Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự kết hợp giữa các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật, Internet của các dịch vụ đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XXI, đang có những bước phát triển mạnh mẽ và là xu thế không thể thay đổi, sẽ tạo ra sự biến đổi to lớn toàn bộ lĩnh vực, cấu trúc xã hội, “làm

thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp của con người”(Schwab, 2016a), theo đó, tạo ra nhiều thách thức, cơ hội đan xen. Giáo dục đại học phải đương đầu và đi đầu trong cuộc cách mạng này, vì ở đó, nhân tố con người đóng vai trò chi phối; sản phẩm của giáo dục đại học phải đáp

ứng được yêu cầu vận hành nền sản xuất Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để vượt qua những thách thức đồng thời khai thác tốt cơ hội, giáo dục đại học Việt Nam phải tích cực chuyển động bằng những giải pháp táo bạo và hiệu quả ngay từ bây giờ.

 

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 1

Trang 1

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 2

Trang 2

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 3

Trang 3

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 4

Trang 4

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 5

Trang 5

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 6

Trang 6

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 7

Trang 7

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 8

Trang 8

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Trúc Khang 08/01/2024 5820
Bạn đang xem tài liệu "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 
112 
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC 
ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM 
Võ Văn Thắng1, Hồ Nhã Phong1, Lê Hải Yến1 
1Trường Đại học An Giang 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 01/07/2017 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
22/07/2017 
Ngày chấp nhận đăng: 08/2017 
Title: 
The fourth industry revolution - 
Challenges and opportunities of 
Vietnamese higher education 
institutions 
Keywords: 
The fourth industry revolution, 
technology, higher education 
institutions, training 
Từ khóa: 
Cách mạng công nghiệp 
lần thứ tư, công nghệ, cơ 
sở giáo dục đại học, đào 
tạo 
ABSTRACT 
The fourth industry revolution, with the combination of physical systems in 
cyberspace, the Internet of Things, and the Internet of Services, has emerged 
since the early 21st century and is undergoing a strong development. This is an 
unchangeable trend predicted to make enormous transformations of all the 
fields of the society, “fundamentally changing the way we live, work, and relate 
to one another” (Schwab, 2016a), accordingly creating many challenges and 
opportunities. Education, among other fields, must confront and pioneer in this 
revolution for the human resource plays an important and dominant role; the 
product of education must best meet the requirements of operating the economy 
in the Industrial Revolution 4.0. To overcome the challenges and take full 
advantages of the opportunities expected in this revolution, educational 
administrators must understand and grasp the principles of this revolution to 
best adapt to it now. Vietnam higher education must actively change with 
daring and effective solutions right now. 
TÓM TẮT 
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự kết hợp giữa các hệ thống vật lý trong 
không gian ảo, Internet kết nối vạn vật, Internet của các dịch vụ đã xuất hiện từ 
đầu thế kỷ XXI, đang có những bước phát triển mạnh mẽ và là xu thế không thể 
thay đổi, sẽ tạo ra sự biến đổi to lớn toàn bộ lĩnh vực, cấu trúc xã hội, “làm 
thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp của con 
người”(Schwab, 2016a), theo đó, tạo ra nhiều thách thức, cơ hội đan xen. Giáo 
dục đại học phải đương đầu và đi đầu trong cuộc cách mạng này, vì ở đó, nhân 
tố con người đóng vai trò chi phối; sản phẩm của giáo dục đại học phải đáp 
ứng được yêu cầu vận hành nền sản xuất Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
Để vượt qua những thách thức đồng thời khai thác tốt cơ hội, giáo dục đại học 
Việt Nam phải tích cực chuyển động bằng những giải pháp táo bạo và hiệu quả 
ngay từ bây giờ. 
1. TỔNG QUAN VỀ CÁCH MẠNG CÔNG 
NGHIỆP LẦN THỨ 4 VÀ GIÁO DỤC 4.0 
1.1 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư 
Tính đến nay, nhân loại đã trải qua 4 cuộc cách 
mạng công nghiệp (CMCN): 
Trải dài từ năm 1760 đến khoảng năm 1840, các 
nhà khoa học đã phát minh ra động cơ hơi nước 
cùng với sự ra đời của các tuyến đường sắt, cuộc 
CMCN lần thứ nhất xuất hiện đánh dấu một kỷ 
nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 
113 
sản xuất cơ khí. Sau đó, cùng với sự phát minh 
của điện và dây chuyền lắp ráp ở cuối thế kỷ IX 
và đầu thế kỷ XX nhân loại đã bước vào cuộc 
CMCN thứ hai. Cuộc CMCN thứ ba (còn được 
gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng 
số) bắt đầu vào thập niên 1960 đến thập niên 1990 
được hình thành bởi sự phát triển của chất bán 
dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. 
Từ thời điểm chuyển giao thế kỷ, cuộc CMCN lần 
thứ tư, được xây dựng dựa trên cuộc cách mạng 
số với đặc trưng là sự phổ biến của Internet và di 
động đã bắt đầu. Đây là cuộc cách mạng dựa trên 
các cảm biến nhỏ và mạnh mẽ hơn với giá thành 
rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo và “học máy”. Xã hội 
và nền kinh tế toàn cầu đang dần biến đổi mạnh 
mẽ do các công nghệ số với phần cứng máy tính, 
phần mềm và hệ thống mạng được tích hợp nhiều 
hơn và mức độ phức tạp ngày càng cao. 
Tại Hội chợ Hannover, Cộng hòa Liên bang Đức 
năm 2011, khái niệm “Cách mạng công nghiệp 
lần thứ 4” (hay “Công nghiệp 4.0” ) được giới 
thiệu với mục đích nâng cao nền công nghiệp cơ 
khí truyền thống của Đức. Theo GS. Klaus 
Schwab - Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới 
(2016b), “Industry 4.0” hay “Công nghệ 4.0” là 
thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ tự 
động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. Còn 
CMCN 4.0 được định nghĩa là “một cụm thuật 
ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức 
trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý 
trong không gian ảo, Internet của vạn vật (IoT) và 
Internet của các dịch vụ (IoS). Như vậy, CMCN 
4.0 là sự kết hợp các công nghệ, bao gồm các hệ 
thống không gian mạng, Internet vạn vật và điện 
toán đám mây, do vậy, nó còn được gọi là cuộc 
cách mạng số vì nhân loại sẽ được chứng kiến 
một công cuộc “số hóa”, dần dần xóa đi sự rạch 
ròi giữa thế giới thực và thế  ...  vai trò quan trọng hơn kiến thức có trong 
chương trình đào tạo. Có thể nói, CMCN 4.0 sẽ 
tạo áp lực lớn trong hoạt động đào tạo bởi việc 
phát triển chương trình đào tạo, cập nhật nội dung 
chương trình, đào tạo kỹ năng cho người học để 
đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. 
Thứ tư, một vấn đề khác đặt ra cho các cơ sở đào 
tạo bậc cao là cách thức tổ chức để chuyển tải nội 
dung chương trình đào tạo đến người học. CMCN 
4.0 là không có giới hạn, kiến thức học ở trường 
chỉ là phần “cứng”, một trong những phần hình 
thành nền tảng tri thức, một trong những yếu tố 
hình thành kỹ năng lao động mà thôi. Vai trò của 
người thầy thay đổi, ở đó phương thức và phương 
pháp giảng dạy cũng thay đổi với việc ứng dụng 
mạnh mẽ công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật 
số và hệ thống mạng. Các hình thức đào tạo 
online, lớp học ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng 
sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp phổ biến 
trong tương lai. Điều này sẽ tạo áp lực lớn cho các 
cơ sở đào tạo trong việc chuẩn bị nguồn lực tổ 
chức giảng dạy, đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng 
dạy, xây dựng không gian học tập 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 
117 
Thứ năm, cùng với sự phát triển của khoa học 
công nghệ, những kỹ năng cần thiết của người lao 
động sẽ được thay đổi, gây nhiều tác động đến thị 
trường. Bà Mirinda Kwong (2017), chuyên gia 
Kinh tế Lao động, Tổ chức Lao động quốc tế nhận 
định rằng, cuộc CMCN 4.0 có hai mặt, nó có thể 
là nguy cơ của đội ngũ lao động giản đơn, đồng 
thời nó sẽ tạo ra những cơ hội, công việc mới cho 
những ngành nghề có hàm lượng chất xám cao, 
ngành nghề tự do hay các công việc trực tuyến 
hoặc những công việc chuyển đổi khác. Đây là xu 
hướng tất yếu đòi hỏi người lao động ngoài kỹ 
năng của một ngành nghề đặc thù cần phải có 
những kỹ năng mềm (kỹ năng làm việc nhóm, kỹ 
năng sáng tạo) để có thể thích ứng với mọi môi 
trường lao động, mọi ngành nghề. Những kỹ năng 
này không chỉ được đào tạo ở đại học mà cần thiết 
ở tất cả bậc học, ở mọi cơ sở đào tạo, thậm chí 
chúng nên được hình thành, phát triển ngay từ lúc 
còn nhỏ. “Đây là những kỹ năng mà không một 
con rô bốt hay một máy móc nào có thể làm 
được” như Bà Mirinda Kwong nhấn mạnh. 
3. GIẢI PHÁP ĐỂ THÍCH ỨNG VỚI CUỘC 
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN 
THỨ TƯ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC 
ĐẠI HỌC VIỆT NAM 
Chủ động nắm bắt các cơ hội của CMCN 4.0, Thủ 
tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 16/CT-
TTg ngày 04/5/2017 về việc tăng cường năng lực 
tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Bộ trưởng Bộ Giáo dục 
và Đào tạo cũng đã ban hành Công văn số 
1892/BGDĐT-GDĐH ngày 05/5/2017 triển khai 
các nhiệm vụ thực hiện yêu cầu của Thủ tướng 
Chính phủ về đào tạo nguồn nhân lực có khả năng 
thích ứng với CMCN 4.0. Để tiếp cận nhanh xu 
hướng CMCN 4.0, các cơ quan quản lý nhà nước 
về giáo dục và đào tạo (Bộ Giáo dục và Đào tạo 
và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) phải 
đóng vai trò chủ đạo trong việc đề ra chiến lược, 
cơ chế phát triển chung trên cơ sở dự báo xu 
hướng của CMCN 4.0. Một chiến lược và cơ chế 
phát triển phù hợp sẽ là yếu tố quan trọng hàng 
đầu để kích thích và tạo động lực đột phá cho các 
cơ sở đào tạo bắt nhịp với CMCN 4.0. Cần chú ý 
rằng, một trong những cơ chế rất cần thiết cho các 
cơ sở giáo dục để thích ứng với CMCN 4.0 là phải 
được mở rộng quyền tự chủ, trong đó có tự chủ về 
phát triển chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo 
phù hợp với nguồn lực và thế mạnh của mình trên 
cơ sở đáp ứng chuẩn trình độ chung do Chính phủ 
quy định. Bên cạnh đó, CMCN 4.0 dựa trên nền 
tảng của công nghệ thông tin, thiết bị thông minh, 
cơ sở dữ liệu lớn nên Chính phủ và các bộ 
ngành có liên quan cần phải có định hướng, chiến 
lược phát triển hạ tầng công nghệ thông tin đủ để 
đáp ứng cho yêu cầu của CMCN 4.0. 
Có thể khẳng định rằng, trong cuộc CMCN 4.0, 
các cơ sở đào tạo đóng vai trò rất quan trọng vì là 
nơi trực tiếp đào tạo ra nguồn nhân lực phục vụ 
cho cuộc cách mạng này. Để làm tốt vai trò này, 
các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng phải chủ động 
thực hiện các giải pháp sau: 
Thứ nhất, phải chủ động hợp tác với các doanh 
nghiệp ngay từ khâu xây dựng chuẩn đầu ra và 
chương trình đào tạo, đồng thời tiếp tục kết hợp 
trong quá trình đào tạo để giúp cho sinh viên có 
được môi trường thực hành, thực tập, trau dồi 
nghề nghiệp ngay trong thời gian còn học tập để 
sau khi tốt nghiệp có thể hòa nhập nhanh chóng 
với môi trường làm việc thực tế. Các cơ sở đào 
tạo phải xác định đây là việc làm rất quan trọng 
không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà 
là cho cơ sở đào tạo của mình, bởi nó không chỉ 
hỗ trợ về tài lực cho nghiên cứu, giảng dạy và 
quản lý mà còn giúp cho trường đại học tiếp cận 
nhanh và thiết thực với nhu cầu của thị trường, 
giải quyết đầu ra của người học. 
Thứ hai, các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng phải 
định hướng các lĩnh vực đào tạo trọng tâm như 
công nghệ thông tin, quản trị mạng, khai thác và 
bảo mật dữ liệu, công nghệ vật liệu mới cũng 
như các ngành đào tạo là thế mạnh của mình. 
Theo đó, các cơ sở đào tạo cần phải thiết kế 
chương trình đào tạo linh động, mềm dẻo, dễ dàng 
cập nhật kiến thức, hướng tới phát triển các kỹ 
năng cần thiết cho CMCN 4.0; phát triển tư duy 
hệ thống và liên ngành cho người học. Ngoài ra, 
các cán bộ quản lý trường đại học phải thực hiện 
việc thiết kế chương trình chú trọng đưa vào mảng 
kiến thức cần thiết để người học có khả năng thích 
nghi với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, 
hình thành kỹ năng làm việc hiệu quả trong môi 
trường có tính kết nối cao, giữa các lĩnh vực, giữa 
thế giới ảo và thật. 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 
118 
Hình 2. Top 10 kỹ năng người lao động cần có năm 2015 và 2020 
(Nguồn: Gray, 2016) 
Thứ ba, phải chú trọng đào tạo những kỹ năng 
mới cần có trước yêu cầu của CMCN 4.0. Trên 
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Gray (2016) cho rằng, 
trong 5 năm tới, hơn 1/3 các kỹ năng (35%) được 
coi là cần thiết, quan trọng trong lực lượng lao 
động ngày nay sẽ thay đổi. Đặc biệt là, sáng tạo 
sẽ trở thành một trong ba kỹ năng hàng đầu, bởi vì 
rô bốt có thể giúp chúng ta thực hiện điều mà 
chúng ta muốn nhanh hơn, nhưng rô bốt không 
thể, hoặc chưa thể, sáng tạo như con người. Kỹ 
năng khác là lắng nghe tích cực (Active listening), 
được coi là một kỹ năng cốt lõi trong hiện tại thì 
sẽ biến mất hoàn toàn vào năm 2020. Kỹ năng trí 
thông minh tình cảm (Emotional Inteligence) 
không có trong top 10 hiện nay nhưng sẽ trở thành 
một trong những kỹ năng hàng đầu cần thiết cho 
mọi người trong tương lai. Các kỹ năng quan 
trọng đối với nguồn nhân lực trong môi trường 
tương tác công nghệ cần phải được đưa vào chuẩn 
đầu ra của chương trình đào tạo như: kỹ năng giải 
quyết các vấn đề phức tạp, kỹ năng tư duy phản 
biện, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sáng tạo, tư 
duy hệ thống, kỹ năng trí tuệ cảm xúc đặc biệt 
giáo dục người học phương pháp và ý thức học 
tập suốt đời. Các cơ sở đào tạo cũng phải đa dạng 
hóa các khóa đào tạo nhằm mục tiêu trang bị cho 
người học những kiến thức chuyên sâu về một 
lĩnh vực, một công việc cụ thể nào đó vì bối cảnh 
CMCN 4.0, nhu cầu của xã hội về bổ sung kiến 
thức sẽ vô cùng lớn, đa dạng, linh hoạt khi có sự 
chuyển dịch trong cơ cấu ngành nghề, sự thay đổi 
công nghệ, yêu cầu về năng lực riêng biệt để đáp 
ứng với sự thay đổi công nghệ. Tuy cơ sở giáo 
dục cần phải mở rộng, đa dạng hóa các loại hình 
đào tạo để đáp ứng nhu cầu xã hội một cách thiết 
thực và hiệu quả, nhưng phải giữ được bản chất 
học thuật riêng biệt và nhiệm vụ giáo dục rộng 
hơn của mình. 
Thứ tư, cách thức tổ chức và phương pháp giảng 
dạy tại các trường đại học cũng phải thay đổi để 
đáp ứng với yêu cầu của CMCN 4.0. Công nghệ 
phát triển với chi phí rẻ là điều kiện thuận lợi để 
các trường đại học đầu tư cơ sở vật chất, các công 
cụ và phương tiện giảng dạy hiện đại. Bên cạnh 
hình thức giảng dạy trực tiếp cho người học, các 
trường cần sử dụng nhiều hơn các hình thức khác 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 
119 
như: đào tạo trực tuyến, thiết kế môi trường ảo để 
người học và người dạy có thể tương tác dễ dàng 
và thuận tiện trong quá trình dạy – học, tổ chức 
thực hành tại các phòng thí nghiệm hay phòng mô 
phỏng ảo, các lớp học không có giảng viên... Bên 
cạnh đó, các cơ sở đào tạo có thể khai thác hệ 
thống máy tính và dữ liệu lớn để thiết kế chương 
trình, tổ chức giảng dạy cho từng đối tượng một 
cách hiệu quả nhất. Tổ chức thu thập dữ liệu cá 
nhân để tạo ra dữ liệu lớn về thời lượng học, 
phương pháp, lộ trình đào tạo, mức độ tương tác, 
kết quả học tập rồi sử dụng các các thuật toán 
máy học (machine learning) để đưa ra phương 
pháp, lộ trình giáo dục tốt nhất cho từng sinh viên. 
Với sự thay đổi đó, việc quản lý giảng dạy, học 
tập cũng phải thay đổi theo cho phù hợp làm thế 
nào để sản phẩm đầu ra là những con người sáng 
tạo và khởi nghiệp. 
Thứ năm, lãnh đạo quản lý các cơ sở đào tạo phải 
đào tạo đội ngũ giảng viên có trình độ cao về 
chuyên môn, công nghệ thông tin, hệ thống 
mạng và phải liên tục cập nhật kiến thức 
chuyên môn, công nghệ để có thể hướng dẫn 
người học một cách hiệu quả. Ngoài ra, các 
trường đại học phải mở rộng đối thoại, hợp tác với 
doanh nghiệp trong các hoạt động nghiên cứu, đào 
tạo, tập huấn và tư vấn, qua đó cán bộ giảng dạy 
có điều kiện tiếp cận điều kiện sản xuất, kinh 
doanh thực tế và nắm bắt được những thay đổi 
của thị trường, qua đó thực hiện các điều chỉnh 
trong giảng dạy. 
Như vậy, từ những vấn đề trình bày trên đây, 
chúng ta có thể thấy rằng, đối với lĩnh vực giáo 
dục, CMCN 4.0 cũng đã mở ra nhiều cơ hội để 
phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cần 
phải có sự thay đổi để đáp ứng yêu cầu của thời 
đại. 
4. KẾT LUẬN 
CMCN 4.0 đã hình thành và đang phát triển mạnh 
mẽ, hứa hẹn mở ra kỷ nguyên mới cho sự tiến bộ 
của nhân loại, sẽ đem đến hàng loạt sự thay đổi 
tích cực như: khoa học và công nghệ tiếp tục phát 
triển, xuất hiện nhiều ngành và lĩnh vực kinh 
doanh mới, có năng suất và hiệu quả nên kinh tế 
cao hơn, mức sống của dân cư tăng lên và vì vậy, 
chất lượng cuộc sống sẽ nâng lên. Cuộc cách 
mạng này được dự báo sẽ làm thay đổi hoàn toàn 
tư duy của con người với sự thay đổi các khái 
niệm trước đây, mở ra nhiều phương thức sản 
xuất mới góp phần tăng hiệu quả nền kinh tế toàn 
cầu. Bên cạnh đó, CMCN 4.0 cũng tiềm ẩn nhiều 
thách thức như: chênh lệch thu nhập giữa các bộ 
phận trong xã hội ngày càng xa hơn, việc tìm 
kiếm việc làm sẽ ngày càng rất khó khăn, đặc biệt 
là đối với lực lượng lao động phổ thông; vấn đề 
an toàn và bảo mật thông tin cá nhân, đạo đức, các 
giá trị văn hóa, đặc biệt là giá trị văn hóa truyền 
thống dân tộc, văn hóa con người và cộng đồng xã 
hội cũng biến đổi và bị xáo trộn 
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói chung, 
cơ sở gióa dục đại học nói riêng, CMCN 4.0 cũng 
mở ra nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng có 
nhiều thách thức cần phải thay đổi để đáp ứng yêu 
cầu của thời đại. Điều này đòi hỏi mọi người 
trong ngành phải có sự thay đổi nhận thức và hành 
động, đồng thời phải tích cực, chủ động định 
hướng và triển khai các giải pháp phù hợp để có 
thể đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, 
đáp ứng nhu cầu của thời đại trong giai đoạn phát 
triển mới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bộ Khoa học và Công nghệ - Cục Thông tin Khoa 
học và Công nghệ Quốc gia. (2016). Tổng luận 
“Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”. 
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
(06/2017). Báo cáo “Giáo dục đại học trong 
thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Xu 
hướng và quan điểm”. 
Frey, C. B. & Osborne, M. A. (2013). The Future 
of Employment: How Susceptible are Jobs to 
Computerisation?. The Oxford Martin 
Programme on Technology and Employment. 
 Truy cập từ: 
academic/The_Future_of_Employment.pdf 
Gold, S. (2012). A U.S. Manufacturing Strategy 
for the Next Three Decades. Business Horizon 
Quaterly, Fall 2012. 
Truy cập từ: 
https://www.uschamberfoundation.org/bhq/us-
manufacturing-strategy 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 112 – 120 
120 
Gray, A. (2016). The 10 skills you need to thrive 
in the Fourth Industrial Revolution. 
Truy cập từ: 
 World Economy Forum: 
https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-
10-skills-you-need-to-thrive-in-the-fourth-
industrial-revolution/ 
Johnson, O.C.B. (2017). Chuyên gia của Asean 
University Network – Quality Assurance 
(AUN – QA). Tọa đàm “Từ công nghiệp 4.0 
tới giáo dục 4.0: thách thức và cơ hội”. Đại 
học Quốc gia Hà Nội, tháng 01/2017. 
Kwong, M. (2017). Chuyên mục Góc nhìn - Nhân 
lực Việt Nam trong cuộc cách mạng công 
nghiệp 4.0. Chương trình truyền hình, VTV4, 
Hà Nội, phát hình 13.5.2017. 
Lattanzi, M. (1998). Transdiscipliarity – 
“Stimulating Synergies And Integrating 
Knowledge”. International Symposium on 
Transdisciplinarity May 1998. Truy cập từ 
6/114694eo.pdf. 
Management Consultancy and Solutions (MACS). 
(2017). Industry 4.0 calls for IBM Maximo 7.6. 
 Truy cập từ: 
ibm-maximo-7-6/ 
Montaqim, A. (2016). Do you want chips with 
that? How robots are threatening millions of 
fast food jobs. Robotics and Automation 
News. 
Truy cập từ: 
2/17/do-you-want-chips-with-that-how-robots-
are-threatening-millions-of-fast-food-
jobs/2650/ 
Nègre, A. (1999). A transdisciplinary approach to 
science and astrology. Considerations, Issue. 
13.2:1998. 
Nicolescu, B. (1997). The transdisciplinary 
evolution of the university condition for 
sustainable development. Talk at the 
International Congress “Universities’ 
Responsabilities to Society”, International 
Association of Universities, Thailand, 12-
14/11/1997. 
Truy cập từ: 
transdisciplinarity.org/bulletin/b12c8.php 
Nirmala, J. (2016). Super smart society: Society 
5.0. Robotics Tomorrow – Online Robotic 
Trade Magazine. 
Truy cập từ: 
6/09/super-smart-society-society-50/8739 
Nguyễn, Đ. Đ. (2016). Cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối 
với Việt Nam. 
Truy cập từ: Nhóm Nghiên cứu quốc tế về Vật 
liệu tiên tiến và Cơ học kỹ thuật – Đại học 
Công nghệ: 
mang-cong-nghiep-lan-thu-4-co-hoi-va-thach-
thuc-voi-viet-nam/ 
Schwab, K. (2016a). The Fourth Industrial 
Revolution: what it means, how to respond. 
Truy cập từ World Economy Forum: 
https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-
fourth-industrial-revolution-what-it-means-
and-how-to-respond/ 
Schwab, K. (2016b). The Fourth Industrial 
Revolution. World Economic Forum 
Wakefield, J. (2016). Foxconn replaces ‘60,000 
factory workers with robots’. BBC News. Truy 
cập từ 
36376966 
Zuhlke, D. (2013). Industry 4.0 - the German 
vision for advanced manufacturing. 
SmartfactoryKL. Truy cập từ 
https://www.slideshare.net/vinnovase/industry-
40-the-german-vision-for-advanced-
manufacturing. 

File đính kèm:

  • pdfcach_mang_cong_nghiep_lan_thu_tu_co_hoi_va_thach_thuc_doi_vo.pdf