Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự kết hợp giữa các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật, Internet của các dịch vụ đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XXI, đang có những bước phát triển mạnh mẽ và là xu thế không thể thay đổi, sẽ tạo ra sự biến đổi to lớn toàn bộ lĩnh vực, cấu trúc xã hội, “làm
thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp của con người”(Schwab, 2016a), theo đó, tạo ra nhiều thách thức, cơ hội đan xen. Giáo dục đại học phải đương đầu và đi đầu trong cuộc cách mạng này, vì ở đó, nhân tố con người đóng vai trò chi phối; sản phẩm của giáo dục đại học phải đáp
ứng được yêu cầu vận hành nền sản xuất Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để vượt qua những thách thức đồng thời khai thác tốt cơ hội, giáo dục đại học Việt Nam phải tích cực chuyển động bằng những giải pháp táo bạo và hiệu quả ngay từ bây giờ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 112 CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM Võ Văn Thắng1, Hồ Nhã Phong1, Lê Hải Yến1 1Trường Đại học An Giang Thông tin chung: Ngày nhận bài: 01/07/2017 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 22/07/2017 Ngày chấp nhận đăng: 08/2017 Title: The fourth industry revolution - Challenges and opportunities of Vietnamese higher education institutions Keywords: The fourth industry revolution, technology, higher education institutions, training Từ khóa: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ, cơ sở giáo dục đại học, đào tạo ABSTRACT The fourth industry revolution, with the combination of physical systems in cyberspace, the Internet of Things, and the Internet of Services, has emerged since the early 21st century and is undergoing a strong development. This is an unchangeable trend predicted to make enormous transformations of all the fields of the society, “fundamentally changing the way we live, work, and relate to one another” (Schwab, 2016a), accordingly creating many challenges and opportunities. Education, among other fields, must confront and pioneer in this revolution for the human resource plays an important and dominant role; the product of education must best meet the requirements of operating the economy in the Industrial Revolution 4.0. To overcome the challenges and take full advantages of the opportunities expected in this revolution, educational administrators must understand and grasp the principles of this revolution to best adapt to it now. Vietnam higher education must actively change with daring and effective solutions right now. TÓM TẮT Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự kết hợp giữa các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật, Internet của các dịch vụ đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XXI, đang có những bước phát triển mạnh mẽ và là xu thế không thể thay đổi, sẽ tạo ra sự biến đổi to lớn toàn bộ lĩnh vực, cấu trúc xã hội, “làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp của con người”(Schwab, 2016a), theo đó, tạo ra nhiều thách thức, cơ hội đan xen. Giáo dục đại học phải đương đầu và đi đầu trong cuộc cách mạng này, vì ở đó, nhân tố con người đóng vai trò chi phối; sản phẩm của giáo dục đại học phải đáp ứng được yêu cầu vận hành nền sản xuất Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để vượt qua những thách thức đồng thời khai thác tốt cơ hội, giáo dục đại học Việt Nam phải tích cực chuyển động bằng những giải pháp táo bạo và hiệu quả ngay từ bây giờ. 1. TỔNG QUAN VỀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4 VÀ GIÁO DỤC 4.0 1.1 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Tính đến nay, nhân loại đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN): Trải dài từ năm 1760 đến khoảng năm 1840, các nhà khoa học đã phát minh ra động cơ hơi nước cùng với sự ra đời của các tuyến đường sắt, cuộc CMCN lần thứ nhất xuất hiện đánh dấu một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 113 sản xuất cơ khí. Sau đó, cùng với sự phát minh của điện và dây chuyền lắp ráp ở cuối thế kỷ IX và đầu thế kỷ XX nhân loại đã bước vào cuộc CMCN thứ hai. Cuộc CMCN thứ ba (còn được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số) bắt đầu vào thập niên 1960 đến thập niên 1990 được hình thành bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. Từ thời điểm chuyển giao thế kỷ, cuộc CMCN lần thứ tư, được xây dựng dựa trên cuộc cách mạng số với đặc trưng là sự phổ biến của Internet và di động đã bắt đầu. Đây là cuộc cách mạng dựa trên các cảm biến nhỏ và mạnh mẽ hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo và “học máy”. Xã hội và nền kinh tế toàn cầu đang dần biến đổi mạnh mẽ do các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng được tích hợp nhiều hơn và mức độ phức tạp ngày càng cao. Tại Hội chợ Hannover, Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011, khái niệm “Cách mạng công nghiệp lần thứ 4” (hay “Công nghiệp 4.0” ) được giới thiệu với mục đích nâng cao nền công nghiệp cơ khí truyền thống của Đức. Theo GS. Klaus Schwab - Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2016b), “Industry 4.0” hay “Công nghệ 4.0” là thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. Còn CMCN 4.0 được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet của vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Như vậy, CMCN 4.0 là sự kết hợp các công nghệ, bao gồm các hệ thống không gian mạng, Internet vạn vật và điện toán đám mây, do vậy, nó còn được gọi là cuộc cách mạng số vì nhân loại sẽ được chứng kiến một công cuộc “số hóa”, dần dần xóa đi sự rạch ròi giữa thế giới thực và thế ... vai trò quan trọng hơn kiến thức có trong chương trình đào tạo. Có thể nói, CMCN 4.0 sẽ tạo áp lực lớn trong hoạt động đào tạo bởi việc phát triển chương trình đào tạo, cập nhật nội dung chương trình, đào tạo kỹ năng cho người học để đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Thứ tư, một vấn đề khác đặt ra cho các cơ sở đào tạo bậc cao là cách thức tổ chức để chuyển tải nội dung chương trình đào tạo đến người học. CMCN 4.0 là không có giới hạn, kiến thức học ở trường chỉ là phần “cứng”, một trong những phần hình thành nền tảng tri thức, một trong những yếu tố hình thành kỹ năng lao động mà thôi. Vai trò của người thầy thay đổi, ở đó phương thức và phương pháp giảng dạy cũng thay đổi với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật số và hệ thống mạng. Các hình thức đào tạo online, lớp học ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp phổ biến trong tương lai. Điều này sẽ tạo áp lực lớn cho các cơ sở đào tạo trong việc chuẩn bị nguồn lực tổ chức giảng dạy, đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy, xây dựng không gian học tập An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 117 Thứ năm, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, những kỹ năng cần thiết của người lao động sẽ được thay đổi, gây nhiều tác động đến thị trường. Bà Mirinda Kwong (2017), chuyên gia Kinh tế Lao động, Tổ chức Lao động quốc tế nhận định rằng, cuộc CMCN 4.0 có hai mặt, nó có thể là nguy cơ của đội ngũ lao động giản đơn, đồng thời nó sẽ tạo ra những cơ hội, công việc mới cho những ngành nghề có hàm lượng chất xám cao, ngành nghề tự do hay các công việc trực tuyến hoặc những công việc chuyển đổi khác. Đây là xu hướng tất yếu đòi hỏi người lao động ngoài kỹ năng của một ngành nghề đặc thù cần phải có những kỹ năng mềm (kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sáng tạo) để có thể thích ứng với mọi môi trường lao động, mọi ngành nghề. Những kỹ năng này không chỉ được đào tạo ở đại học mà cần thiết ở tất cả bậc học, ở mọi cơ sở đào tạo, thậm chí chúng nên được hình thành, phát triển ngay từ lúc còn nhỏ. “Đây là những kỹ năng mà không một con rô bốt hay một máy móc nào có thể làm được” như Bà Mirinda Kwong nhấn mạnh. 3. GIẢI PHÁP ĐỂ THÍCH ỨNG VỚI CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM Chủ động nắm bắt các cơ hội của CMCN 4.0, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 16/CT- TTg ngày 04/5/2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành Công văn số 1892/BGDĐT-GDĐH ngày 05/5/2017 triển khai các nhiệm vụ thực hiện yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo nguồn nhân lực có khả năng thích ứng với CMCN 4.0. Để tiếp cận nhanh xu hướng CMCN 4.0, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo (Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) phải đóng vai trò chủ đạo trong việc đề ra chiến lược, cơ chế phát triển chung trên cơ sở dự báo xu hướng của CMCN 4.0. Một chiến lược và cơ chế phát triển phù hợp sẽ là yếu tố quan trọng hàng đầu để kích thích và tạo động lực đột phá cho các cơ sở đào tạo bắt nhịp với CMCN 4.0. Cần chú ý rằng, một trong những cơ chế rất cần thiết cho các cơ sở giáo dục để thích ứng với CMCN 4.0 là phải được mở rộng quyền tự chủ, trong đó có tự chủ về phát triển chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo phù hợp với nguồn lực và thế mạnh của mình trên cơ sở đáp ứng chuẩn trình độ chung do Chính phủ quy định. Bên cạnh đó, CMCN 4.0 dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin, thiết bị thông minh, cơ sở dữ liệu lớn nên Chính phủ và các bộ ngành có liên quan cần phải có định hướng, chiến lược phát triển hạ tầng công nghệ thông tin đủ để đáp ứng cho yêu cầu của CMCN 4.0. Có thể khẳng định rằng, trong cuộc CMCN 4.0, các cơ sở đào tạo đóng vai trò rất quan trọng vì là nơi trực tiếp đào tạo ra nguồn nhân lực phục vụ cho cuộc cách mạng này. Để làm tốt vai trò này, các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng phải chủ động thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, phải chủ động hợp tác với các doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo, đồng thời tiếp tục kết hợp trong quá trình đào tạo để giúp cho sinh viên có được môi trường thực hành, thực tập, trau dồi nghề nghiệp ngay trong thời gian còn học tập để sau khi tốt nghiệp có thể hòa nhập nhanh chóng với môi trường làm việc thực tế. Các cơ sở đào tạo phải xác định đây là việc làm rất quan trọng không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà là cho cơ sở đào tạo của mình, bởi nó không chỉ hỗ trợ về tài lực cho nghiên cứu, giảng dạy và quản lý mà còn giúp cho trường đại học tiếp cận nhanh và thiết thực với nhu cầu của thị trường, giải quyết đầu ra của người học. Thứ hai, các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng phải định hướng các lĩnh vực đào tạo trọng tâm như công nghệ thông tin, quản trị mạng, khai thác và bảo mật dữ liệu, công nghệ vật liệu mới cũng như các ngành đào tạo là thế mạnh của mình. Theo đó, các cơ sở đào tạo cần phải thiết kế chương trình đào tạo linh động, mềm dẻo, dễ dàng cập nhật kiến thức, hướng tới phát triển các kỹ năng cần thiết cho CMCN 4.0; phát triển tư duy hệ thống và liên ngành cho người học. Ngoài ra, các cán bộ quản lý trường đại học phải thực hiện việc thiết kế chương trình chú trọng đưa vào mảng kiến thức cần thiết để người học có khả năng thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, hình thành kỹ năng làm việc hiệu quả trong môi trường có tính kết nối cao, giữa các lĩnh vực, giữa thế giới ảo và thật. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 118 Hình 2. Top 10 kỹ năng người lao động cần có năm 2015 và 2020 (Nguồn: Gray, 2016) Thứ ba, phải chú trọng đào tạo những kỹ năng mới cần có trước yêu cầu của CMCN 4.0. Trên Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Gray (2016) cho rằng, trong 5 năm tới, hơn 1/3 các kỹ năng (35%) được coi là cần thiết, quan trọng trong lực lượng lao động ngày nay sẽ thay đổi. Đặc biệt là, sáng tạo sẽ trở thành một trong ba kỹ năng hàng đầu, bởi vì rô bốt có thể giúp chúng ta thực hiện điều mà chúng ta muốn nhanh hơn, nhưng rô bốt không thể, hoặc chưa thể, sáng tạo như con người. Kỹ năng khác là lắng nghe tích cực (Active listening), được coi là một kỹ năng cốt lõi trong hiện tại thì sẽ biến mất hoàn toàn vào năm 2020. Kỹ năng trí thông minh tình cảm (Emotional Inteligence) không có trong top 10 hiện nay nhưng sẽ trở thành một trong những kỹ năng hàng đầu cần thiết cho mọi người trong tương lai. Các kỹ năng quan trọng đối với nguồn nhân lực trong môi trường tương tác công nghệ cần phải được đưa vào chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo như: kỹ năng giải quyết các vấn đề phức tạp, kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sáng tạo, tư duy hệ thống, kỹ năng trí tuệ cảm xúc đặc biệt giáo dục người học phương pháp và ý thức học tập suốt đời. Các cơ sở đào tạo cũng phải đa dạng hóa các khóa đào tạo nhằm mục tiêu trang bị cho người học những kiến thức chuyên sâu về một lĩnh vực, một công việc cụ thể nào đó vì bối cảnh CMCN 4.0, nhu cầu của xã hội về bổ sung kiến thức sẽ vô cùng lớn, đa dạng, linh hoạt khi có sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành nghề, sự thay đổi công nghệ, yêu cầu về năng lực riêng biệt để đáp ứng với sự thay đổi công nghệ. Tuy cơ sở giáo dục cần phải mở rộng, đa dạng hóa các loại hình đào tạo để đáp ứng nhu cầu xã hội một cách thiết thực và hiệu quả, nhưng phải giữ được bản chất học thuật riêng biệt và nhiệm vụ giáo dục rộng hơn của mình. Thứ tư, cách thức tổ chức và phương pháp giảng dạy tại các trường đại học cũng phải thay đổi để đáp ứng với yêu cầu của CMCN 4.0. Công nghệ phát triển với chi phí rẻ là điều kiện thuận lợi để các trường đại học đầu tư cơ sở vật chất, các công cụ và phương tiện giảng dạy hiện đại. Bên cạnh hình thức giảng dạy trực tiếp cho người học, các trường cần sử dụng nhiều hơn các hình thức khác An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 119 như: đào tạo trực tuyến, thiết kế môi trường ảo để người học và người dạy có thể tương tác dễ dàng và thuận tiện trong quá trình dạy – học, tổ chức thực hành tại các phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng ảo, các lớp học không có giảng viên... Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo có thể khai thác hệ thống máy tính và dữ liệu lớn để thiết kế chương trình, tổ chức giảng dạy cho từng đối tượng một cách hiệu quả nhất. Tổ chức thu thập dữ liệu cá nhân để tạo ra dữ liệu lớn về thời lượng học, phương pháp, lộ trình đào tạo, mức độ tương tác, kết quả học tập rồi sử dụng các các thuật toán máy học (machine learning) để đưa ra phương pháp, lộ trình giáo dục tốt nhất cho từng sinh viên. Với sự thay đổi đó, việc quản lý giảng dạy, học tập cũng phải thay đổi theo cho phù hợp làm thế nào để sản phẩm đầu ra là những con người sáng tạo và khởi nghiệp. Thứ năm, lãnh đạo quản lý các cơ sở đào tạo phải đào tạo đội ngũ giảng viên có trình độ cao về chuyên môn, công nghệ thông tin, hệ thống mạng và phải liên tục cập nhật kiến thức chuyên môn, công nghệ để có thể hướng dẫn người học một cách hiệu quả. Ngoài ra, các trường đại học phải mở rộng đối thoại, hợp tác với doanh nghiệp trong các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tập huấn và tư vấn, qua đó cán bộ giảng dạy có điều kiện tiếp cận điều kiện sản xuất, kinh doanh thực tế và nắm bắt được những thay đổi của thị trường, qua đó thực hiện các điều chỉnh trong giảng dạy. Như vậy, từ những vấn đề trình bày trên đây, chúng ta có thể thấy rằng, đối với lĩnh vực giáo dục, CMCN 4.0 cũng đã mở ra nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cần phải có sự thay đổi để đáp ứng yêu cầu của thời đại. 4. KẾT LUẬN CMCN 4.0 đã hình thành và đang phát triển mạnh mẽ, hứa hẹn mở ra kỷ nguyên mới cho sự tiến bộ của nhân loại, sẽ đem đến hàng loạt sự thay đổi tích cực như: khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển, xuất hiện nhiều ngành và lĩnh vực kinh doanh mới, có năng suất và hiệu quả nên kinh tế cao hơn, mức sống của dân cư tăng lên và vì vậy, chất lượng cuộc sống sẽ nâng lên. Cuộc cách mạng này được dự báo sẽ làm thay đổi hoàn toàn tư duy của con người với sự thay đổi các khái niệm trước đây, mở ra nhiều phương thức sản xuất mới góp phần tăng hiệu quả nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, CMCN 4.0 cũng tiềm ẩn nhiều thách thức như: chênh lệch thu nhập giữa các bộ phận trong xã hội ngày càng xa hơn, việc tìm kiếm việc làm sẽ ngày càng rất khó khăn, đặc biệt là đối với lực lượng lao động phổ thông; vấn đề an toàn và bảo mật thông tin cá nhân, đạo đức, các giá trị văn hóa, đặc biệt là giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa con người và cộng đồng xã hội cũng biến đổi và bị xáo trộn Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói chung, cơ sở gióa dục đại học nói riêng, CMCN 4.0 cũng mở ra nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng có nhiều thách thức cần phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Điều này đòi hỏi mọi người trong ngành phải có sự thay đổi nhận thức và hành động, đồng thời phải tích cực, chủ động định hướng và triển khai các giải pháp phù hợp để có thể đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của thời đại trong giai đoạn phát triển mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Khoa học và Công nghệ - Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. (2016). Tổng luận “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. (06/2017). Báo cáo “Giáo dục đại học trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Xu hướng và quan điểm”. Frey, C. B. & Osborne, M. A. (2013). The Future of Employment: How Susceptible are Jobs to Computerisation?. The Oxford Martin Programme on Technology and Employment. Truy cập từ: academic/The_Future_of_Employment.pdf Gold, S. (2012). A U.S. Manufacturing Strategy for the Next Three Decades. Business Horizon Quaterly, Fall 2012. Truy cập từ: https://www.uschamberfoundation.org/bhq/us- manufacturing-strategy An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 120 Gray, A. (2016). The 10 skills you need to thrive in the Fourth Industrial Revolution. Truy cập từ: World Economy Forum: https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the- 10-skills-you-need-to-thrive-in-the-fourth- industrial-revolution/ Johnson, O.C.B. (2017). Chuyên gia của Asean University Network – Quality Assurance (AUN – QA). Tọa đàm “Từ công nghiệp 4.0 tới giáo dục 4.0: thách thức và cơ hội”. Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 01/2017. Kwong, M. (2017). Chuyên mục Góc nhìn - Nhân lực Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Chương trình truyền hình, VTV4, Hà Nội, phát hình 13.5.2017. Lattanzi, M. (1998). Transdiscipliarity – “Stimulating Synergies And Integrating Knowledge”. International Symposium on Transdisciplinarity May 1998. Truy cập từ 6/114694eo.pdf. Management Consultancy and Solutions (MACS). (2017). Industry 4.0 calls for IBM Maximo 7.6. Truy cập từ: ibm-maximo-7-6/ Montaqim, A. (2016). Do you want chips with that? How robots are threatening millions of fast food jobs. Robotics and Automation News. Truy cập từ: 2/17/do-you-want-chips-with-that-how-robots- are-threatening-millions-of-fast-food- jobs/2650/ Nègre, A. (1999). A transdisciplinary approach to science and astrology. Considerations, Issue. 13.2:1998. Nicolescu, B. (1997). The transdisciplinary evolution of the university condition for sustainable development. Talk at the International Congress “Universities’ Responsabilities to Society”, International Association of Universities, Thailand, 12- 14/11/1997. Truy cập từ: transdisciplinarity.org/bulletin/b12c8.php Nirmala, J. (2016). Super smart society: Society 5.0. Robotics Tomorrow – Online Robotic Trade Magazine. Truy cập từ: 6/09/super-smart-society-society-50/8739 Nguyễn, Đ. Đ. (2016). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. Truy cập từ: Nhóm Nghiên cứu quốc tế về Vật liệu tiên tiến và Cơ học kỹ thuật – Đại học Công nghệ: mang-cong-nghiep-lan-thu-4-co-hoi-va-thach- thuc-voi-viet-nam/ Schwab, K. (2016a). The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to respond. Truy cập từ World Economy Forum: https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the- fourth-industrial-revolution-what-it-means- and-how-to-respond/ Schwab, K. (2016b). The Fourth Industrial Revolution. World Economic Forum Wakefield, J. (2016). Foxconn replaces ‘60,000 factory workers with robots’. BBC News. Truy cập từ 36376966 Zuhlke, D. (2013). Industry 4.0 - the German vision for advanced manufacturing. SmartfactoryKL. Truy cập từ https://www.slideshare.net/vinnovase/industry- 40-the-german-vision-for-advanced- manufacturing.
File đính kèm:
- cach_mang_cong_nghiep_lan_thu_tu_co_hoi_va_thach_thuc_doi_vo.pdf