vn. Accessed on 9th 
Nov 2020.
[2] Vietnam Women's Union, Report on "Vietnam 
National Survey on Elderly Vietnam VNAS 2011 - 
Main findings", Women Publishing House, Hanoi, 
2012. (in Vietnamese)
[3] Thanh TT, Report on the current situation of 
Asthma in Vietnam 2010-2011. Bach Mai Hospital 
Hanoi, 2011. (in Vietnamese)
[4] World Health Organization, Package of 
Essential Noncommunicable (PEN) Disease 
Interventions for Primary Health Car in Low-
Resource Setting, 2010.
[5] Ministry of Health, Joint Annual Health Review 
(JAHR) on strengthening prevention and control of 
non-communicable diseases, Medical Publishing 
House, Hanoi, 2014. (in Vietnamese)
[6] Nga NTT, Report on Availability and several 
factors affecting prevention and control services 
for a number of non-communicable diseases in 
the grassroots health system Chi Linh town, Hai 
Duong, 2016. (in Vietnamese)
[7] Thang NT, Situation and factors affecting the 
difference in the use of medical services in some 
provinces in the socio-economic regions of 
Vietnam in 2015, Master thesis at Hanoi Medical 
University, 2017. (in Vietnamese)
[8] Minh HV, Young KD, Mary ACB, Describing the 
primary care system capacity for the prevention 
and management of non-communicable diseases 
in rural Vietnam. The International of Health 
Planning and Management. 2013.
[9] Huy VN, Xuan HTA, Operational status of the 
health system in Quoc Oai district, Hanoi, 2015. 
Journal of Medical Research, 2015; 101: 71-16. 
(in Vietnamese)
N.T.T. Nga et al. / Journal of Community Medicine, Vol 62, No 4 (2021) 119-124

File đính kèm:

  • pdfcapacity_of_commune_health_stations_to_provide_health_care_s.pdf