Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội

Khởi nghiệp có vai trò quan trọng đối với hoạt động

sáng tạo, phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho

người lao động (Moica và cộng sự, 2012). Chẳng hạn, tại Mỹ

thu nhập trung bình đã tăng 700 lần tính từ thế kỷ 19 đến

nay (Baumol, 2004), hơn 90% tài sản và 34 triệu việc làm

được tạo ra do các doanh nghiệp khởi nghiệp trong thập

niên 80 và 90 (Timmons và Spinelli, 1994). Tại Việt Nam

cũng vậy, đóng góp của các doanh nghiệp mới, đặc biệt là

các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ khu vực tư nhân chiếm

gần 50% GDP và thu hút khoảng 90% lao động mới (Lê

Quang, 2018). Như vậy, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp là

một giải pháp tốt để giải quyết việc làm, tăng tính năng

động của nền kinh tế và giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên,

các yếu tố ảnh hưởng đến việc khởi nghiệp có thể khác

nhau, tùy thuộc vào động lực của cá nhân (Devece và cộng

sự, 2016; Kirkwood, 2009; Verheul và cộng sự, 2006), và

cũng có thể khác nhau theo quốc gia (Crecente-Romero và

cộng sự, 2016) hoặc thậm chí tùy thuộc vào giới tính của

các cá nhân khởi nghiệp (Minniti và Bygrave, 2001).

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 1

Trang 1

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 2

Trang 2

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 3

Trang 3

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 4

Trang 4

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 5

Trang 5

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 6

Trang 6

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 7

Trang 7

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 8

Trang 8

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 7840
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành quản trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 49. 2018 120
KINH TẾ 
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP 
CỦA NỮ SINH VIÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH 
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 
FACTORS AFFECTING THE INTENTION OF STARTING A BUSINESS OF FEMALE STUDENTS MAJORING 
IN BUSINESS ADMINISTRATION IN HANOI 
Nguyễn Phương Mai*, Lưu Thị Minh Ngọc, Trần Hoàng Dũng 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này nhằm khám phá và xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu 
tố đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành QTKD đang học tại các trường 
đại học trên địa bàn Hà Nội. TPB là căn cứ hình thành mô hình nghiên cứu. Kết 
quả khảo sát 434 nữ sinh viên cho thấy, thái độ cá nhân, sự hỗ trợ từ chương 
trình đào tạo có ảnh hưởng mạnh nhất đến ý định khởi nghiệp của sinh viên. 
Từ khóa: ý định khởi nghiệp, thái độ cá nhân, chương trình đào tạo khởi 
nghiệp, nhận thức kiểm soát hành vi 
ABSTRACT 
This paper explores and measures the impact of factors on start-up intention 
of female students majoring in business administration (BA) in universities in 
Hanoi. TPB is the background to develop the research model in this paper. The 
results from a survey of 434 female BA students show that personal attitudes, 
support from the training program has the strongest influence on students' 
intention to start a business. 
Keywords: start-up intention, personal attitudes, start-up training program, 
perceived behavior control 
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội 
*Email: mainp@vnu.edu.vn 
Ngày nhận bài: 19/11/2018 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 07/12/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 25/12/2018 
CHỮ VIẾT TẮT 
QTKD: Quản trị kinh doanh 
TPB: Theory of Planned Behavior (Lý thuyết hành vi có kế hoạch) 
1. GIỚI THIỆU 
Khởi nghiệp có vai trò quan trọng đối với hoạt động 
sáng tạo, phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho 
người lao động (Moica và cộng sự, 2012). Chẳng hạn, tại Mỹ 
thu nhập trung bình đã tăng 700 lần tính từ thế kỷ 19 đến 
nay (Baumol, 2004), hơn 90% tài sản và 34 triệu việc làm 
được tạo ra do các doanh nghiệp khởi nghiệp trong thập 
niên 80 và 90 (Timmons và Spinelli, 1994). Tại Việt Nam 
cũng vậy, đóng góp của các doanh nghiệp mới, đặc biệt là 
các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ khu vực tư nhân chiếm 
gần 50% GDP và thu hút khoảng 90% lao động mới (Lê 
Quang, 2018). Như vậy, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp là 
một giải pháp tốt để giải quyết việc làm, tăng tính năng 
động của nền kinh tế và giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, 
các yếu tố ảnh hưởng đến việc khởi nghiệp có thể khác 
nhau, tùy thuộc vào động lực của cá nhân (Devece và cộng 
sự, 2016; Kirkwood, 2009; Verheul và cộng sự, 2006), và 
cũng có thể khác nhau theo quốc gia (Crecente-Romero và 
cộng sự, 2016) hoặc thậm chí tùy thuộc vào giới tính của 
các cá nhân khởi nghiệp (Minniti và Bygrave, 2001). 
Một xu hướng dễ quan sát thấy trong lĩnh vực khởi 
nghiệp hiện nay là có sự tham gia của nhiều thành phần, 
nhiều tầng lớp trong xã hội. Cùng với sự thay đổi của môi 
trường văn hóa xã hội, khởi nghiệp giờ đây không chỉ có 
nam giới mà cả nữ giới cũng tham gia ngày càng nhiều 
hơn. Chẳng hạn như tại Mỹ, số liệu thống kê cho thấy có 
đến 1/3 số doanh nghiệp mới thành lập là do nữ giới làm 
chủ (Norburn và Birley, 1988). Còn theo báo cáo GEM toàn 
cầu năm 2015, chuyên đề về Phụ nữ khởi nghiệp, tỷ lệ 
doanh nghiệp khởi nghiệp do nữ giới làm chủ là 6% trên 
toàn thế giới. Hơn nữa, trong số 83 nền kinh tế tham gia 
nghiên cứu GEM thì hơn một nửa quốc gia này được đánh 
giá là phụ nữ có khả năng sáng tạo không thua và thậm chí 
còn hơn nam giới (GEM, 2015). Có thể nói, nữ doanh nhân 
khởi nghiệp đóng vai trò thiết yếu cả về mặt xã hội, chuyên 
môn và kinh tế trong việc biến các quốc gia đang phát triển 
thành các nền kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo 
(Mastercard, 2017). 
Còn tại các nền kinh tế châu Á như Ấn Độ hay Trung 
Quốc, tỷ lệ phụ nữ khởi nghiệp cũng đang có xu hướng 
tăng lên. Tại Ấn Độ, tỷ lệ nữ doanh nhân trong số các 
doanh nghiệp khởi nghiệp là 14%. Ở Trung Quốc, tỷ lệ nữ 
doanh nhân khởi nghiệp trong các ngành thay đổi theo đặc 
thù riêng, trong đó lĩnh vực Internet là 25%, dịch vụ và tài 
chính là 15%, sau đó là các ngành khác dao động từ 2% đến 
10%. Cũng theo nghiên cứu về phụ nữ khởi nghiệp của 
MasterCard, khi sử dụng chỉ số đo lường hoạt động khởi 
nghiệp của nữ giới, các quốc gia có thứ hạng cao nhất gồm 
New Zealand (74,4/80 điểm), Canada (72,4/80 điểm), Mỹ 
(69,9/80 điểm), Thụy Điển (69,6/80 điểm) và Singapore 
ECONOMICS-SOCIETY 
Số 49.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121
(69,5/80 điểm). Theo cách tính điểm này thì hệ số phụ nữ 
khởi nghiệp của Việt Nam cũng ở mức đáng khuyến khích 
(65/80 điểm), đứng thứ 19 trong số 54 nước tham gia khảo 
sát (Mastercard, 2017). Tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề 
khởi nghiệp của nữ giới còn tương đối hạn chế. Và đặc biệt, 
nghiên cứu về vấn đề khởi nghiệp đối với đối tượng là nữ 
sinh viên càng ít ỏi. 
Tại Việt Nam hiện nay, thực trạng ...  nghiệm (KE) -0,095* 0,047 2,483 
Ảnh hưởng từ gia đình, bạn bè (SN) 0,170*** 0,000 2,375 
Thái độ cá nhân (PA) 0,516*** 0,000 2,481 
Tính cách cá nhân (PT) 0,262*** 0,000 2,931 
Nhận thức kiểm soát hành vi (PBC) -0,112* 0,029 2,880 
R2 0,611 
R2 điều chỉnh 0,605 
F 111,577 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 49. 2018 126
KINH TẾ 
nhiều mâu thuẫn. Ngoài ra, các yếu tố thuộc nhóm tính 
cách khác cũng cần được cân nhắc kiểm định ở bối cảnh 
Việt Nam vì chưa có bằng chứng khẳng định tính cách của 
sinh viên Việt Nam cũng tương tự như tính cách của sinh 
viên các quốc gia khác và tính cách của họ có ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp của họ hay không. 
(iii) Sự hỗ trợ từ chương trình đào tạo (ES) có ảnh hưởng 
mạnh và tích cực đến các sinh viên nữ ngành QTKD trong 
việc gia tăng Ý định khởi nghiệp của họ (β1 = 0,235, p-value 
< 0,001). Kết quả phân tích giá trị trung bình của các biến 
quan sát của thang đo ES trong nghiên cứu này cho giá trị 
lớn hơn 3,4. Điều này thể hiện, nữ sinh viên ngành QTKD 
rất tin tưởng vào sự trợ giúp từ ngành học và lấy cảm 
hứng khởi nghiệp từ việc học. Họ tin rằng các môn học 
trên giảng đường cung cấp cho học đủ kỹ năng để khởi 
nghiệp. Đáng chú ý, biến quan sát ES3 “Nhà trường phát 
triển kỹ năng và khả năng cho việc khởi nghiệp của tôi” có 
giá trị trung bình là 3,98 điều này chứng minh thêm luận 
điểm thứ nhất, khi tham gia vào ngành học này sinh viên 
được tiếp xúc với các lý thuyết môn học về kinh doanh nói 
chung và khởi nghiệp nói riêng làm tăng thái độ tích cực 
của sinh viên và từ đó gia tăng Ý định khởi nghiệp của 
nhóm đối tượng này. Kết quả nghiên cứu này cũng tương 
đồng với kết quả của một số nghiên cứu trước đây: kinh 
nghiệm kinh doanh của các cá nhân cho thấy sự phát 
triển về ý định kinh doanh của họ có được chủ yếu là do 
tham gia vào các khóa học hoặc lớn hơn là chịu ảnh 
hưởng của giáo dục về kinh doanh (Camelo-Ordaz và 
cộng sự, 2016; Fayolle, 2007; Peterman và Kennedy, 2003). 
(iv) Ảnh hưởng từ gia đình, bạn bè (SN) có tác động tích 
cực ở mức thấp đến Ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên 
ngành QTKD (β3 = 0,170, p-value < 0,001). Hệ số hồi quy 
không có giá trị lớn cho thấy, gia đình hay bạn bè có ảnh 
hưởng nhưng ở mức độ thấp đến ý định khởi nghiệp của 
nữ sinh viên. Ở một quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của Đạo 
Khổng như Việt Nam thì ảnh hưởng của bố mẹ, người thân 
đến quyết định nghề nghiệp là điều tất yếu xảy ra. Trước 
đây, có nhiều gia đình, bố mẹ thậm chí áp đặt con cái phải 
theo nghề nghiệp do bố mẹ lựa chọn. Tuy nhiên, hiện 
tượng này trong vài năm gần đây đã bắt đầu giảm dần khi 
thế hệ các ông bố bà mẹ tuổi 6X và 7X đã có thay đổi trong 
nhận thức và trao quyền tự do nhiều hơn cho con cái. Mặt 
khác, nữ sinh viên khi từ nông thôn lên thành phố để học 
đại học, sống xa gia đình thì suy nghĩ của họ cũng bớt bị 
phụ thuộc vào bố mẹ hơn nhưng họ lại có thể nghe lời 
khuyên của bạn bè nhiều hơn. Nói một cách khác, yếu tố 
truyền thống văn hóa và bối cảnh sống của nữ sinh viên có 
tác động điều chỉnh, chi phối lẫn nhau, lý giải phần nào kết 
quả của nghiên cứu này. 
(v) Nhận thức kiểm soát hành vi (PBC) có tác động ngược 
chiều đến Ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành QTKD 
(β6 = -0,112, p-value < 0,05). Khi nhận thức kiểm soát hành 
vi của họ tăng lên đồng nghĩa với việc khả năng thực hiện 
hành vi đó tăng lên. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, biến 
PBC lại có tác động ngược chiều đến Ý định khởi nghiệp 
của nữ sinh viên. Đặc biệt, ở biến quan sát “Bắt đầu khởi 
nghiệp và duy trì hoạt động kinh doanh có lẽ sẽ dễ dàng 
đối với tôi” (3,15) và biến “Tôi biết từng khía cạnh nhỏ có 
ích cần thiết để bắt đầu một doanh nghiệp” (3,12) mặc dù 
có chỉ số trung bình cao trong thang đo nhưng điều này 
thể hiện khi nữ sinh viên có nhận thức kiểm soát hành vi 
phù hợp thì họ lại khó thể đưa đến Ý định khởi nghiệp do 
nhận thấy khó khăn trong khởi nghiệp cũng như khó tiếp 
cận các nguồn lực thực hiện dự án. Đây là một phát hiện 
khá thú vị gắn liền với đặc điểm của đối tượng khảo sát là 
nữ giới vì vậy ý định khởi nghiệp cũng có thể bị chi phối bởi 
đặc thù giới tính với đặc điểm vốn có của nữ giới là tính 
quyết đoán không cao và thường các trường hợp nữ doanh 
nhân khởi nghiệp là do hoàn cảnh cuộc sống tạo ra áp lực 
thúc đẩy họ (Tambunan, 2009). 
(vi) Kiến thức và kinh nghiệm của nữ sinh viên là yếu tố 
ảnh hưởng ngược chiều đến Ý định khởi nghiệp của họ 
(β2 = -0,095, p-value < 0,05). Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng 
này là tương đối nhỏ. Theo đó, càng thực hành nhiều hơn 
về kinh doanh và khởi nghiệp, sinh viên càng giảm ý định 
khởi nghiệp. Kết quả hồi quy trong nghiên cứu này cũng có 
điểm tương đồng với một số nghiên cứu trước đây về ý 
định khởi nghiệp, như: Fuentes-García và Sánchez-
Canizares (2010), đã chỉ ra rằng nỗi sợ thất bại là trở ngại 
quan trọng nhất được nhận thức bởi nữ sinh viên khi họ có 
ý định khởi nghiệp; Carmen Camelo-Ordaz và cộng sự 
(2016), cũng đã cho thấy sự hiểu biết về khởi nghiệp sẽ gia 
tăng nỗi sợ thất bại của cá nhân. Đây là hiện tượng tâm lý 
phản ứng ngược của con người thường có thể xảy ra khi họ 
biết quá nhiều thì họ lại có xu hướng thận trọng hơn khi 
hành động. Thêm vào đó, việc khởi nghiệp đặt ra cho sinh 
viên rất nhiều thử thách và khó khăn đòi hỏi sinh viên cần 
áp dụng kiến thức đã học song, các trường hợp trong thực 
tế lại tương đối phức tạp, từ đó khi nữ sinh viên càng có 
nhiều kinh nghiệm thì họ càng thấy được bức tranh rõ nét 
về khởi nghiệp và làm giảm Ý định khởi nghiệp. 
Khởi nghiệp là một quyết định không đơn giản đối với 
mỗi sinh viên khi đang học và sắp ra trường. Từ ý định đến 
quyết định khởi nghiệp sẽ là một khoảng cách không nhỏ, 
đòi hỏi nhiều nỗ lực của bản thân để vượt qua. Đối với nữ 
giới, quyết định khởi nghiệp thường trở nên khó khăn hơn 
khi họ phải cân nhắc đến nhiều yếu tố chi phối so với nam 
giới. Kết quả nghiên cứu này đã cho thấy, các yếu tố chủ 
yếu tác động đến ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên, gồm: 
Thái độ cá nhân và Sự hỗ trợ từ chương trình đào tạo. Kết 
quả nghiên cứu này cho thấy, cần có thêm những nỗ lực hỗ 
trợ từ phía nhà trường và xã hội để thúc đẩy ý định khởi 
nghiệp của nữ sinh viên. 
Để hỗ trợ các sinh viên khởi nghiệp, nhà trường và xã 
hội cần có nhiều hơn các chương trình ươm mầm khởi 
nghiệp cho sinh viên. Ngoài các học phần trong chương 
trình chính khóa của nhà trường, các trường đại học nên 
đa dạng hóa hình thức giáo dục khởi nghiệp thông qua 
các hoạt động hợp tác với doanh nghiệp hay các cuộc thi 
khởi nghiệp, dự án khởi nghiệp. Hiện nay, một số trường 
ECONOMICS-SOCIETY 
Số 49.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 127
đại học đã có những hoạt động thúc đẩy phong trào khởi 
nghiệp và các hoạt động ươm mầm khởi nghiệp như Đại 
học Quốc gia Hà Nội có Trung tâm Chuyển giao tri thức 
và hỗ trợ khởi nghiệp, Đại học Bách khoa có không gian 
dành cho đổi mới sáng tạo như BKUP (co-working space) 
và nhiều các chương trình, cuộc thi khởi nghiệp dành cho 
sinh viên hàng năm. Những hoạt động như vậy cần được 
mở rộng để các trường thực sự đóng vai trò là thành 
phần quan trọng trong hệ sinh thái khởi nghiệp dành cho 
sinh viên. 
Bên cạnh đó, khi sinh viên có ý định khởi nghiệp, gia 
đình, bạn bè cần ủng hộ và đưa ra những lời khuyên hợp lý, 
không nên tạo áp lực gò bó đối với sinh viên, tránh làm cho 
bản thân sinh viên bị trầm cảm hay tự kỷ, suy nghĩ tiêu cực 
đến mức độ không dám khởi nghiệp. Quan trọng nhất là 
bản thân sinh viên cũng cần tự chủ động trang bị cho mình 
những kiến thức về kinh doanh để khi khởi nghiệp sẽ có 
khả năng phát triển hoạt động kinh doanh đó lâu dài chứ 
không chỉ dừng lại ở các dự án khởi nghiệp ban đầu. 
5. KẾT LUẬN 
 Nghiên cứu này khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến ý 
định khởi nghiệp của nữ sinh viên ngành QTKD và bước 
đầu có những đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố. 
Mô hình nghiên cứu cũng dừng lại ở việc xem xét sự tác 
động một chiều của các yếu tố đến ý định khởi nghiệp mà 
chưa xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố đó với nhau. Mô 
hình nghiên cứu cũng chưa xét đến ảnh hưởng của các 
biến kiểm soát như “bối cảnh gia đình” hay “năm học” đến 
ý định khởi nghiệp của nữ sinh viên. Hơn nữa, nghiên cứu 
còn hạn chế do quy mô mẫu nhỏ, thời gian nghiên cứu 
ngắn nên tính đại diện cho tổng thể chưa cao. Vì vậy, các 
nghiên cứu trong tương lai có thể sẽ bổ sung thêm các biến 
trong mô hình nghiên cứu và mở rộng quy mô mẫu để 
tăng tính đại diện của nghiên cứu./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ajzen, I., (1991). The theory of planned behavior. Organizational 
Behavior and Human Decision Processes, 50 (2), 179-211. 
2. Ambad, S. N. A., Damit, D. H. D. A., (2016). Determinants of 
entrepreneurial intention among undergraduate students in Malaysia. Procedia 
Economics and Finance, 37, 108-114. 
3. Birdthistle, N., (2008). An examination of tertiary students’ desire to 
found an enterprise. Education+ Training, 50 (7), 552-567. 
4. Camelo-Ordaz, C., Diánez-González, J. P., Ruiz-Navarro, J., (2016). The 
influence of gender on entrepreneurial intention: The mediating role of 
perceptual factors. BRQ Business Research Quarterly, 19 (4), 261-277. 
5. Crecente-Romero, F., Giménez-Baldazo, M. and Rivera-Galicia, L. F., 
(2016). Subjective perception of entrepreneurship. Differences among countries. 
Journal of Business Research, 69 (11), 5158-5162. 
6. Devece, C., Peris-Ortiz, M., Rueda-Armengot, C., (2016). 
Entrepreneurship during economic crisis: Success factors and paths to failure. 
Journal of Business Research, 69 (11), 5366-5370. 
7. Devonish, D., Alleyne, P., Charles-Soverall, W., Young Marshall, A., 
Pounder, P., (2010). Explaining entrepreneurial intentions in the Caribbean. 
International Journal of Entrepreneurial Behavior và Research, 16 (2), 149-171. 
8. Drucker, P. F., (2011). Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới. 
[9]. Engle, R. L., Dimitriadi, N., Gavidia, J. V., Schlaegel, C., Delanoe, S., 
Alvarado, I., Wolff, B., (2010). Entrepreneurial intent: A twelve-country 
evaluation of Ajzen’s model of planned behavior. International Journal of 
Entrepreneurial Behavior and Research, 16 (1), 35-57. 
10. Fayolle, A., (2007). Handbook of research in entrepreneurship 
education: A general perspective (Vol. 1). Edward Elgar Publishing. 
[11]. Fuentes-García J.F, Sánchez-Canizares, M.S., (2010). Analisis del perfil 
emprendedor: una perspectiva de genero. Estudios de Economia Aplicada, 8 (3), 
1-28. 
12. Fishbein, M. and Ajzen, I., (1975). Belief, attitude, intention and 
behavior: An introduction to theory and research. MA: Addison-Wesley. 
13. GEM, (2015). Global Entrepreneurship Monitor. 
[14]. Hà Thị Ngọc Thịnh, (2016). Việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên 
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Luận văn thạc sĩ. 
15. Heath, D. F., Corney, P. L., (1973). The effects of starvation, 
environmental temperature and injury on the rate of disposal of glucose by the 
rat. Biochemical Journal, 136 (3), 519- 530. 
16. Hoyer, W. D., MacInnis, D. J., (2004). Consumer behavior, 3rd. Boston. 
17. Kirkwood, J., (2009). Motivational factors in a push-pull theory of 
entrepreneurship. Gender in Management: An International Journal, 24 (5), 346-
364. 
18. Lê Quân, (2004). Động cơ khởi nghiệp của thanh niên Việt Nam. Tạp 
chí Khoa học Thương mại, 2. 
19. Lê Quang, (2018). Nghịch lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phòng Thương 
Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI). 
20. Maes, J., Leroy, H., Sels, L., (2014). Gender differences in 
entrepreneurial intentions: A TPB multi-group analysis at factor and indicator 
level. European Management Journal, 32 (5), 784-794. 
21. Maresch, D., Harms, R., Kailer, N., Wimmer-Wurm, B., (2016). The 
impact of entrepreneurship education on the entrepreneurial intention of 
students in science and engineering versus business studies university programs. 
Technological Forecasting and Social Change, 104, 172-179. 
22. Mastercard, (2017). Annual Reports - Investor Relations. 
[23]. Minniti, M., Bygrave, W., (2001). A dynamic model of entrepreneurial 
learning. Entrepreneurship Theory and Practice, 25 (3), 5-16. 
24. Minniti, M., Naudé, W., (2010). What do we know about the patterns 
and determinants of female entrepreneurship across countries? The European 
Journal of Development Research, 22 (3), 277-293. 
 25. Moica, S., Socaciu, T., Rădulescu, E., (2012). Model innovation system 
for economical development using entrepreneurship education. Procedia 
Economics and Finance, 3, 521-526. 
26. Nguyễn Quốc Nghi, Lê Thị Diệu Hiền, Mai Võ Ngọc Thanh, (2016). Các 
nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh tại các trường đại học/cao 
đẳng ở thành phố Cần Thơ. Tạp Chí Khoa Học, Trường Đại Học Cần Thơ, 55-64. 
27. Norburn, D., Birley, S., (1988). The top management team and 
corporate performance. Strategic Management Journal, 9 (3), 225-237. 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 49. 2018 128
KINH TẾ 
28. O’Connor, A., (2013). A conceptual framework for entrepreneurship 
education policy: Meeting government and economic purposes. Journal of 
Business Venturing, 28 (4), 546-563. 
29. Peterman, N. E., Kennedy, J., (2003). Enterprise education: Influencing 
students’ perceptions of entrepreneurship. Entrepreneurship Theory and 
Practice, 28 (2), 129-144. 
30. Phan Anh Tú, Nguyễn Thanh Sơn, (2015). Các nhân tố ảnh hưởng đến 
ý định khởi sự doanh nghiệp của sinh viên kinh tế đã tốt nghiệp trên đại bàn 
thành phố Cần Thơ. Tạp Chí Khoa Học Trường Đại Học Cần Thơ, 40, 39-49. 
31. Schumpeter, J. A., (1947). Theoretical problems of economic growth. 
The Journal of Economic History, 7 (S1), 1-9. 
32. Tambunan, T., (2009). Women entrepreneurship in Asian developing 
countries: Their development and main constraints. Journal of Development and 
Agricultural Economics, 1 (2), 027-040. 
33. Timmons, J. A., Spinelli, S., (1994). New venture creation: 
Entrepreneurship for the 21st century (Vol. 4). Irwin Burr Ridge, IL. 
34]. Turker, D., and Sonmez Selçuk, S., (2009). Which factors affect 
entrepreneurial intention of university students? Journal of European Industrial 
Training, 33 (2), 142-159. 
[35]. Tổ chức lao động quốc tế, (2017). Xu hướng việc làm toàn cầu cho thanh 
niên năm 2017: Những con đường dẫn đến một tương lai việc làm tốt hơn 
(Geneva). 
36. Verheul, I., Stel, A. V., Thurik, R., (2006). Explaining female and male 
entrepreneurship at the country level. Entrepreneurship and Regional 
Development, 18 (2), 151-183. 
37. Volkmann, C., Wilson, K. E., Marlotti, S., Rabuzzi, D., Vyakarnam, S., 
and Sepulveda, A., (2009). Educating the Next Wave of Entrepreneurs-Unlocking 
entrepreneurial capabilities to meet the global challenges of the 21st Century. A 
Report of the Global Education Initiative. 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_y_dinh_khoi_nghiep_cua_nu_sinh_vien.pdf