Cải cách doanh nghiệp nhà nước nhìn từ vai trò của doanh nghiệp nhà nước để phát triển bền vững trong điều kiện toàn cầu hóa
Nhìn nhận vai trò của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đóng góp trong phát triển bền vững nền
kinh tế Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa, trong khi khu vực kinh tế tư nhân hiện nay, mặc dù được coi
là một động lực tăng trưởng kinh tế những vẫn còn nhỏ bé và yếu về tiềm lực là cần thiết và quan trọng.
Bài viết đặt vấn đề xem xét vai trò của DNNN trong việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trong
điều kiện toàn cầu hóa trên cả 3 chân kiềng: đóng góp cho kinh tế, đóng góp cho xã hội và môi trường.
Thông qua nghiên cứu thực trạng vai trò DNNN, đánh giá và nhìn nhận về vai trò của DNNN trong giai đoạn
tiếp theo, từ đó đưa ra những khuyến nghị về tiếp tục cải cách DNNN trong giai đoạn tới và tập trung cải
thiện quản trị công ty trong các DNNN.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cải cách doanh nghiệp nhà nước nhìn từ vai trò của doanh nghiệp nhà nước để phát triển bền vững trong điều kiện toàn cầu hóa
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 123 CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC NHÌN TỪ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Phạm Thị Tường Vân* TÓM TẮT: Nhìn nhận vai trò của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đóng góp trong phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa, trong khi khu vực kinh tế tư nhân hiện nay, mặc dù được coi là một động lực tăng trưởng kinh tế những vẫn còn nhỏ bé và yếu về tiềm lực là cần thiết và quan trọng. Bài viết đặt vấn đề xem xét vai trò của DNNN trong việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa trên cả 3 chân kiềng: đóng góp cho kinh tế, đóng góp cho xã hội và môi trường. Thông qua nghiên cứu thực trạng vai trò DNNN, đánh giá và nhìn nhận về vai trò của DNNN trong giai đoạn tiếp theo, từ đó đưa ra những khuyến nghị về tiếp tục cải cách DNNN trong giai đoạn tới và tập trung cải thiện quản trị công ty trong các DNNN. Từ khóa: Doanh nghiệp nhà nước, phát triển bền vững, toàn cầu hóa 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thực tiễn, có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), đó là do góc độ nhìn nhận khác nhau và vị trí của người quan sát khác nhau. Tuy nhiên, dù ở góc độ nào cũng đều nhìn nhận vai trò của DNNN qua từng giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân là tư tưởng chi phối, DNNN là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, đóng vai trò là “cỗ máy cái” trong mọi khu vực, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Vai trò này được công nhận ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Theo đó, “DNNN là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay quyền kiểm soát thuộc về chính phủ, phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán hàng hóa, dịch vụ” (Ngân hàng Thế giới, 1999). Trong khi với đặc trưng của nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân là tư tưởng chi phối; DNNN không được coi là sự lựa chọn đúng đắn. Tuy vậy, không có nghĩa mọi vấn đề đều được khu vực tư nhân giải quyết hiệu quả, minh chứng bằng sự phát triển mất cân đối của các quốc gia có nền kinh tế thị trường tự do hay các vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không thể giải quyết, cần phải có một giải pháp để bù đắp vào những khoảng trống này. DNNN tồn tại với tên gọi là doanh nghiệp công (PCs) - là một thực thể được thành lập với mục đích cung cấp dịch vụ công cho thị trường (Lienert, 2009). Vậy để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng đến phát triển toàn diện và bền vững như ở Việt Nam hiện nay, vai trò của DNNN còn quan trọng và việc tái cơ cấu DNNN * Viện chính sách và chiến lược, Việt Nam. Tác giả nhận phản hồi: Email: vanpt.nif@gmail.com HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA124 trong giai đoạn này cần tập trung vào vấn đề gì? Có thể nói, dù là hệ thống kinh tế phát triển ở mức độ nào thì DNNN hoạt động vì lợi ích xã hội vẫn cần thiết mặc dù tái cơ cấu có thể thay đổi vị trí, vai trò và chức năng, cách thức tham gia khi cơ chế thay đổi, “luật chơi” thay đổi. 2. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM ĐÃ THỰC HIỆN VAI TRÒ NHƯ THẾ NÀO? Một câu hỏi đặt ra là DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hướng đến phát triển toàn diện, bền vững như ở Việt Nam đã và đang thực hiện vai trò trên như thế nào? Có thể xem xét thực trạng thực hiện vai trò như sau: Thứ nhất, DNNN vẫn tiếp tục đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Kể từ khi có Luật Doanh nghiệp chung được ban hành mở đầu cho giai đoạn phát triển doanh nghiệp, với quá trình tái cấu trúc DNNN diễn ra trong thời gian qua, DNNN đang ngày càng đổi mới, mặc dù đang có xu hướng giảm về số lượng nhưng nhìn chung khu vực DNNN vẫn đóng góp đáng kể vào GDP so với các thành phần kinh tế khác. Giai đoạn 2011 - 2016, khu vực DNNN đóng góp cho tăng trưởng trong cả giai đoạn đạt 29% GDP, đồng thời duy trì tỷ trọng đầu tư ở mức 12,37% GDP1*. GDP theo giá thực tế của khu vực DNNN đã tăng lên với mức tăng trung bình từ 2005 đến 2016 là 5,42%. Bảng 1 - Tỷ trọng GDP theo Thành phần kinh tế Đơn vị tính: % THÀNH PHẦN 2018 2017 2016 2015 2014 2013 2012 2011 Kinh tế Nhà nước 27,67 28,63 28,81 28,69 28,73 29,01 29,39 29,01 Kinh tế ngoài Nhà nước 42,08 41,74 42,56 43,22 43,33 43,52 44,62 43,87 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 20,28 19,63 18,59 18,07 17,89 17,36 16,04 15,66 Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê từ 2012-2018 Cơ cấu đầu tư của DNNN trong tổng đầu tư toàn xã hội mặc dù có sự dịch chuyển dần sang KTTN, giảm xuống còn 33,3% năm 2018, nhưng xét cả về giá trị và tỷ trọng DNNN chỉ đứng sau khu vực KTTN tính trong các thành phần kinh tế. Thứ hai, các DNNN tiếp tục đóng góp tích cực cho NSNN. Các DNNN mặc dù chiếm tỷ lệ rất nhỏ về số lượng trong khu vực doanh nghiệp (khoảng 0,67%), nhưng DNNN vẫn là nguồn thu lớn cho NSNN, mặc dù cơ cấu đóng góp vào NSNN của DNNN từ 2015 có xu hướng ngày càng ... càng giảm dần, nhưng nếu so sánh với số lượng DNNN ngày càng thu hẹp sau tiến trình cổ phần hóa, trong khi thu nhập bình quân của người lao động và hiệu suất sử dụng lao động của DNNN cao nhất trong ba khu vực doanh nghiệp thì có thể đánh giá các DNNN vẫn đóng góp nhiều trong việc giải quyết vấn đề lao động. Bảng 3 - Tỷ trọng lao động làm việc trong các khu vực doanh nghiệp Đơn vị tính: % KHU VỰC 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Doanh nghiệp Nhà nước 15,27 14,35 12,67 12,05 10,67 9,18 8,28 Doanh nghiệp ngoài Nhà nước 61,33 60,97 59,27 59,32 59,99 61,17 60,65 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 23,40 24,54 26,38 28,63 29,34 29,65 31,07 Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê từ 2012-2018 Đối với việc đảm nhận thị trường hàng hóa công cộng, đặc biệt trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và cung ứng dịch vụ công cộng, DNNN thay mặt cho kinh tế Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo giữ vững ổn định đời sống người dân thông qua cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, các dịch vụ cung cấp nước sạch, đảm bảo điện sinh hoạt*, giao thông công cộng và xử lý rác thải, nước thải, Đồng thời, DNNN tham gia điều tiết về giá các mặt hàng nguyên liệu đầu vào sản xuất quan trọng cho các ngành sản xuất trong nước như giá điện, giá xăng dầu. So với nhiều nước trong khu vực, giá điện Việt Nam luôn thấp hơn (giá bán lẻ điện hiện nay của Việt Nam là 1.864,44 đồng/kWh, tương đương 8,1 cent/kWh theo Quyết định số 648/ QĐ-BTC của Bộ Công Thương từ tháng 3/2019), Trung Quốc là 10,04 cent/kWh, Thái Lan 11,81 cent/kWh... 3 Để giữ ổn định mặt bằng giá đầu vào cho các ngành sản xuất, trong nhiều năm qua, mặc dù thị trường có nhiều biến động, nhưng giá điện nhìn chung được giữ ổn định ở mức thấp. So với nhiều nước trong khu vực, giá điện Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, giá bán lẻ điện hiện nay của Việt Nam là 1.622 đồng/kWh, tương đương 7,31 cent/kWh. Trong khi đó, Trung Quốc là 10,04 cent/kWh, Thái Lan 11,81 cent/kWh... HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 127 2. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ VAI TRÒ CỦA DNNN Từ khi tốc độ mở cửa hội nhập nền kinh tế thế giới của Việt Nam được đẩy mạnh thì hệ thống DNNN tỏ ra chậm chạp hơn so với yêu cầu thực tế. Việc thực hiện vai trò trụ cột kinh tế khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó, đóng vai trò chủ yếu là DNNN trong bối cảnh hướng đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mặc dù có đóng góp nhưng theo xu hướng giảm, chưa thể đảm trách tốt chức năng xã hội quan trọng, là xương sống của nền kinh tế và là công cụ để Nhà nước thực hiện điều tiết, ổn định vĩ mô. Đã có nhiều nghiên cứu nhận định rằng các DNNN hoạt động chưa hiệu quả, chưa xứng với tiềm lực được đầu tư và kỳ vọng. Không những thế, tính kém hiệu quả của DNNN còn có ảnh hưởng trên diện rộng gây khó khăn cho toàn bộ nền kinh tế. Các DNNN chưa tạo được kết nối với các thành phần kinh tế khác, còn tham gia vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh mà khu vực KTTN có thể làm được, tác động đến tái cơ cấu kinh tế còn mờ nhạt. DNNN được đầu tư nhiều vốn, được hưởng nhiều ưu ái, nhưng kinh doanh kém hiệu quả. Hiện tượng đầu tư công tràn lan, chất lượng thấp được thực hiện qua DNNN đang lấn át cơ hội kinh doanh của kinh tế tư nhân, không phát huy được tiềm năng to lớn của kinh tế tư nhân vào công cuộc phát triển đất nước. Đó là nguyên nhân khiến việc tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế với ba trọng tâm trong Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2011) trở nên cấp thiết. Ấn tượng đầu tiên về nỗ lực cải cách DNNN trong đó nổi bật là cổ phần hóa đã làm giảm nhanh chóng về số lượng DNNN. Tính đến hết năm 2018, cả nước có 505 DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Tuy nhiên, sự giảm sút về số lượng tuyệt đối các DNNN không có nghĩa là thu hẹp phạm vi hoạt động. Quy mô của DNNN đã tăng mạnh, phản ánh kết quả “tập trung hóa” các DNNN thành hệ thống phân theo ngành nghề, thể hiện qua việc thành lập các tập đoàn kinh tế Nhà nước (năm 2005), tạo ra những “liên minh lỏng lẻo của các DNNN có lợi ích kinh tế giống nhau” (World Bank, 2011). DNNN chiếm gần 40% tổng mức đầu tư nhưng chỉ đóng góp gần 30% vào tăng trưởng GDP. DNNN vẫn là khu vực sử dụng nhiều nguồn lực nhất của nền kinh tế, “70% tài sản, đất đai trong khu vực sản xuất kinh doanh” (Phạm Sĩ Thành, 2012). Mặc dù vẫn được đánh giá là hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, nhưng qua các thước đo tài sản, hiệu quả hoạt động từ 2016 cho đến nay cho thấy DNNN đã có những cải thiện đáng kể. Năm 2018, tổng tài sản của các DNNN là 2.935.353 tỷ đồng (Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước), tăng 2% so với thực hiện năm 2017. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đạt 1.557.394 tỷ đồng, tăng 9% so với 2017. Lợi nhuận trước thuế của các DNNN tăng 3%. Trong đó, khối Tập đoàn tăng 2%, khối Tổng công ty và khối các doanh nghiệp độc lập đều tăng 6% so với thực hiện năm trước. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2018 đạt 12%, Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/ tổng tài sản đạt 6% (tương đương với 2017). Tổng số phát sinh phải nộp ngân sách nhà nước (NSNN) của các DN năm 2018 tăng 5% so với 20174*. Các doanh nghiệp có vốn Nhà nước có tình hình hoạt động khả quan hơn với tốc độ tăng cao về các chỉ số tài sản, lợi nhuận, doanh thu cao hơn so với doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Tuy nhiên, xét về mức độ an toàn tài chính thì chỉ số nợ của DNNN khá cao, năm 2017 là 4 Báo cáo “Tổng hợp đánh giá tình hình cơ cấu lại, các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước” (Tài liệu phục vụ Hội nghị Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ngày 16/10/2019) HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA128 4,1, cao gấp gần 2 lần so với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và hơn 3 lần so với khu vực FDI. Chỉ số quay vòng vốn của DNNN cũng đạt thấp nhất trong số các khu vực doanh nghiệp (năm 2017 là 0,34 lần - theo số liệu của Tổng cục Thống kê). Hiệu quả sử dụng vốn thấp và các dự án đầu tư kém hiệu quả đã dẫn tới tình trạng nhiều DNNN thua lỗ, nợ đọng kéo dài. Không chỉ trong nước, DNNN chưa làm tốt được vai trò dẫn dắt các thành phần kinh tế tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, DNNN chưa đủ tiềm lực để trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp trong nước với FDI và giúp các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu. DNNN chưa hỗ trợ được khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực của nền kinh tế trong khi lực lượng này chiếm chủ yếu nhưng quy mô nhỏ, yếu về năng lực vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và trình độ quản trị doanh nghiệp.` Kết luận lại, dù vẫn còn những hạn chế, nhưng DNNN đã có nhiều thay đổi theo hướng ngày càng tích cực. DNNN đã thể hiện được vai trò chủ đạo tại một số phương diện sau: (i) DNNN đóng góp quyết định để phát triển hệ thống cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng cần thiết cho hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được do đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, không có khả năng sinh lời trong ngắn hạn. (ii) DNNN là lực lượng vật chất quan trọng để đảm bảo môi trường kinh doanh an toàn, hòa bình, ổn định cho các thành phần kinh tế khác phát triển thông qua việc đóng góp quyết định cho năng lực quốc phòng, an ninh và đối ngoại; là nguồn lực để Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế. Các DNNN, tổ chức tín dụng nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, các cơ quan, tổ chức kinh tế nhà nước, hệ thống tài sản công và các nguồn vốn đầu tư nhà nước cùng với cơ chế chính sách là công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện mục tiêu phân phối nguồn lực gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; trực tiếp cung cấp phần lớn các sản phẩm, dịch vụ công ích cho xã hội. 3. DNNN CÓ THỂ TIẾP TỤC ĐẢM ĐƯƠNG VAI TRÒ LÀ LỰC LƯỢNG KINH TẾ CHỦ ĐẠO, LÀ TRỤ CỘT CỦA NỀN KINH TẾ HAY KHÔNG? Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã nhìn nhận về tổng thể, kinh tế nhà nước (trong đó có DNNN) đã có những đóng góp quan trọng, nhưng “vai trò của doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế”. Điều đó cho thấy DNNN vẫn đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt trong bối cảnh khu vực kinh tế tư nhân nói riêng cũng như các thành phần kinh tế khác chưa thể hoặc không thể/ không muốn đảm đương những nhiệm vụ về kinh tế, chính trị. Quan điểm của Đảng hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về kinh tế thị trường, trong đó, DNNN - là một bộ phận của kinh tế Nhà nước sẽ luôn là một sự lựa chọn tối ưu để Nhà nước tham gia trực tiếp vào thị trường thực hiện mục tiêu của Nhà nước - đóng vai trò là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện các quyết định của Nhà nước. Điều đó cho thấy DNNN là một “công cụ vật chất” mà Nhà nước vẫn cần sử dụng để điều tiết nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện tại, hướng đến chuyển dần cho khu vực kinh tế tư nhân thực hiện vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế. Hay nói cách khác là chuyển đổi dần vai trò của DNNN từ “lực lượng nòng cốt” sang “hỗ trợ, thúc đẩy quá trình phát triển đất nước” nhằm đạt mục tiêu. Tuy nhiên, cần xác định rõ những chi phí cho dạng công cụ này có nằm trong giới hạn chịu đựng của ngân sách, hay nói cách khác là cần phải có những cải cách, thay đổi, tiếp tục tái cơ cấu các DNNN để những lợi ích mà Chính phủ nhận được từ DNNN tương xứng với chi phí cơ hội mà Chính phủ bỏ ra. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 129 Bước tiếp theo, DNNN phải dần chuyển sang vai trò hỗ trợ, góp phần tạo ra môi trường, tiền đề thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác, lôi cuốn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vào quĩ đạo. Theo đó, các DNNN trong giai đoạn trước mắt sẽ tiếp tục phải thực hiện nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước và dần dần khẳng định sự có mặt của Việt Nam trong thị trường quốc tế, dẫn dắt các doanh nghiệp trong nước có mặt trong chuỗi giá trị toàn cầu và sẽ dần rút lui nhường chỗ cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. 4. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH DNNN THÔNG QUA TÁI CƠ CẤU VÀ TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ DNNN Quan điểm của tác giả cho rằng, tiếp tục đẩy mạnh cải cách DNNN và tăng cường quản trị DNNN là hai giải pháp trọng tâm trong việc định vị rõ ràng vai trò của DNNN theo từng giai đoạn, không chỉ tập trung vào kết quả hoạt động của DNNN mà còn phải tối ưu hóa vai trò của DNNN trong nền kinh tế trong mối tương quan với các doanh nghiệp thuộc khu vực khác, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Kết quả cải cách DNNN thông qua cổ phần hóa, tái cơ cấu các Tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước và thoái vốn đầu tư ngoài ngành còn chậm, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của DNNN chưa có nhiều cải thiện. Do đó: Thứ nhất, cần tập trung vào tái cấu trúc danh mục tài sản nhà nước đầu tư nhằm thu hồi tối đa vốn Nhà nước từ CPH để đầu tư phát triển ngành, lĩnh vực cần tới vai trò của DNNN. Thực hiện chủ trương “hầu hết các DNNN có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần” thông qua tiếp tục thu hẹp diện DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ. Đồng thời, xem xét ban hành cơ chế cho phép bán hoàn toàn một DNNN không giới hạn quy mô. Thứ hai, tập trung vào đẩy mạnh tái cấu trúc quản trị DNNN bao gồm cả nâng cao hiệu quả quản trị công ty bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Theo đó, quản trị bên trong tập trung vào xây dựng thị trường CEO mang tính cạnh tranh và xây dựng tiêu chí xếp hạng CEO, tiêu chí đánh giá về hiệu quả điều hành của Hội đồng quản trị trong doanh nghiệp. Nghiên cứu và áp dụng thống nhất nguyên tắc quản trị doanh nghiệp nhà nước của OECD phù hợp với bối cảnh của Việt Nam về cơ chế đại diện chủ sở hữu; lợi ích của cổ đông nhỏ và các bên liên quan. Để thực hiện được, cần đổi mới hệ thống đòn bẩy khuyến khích; sửa đổi các quy định pháp luật về cán bộ, tiền lương, tiền thưởng của Nhà nước trên nguyên tắc xây dựng chính sách khung để giám sát, quản lý mà không can thiệp trực tiếp vào doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ chế quản trị bên ngoài tập trung vào minh bạch hóa thông tin liên quan đến hoạt động của DNNN trên cơ sở dựa theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế như các thông tin về tài chính - kế toán, kiểm toán, thông tin về thị trường, thông tin quản trị,./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Sĩ Thành (2012), Hướng tới lộ trình thực sự tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012. 2. CIEM (2017), Đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN 2016 - 2020 thực chất và hiệu quả, Tài liệu hội thảo HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA130 3. Klaus Rohland (2017), Quản trị kinh tế vì một nhà nước kiến tạo, Tài liệu hội thảo WB - Bộ KH&ĐT 4. Nguyễn Mạnh Quân (2013), Tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước - Một số vấn đề về nguyên tắc và phương pháp tiếp cận, Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 193 tháng 7/2013. 5. Bộ Tài chính, Báo cáo Tổng kết 10 năm 2006 - 2016 việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước 6. Lienert (2009), Where does the public sector end and the private sector begin?, IMF Working paper, từ www.imf.org/external/pubs/ft/wp/2009/wp09122.pdf 7. OECD (2005), “Báo cáo so sánh OECD về Quản trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp nhà nước” 8. Ngân hàng Thế giới (2006), “Bàn tay hữu hình - thách thức của SOE Quản trị doanh nghiệp cho các thị trường mới nổi” 9. Ngân hàng Thế giới (1999), “Giới quan chức trong kinh doanh: ý nghĩa kinh tế và chính trị của sở hữu Nhà nước”, Nxb Chính trị Quốc gia 10. Kowalski, P. và cộng sự (2013), “Doanh nghiệp nhà nước: Các ảnh hưởng thương mại và những gợi ý về chính sách”, Các bài viết chính sách thương mại của OECD, No.147, Nxb OECD 11. Tony Blair (2015), “Vai trò mới của DNNN trong nền kinh tế”. 12. NIF, Sách Tài chính Việt Nam 2015, Nxb Tài chính, 2016 13. NIF, Sách Tài chính Việt Nam 2016, Nxb Tài chính, 2017 14. NIF, Sách Tài chính Việt Nam 2017, Nxb Tài chính, 2018 15. NIF (2018),“Tái cấu trúc nền tài chính quốc gia hướng đến phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam”, Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2018. 16. Bộ KH&ĐT (2019), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2019, Nxb Thống kê, 2019. 17. Bộ Tài chính (2019), Báo cáo Tổng hợp đánh giá tình hình cơ cấu lại, các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (Tài liệu phục vụ Hội nghị Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ngày 16/10/2019) 18. Chính phủ (2019), Báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc và việc quản lý, sử dụng Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp năm 2018.
File đính kèm:
- cai_cach_doanh_nghiep_nha_nuoc_nhin_tu_vai_tro_cua_doanh_ngh.pdf