Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên
Tóm tắt: Tây Nguyên là vùng nguồn nước rất dồi dào với tổng lượng nước mặt hàng năm là
khoảng 46 tỷ m3 và trữ lượng nước ngầm khoảng 9 tỷ m3, là vùng rất có tiềm năng về nguồn
nước. Xét theo khả năng nguồn nước bình quân nhiều năm trên đầu người, Tây Nguyên được
xem là đủ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng tình trạng thiếu nước và căng thẳng về nguồn nước
vẫn thường xảy ra vào mùa khô. Theo dự báo, dân số và nhu cầu nước đến năm 2025, vùng này
sẽ bị thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô và mức căng thẳng sẽ ở phạm vi cao. Rõ ràng, tiềm
năng nguồn nước ở Tây Nguyên không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp phù hợp lưu giữ
nước trong mùa mưa để sử dụng cho mùa khô. Bài báo này trình bày tranh tổng thể về tài
nguyên nước ở Tây Nguyên và các vấn đề còn tồn tại trong việc quản lý và khai thác nguồn tài
nguyên nước, đặc biệt là tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên.
Từ khóa: Nước dưới đất, tài nguyên nước, Tây Nguyên.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 1 CÁC VẤN ĐỀ TRONG VIỆC KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ NGUỒN TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NGUYÊN Hà Hải Dương, Nguyễn Minh Tiến Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường Tóm tắt: Tây Nguyên là vùng nguồn nước rất dồi dào với tổng lượng nước mặt hàng năm là khoảng 46 tỷ m3 và trữ lượng nước ngầm khoảng 9 tỷ m3, là vùng rất có tiềm năng về nguồn nước. Xét theo khả năng nguồn nước bình quân nhiều năm trên đầu người, Tây Nguyên được xem là đủ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng tình trạng thiếu nước và căng thẳng về nguồn nước vẫn thường xảy ra vào mùa khô. Theo dự báo, dân số và nhu cầu nước đến năm 2025, vùng này sẽ bị thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô và mức căng thẳng sẽ ở phạm vi cao. Rõ ràng, tiềm năng nguồn nước ở Tây Nguyên không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp phù hợp lưu giữ nước trong mùa mưa để sử dụng cho mùa khô. Bài báo này trình bày tranh tổng thể về tài nguyên nước ở Tây Nguyên và các vấn đề còn tồn tại trong việc quản lý và khai thác nguồn tài nguyên nước, đặc biệt là tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên. Từ khóa: Nước dưới đất, tài nguyên nước, Tây Nguyên. Summary: Central Highland - Vietnam possesses huge water resources potential with available surface water amount of about 46 billion m3 and ground water reserves of nearly 9 billion m3. According to multi-year average water resources potential per capita, Central Highland is the area where the international standard water resources per capita is met, however, water shortage and water stress usually occur in dry season in this region. In 2025, according to the increase of population and water demand, this region is projected is at high level of water shortage in dry season. Thus, it is clear that Central Highland region have abundance of water resources but lack of the measures to storage water in rainny season for using in dry season. This paper presents a picture of water resources in Central Highland region and the issues for exploitation, utilization and management of waer resources, especially groundwater in this region. Keywords: Ground water, water resources, Central Highland - Vietnam. GIỚI THIỆU* Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của cả nước, là giao điểm của hai khu vực kinh tế trọng điểm gồm: khu vực kinh tế trọng điểm Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, được Nhà nước rất quan tâm và đầu tư trong những năm gần đây. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về dân số và kinh tế, nhu cầu sử dụng nước cũng tăng cao. Do đó, đảm bảo vấn đề cấp nước nói chung và cấp nước sinh hoạt nói riêng là rất cần thiết. Đặc biệt, việc cấp Ngày nhận bài: 25/4/2019 Ngày thông qua phản biện: 10/5/2019 Ngày duyệt đăng: 12/6/2019 nước sinh hoạt cho đồng bào thiểu số, cho vùng núi cao, vùng khan hiếm nước đóng vai trò rất quan trọng trong đảm bảo đời sống dân sinh – kinh tế và an ninh xã hội. Theo các nghiên cứu đánh giá trước đây, Tây Nguyên có tổng lượng mưa trung bình năm lớn nhưng lại phân bố không đồng đều. Lượng nước mùa mưa chiếm 85 - 90% tổng lượng mưa năm, riêng 6 tháng mùa khô chỉ chiếm 10 - 15%. Nhu cầu sử dụng nước ở Tây Nguyên hiện chỉ chiếm khoảng 8% so với tiềm năng nguồn nước có được. Theo chỉ tiêu của Ngân hàng Thế giới, Tây Nguyên nằm ngoài vùng căng thẳng về nước, tuy nhiên vào mùa khô hàng năm Tây Nguyên vẫn thường xuyên bị thiếu nước nghiêm trọng do hạn hán kéo dài. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 2 Rõ ràng, tiềm năng nguồn nước ở Tây Nguyên không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp phù hợp lưu giữ nước trong mùa mưa để sử dụng cho mùa khô. Bức tranh tổng thể về tài nguyên nước ở Tây Nguyên dưới tác động hoạt động kinh tế của con người cần phải được làm sáng tỏ nhằm đề ra các giải pháp khai thác sử dụng hợp lý, lâu dài nguồn nước, đồng thời bảo vệ nguồn nước khỏi bị cạn kiệt và ô nhiễm. Những thành tựu khoa học công nghệ hiện nay cho phép chúng ta đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khai thác hợp lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên một cách tích cực. 1. TIỀM NĂNG TÀI NGUYÊN NƯỚC VÙNG TÂY NGUYÊN 1.1. Tài nguyên nước mưa Theo tính toán, lượng mưa hàng năm trung bình khu vực Tây Nguyên nhìn chung thuộc loại cao hơn so với trung bình của cả nước và có sự khác biệt theo từng vùng. Vùng có lượng mưa năm lớn nhất Tây Nguyên là vùng phía Tây Nam Đà Lạt (LVS Đồng Nai) có lượng mưa từ 2400–2600mm và khu vực quanh thành phố Pleiku – Gia Lai có lượng mưa từ 2200-2400mm (Hình 1). Lượng mưa năm tuy lớn nhưng phân bố không đồng đều theo không gian, đặc biệt là theo thời gian (Hình 2). Cụ thể như sau: Hình 1: Bản đồ đẳng trị mưa năm khu vực Tây Nguyên Vùng phía Bắc thuộc LVS Sê San: Lượng mưa tập trung chủ yếu vào 6 tháng mùa mưa, từ tháng KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGH ... òng ngầm Q (l/s) 1 LVS Sê San 11620 4.50 49165.50 2 LVS Srêpok 18480 4.25 56750.13 3 LVS Ba 10970 4.75 22567.29 4 LVS Đồng Nai 10983 4.93 47805.91 Toàn Tây Nguyên 176288.83 Như vậy, tiềm năng nguồn nước dưới đất ở Tây Nguyên đặc trưng bởi hai giá trị là trữ lượng động tự nhiên (lưu lượng dòng ngầm) và trữ lượng tĩnh tự nhiên. Hai nguồn này hình thành nên tiềm năng trữ lượng khai thác của nước dưới đất, trong đó trữ lượng tĩnh tự nhiên (3,27 tỷ m3/năm) chiềm gần một nửa trữ lượng động tự nhiên. Tuy nhiên, trữ lượng động tự nhiên được xác định trên cơ sở số liệu quan trắc nhiều năm, còn trữ lượng tĩnh tự nhiên trình bày trong Bảng 2 được tính toán trên cơ sở những giả thiết về chiều dày và giá trị các thông số chứa. Giá trị lưu lượng dòng ngầm hoàn toàn phản ánh đầy đủ về tiềm năng nước dưới đất ở vùng nghiên cứu. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 8 Tóm lại, tiềm năng nguồn nước Tây nguyên được thống kê theo lưu vực đặc trưng bởi: tổng lượng nước mưa, nước mặt và nước ngầm và được trình bày trong Bảng 4. Bảng 4: Tiềm năng nước ở Tây Nguyên tính trung bình theo lưu vực sông STT Lưu vực Diện tích lưu vực (km2) Tổng lượng nước mưa (tỷ m3/năm) Tổng lượng dòng mặt (tỷ m3/năm) Tổng lượng dòng ngầm (tỷ m3/năm) 1 LVS Sê San 11620 22.37 11.62 2.24 2 LVS Srêpok 18480 32.64 13.18 2.07 3 LVS Ba 10970 17.28 14.83 0.82 4 LVS Đồng Nai 10983 21.01 6.82 1.62 Toàn Tây Nguyên 93.29 46.44 6.75 (Nguồn: Đoàn Văn Cánh, 2010) 2. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC VÀ CÁC VẤN ĐỀ TRONG QUẢN LÝ, KHAI THÁC TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NGUYÊN Tại Tây Nguyên, các hình thức khai thác nước nước dưới đất rất phong phú, tùy theo mục đích sử dụng, các hình thức khai thác nước cũng khác nhau. Xét riêng về khai thác nước phục vụ sinh hoạt, các hình thức khai thác chủ yếu là: giếng đào, khai thác nước tại điểm lộ, giếng khoan đơn lẻ và tập trung, số lượng được thống kê theo Bảng 5. Bảng 5: Thống kê số lượng công trình khai thác nước phục vụ sinh hoạt Tây Nguyên STT Tỉnh Hình thức khai thác Giếng đào GK đường kính nhỏ GK sâu, đường kính lớn Điểm lộ 1 Kon Tum 17,000 211 39 158 2 Gia Lai 54,181 1,638 355 231 3 Đăk Lăk 68,204 2,571 303 256 4 Đăk Nông 9,102 628 89 167 5 Lâm Đồng 1,718 890 63 124 Tổng cộng 150,205 5,938 849 936 Nguồn: Sở Tài Nguyên và Môi trường các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng Nhìn chung, hiện trạng cấp nước sinh hoạt tập trung tại Tây Nguyên cơ bản như sau: Ở tỉnh Kon Tum, tổng công suất các nhà máy cấp nước đạt khoảng 22,000m3/ngđ, và hiện khai thác khoảng 9,000m³/ngđ. Trong đó nổi bật là nhà máy nước KonTum với công suất 15.000 m3/ngđ và hiện khai thác khoảng 7,500m3/ngđ. Ngoài ra, việc khai thác nước dưới đất với lỗ khoan có đường kính lớn (≥110 mm) và độ sâu của GK đạt trên 60m cũng khá đáng kể, tập trung vào các nhà máy, xí nghiệp sản xuất kinh doanh, các bệnh viện, các trường học, đơn vị quân đội với tổng lượng nước khai thác 8,000m3/ngđ. Ở Gia Lai có 12 khu vực có nhà máy cấp nước phục vụ cấp nước tập trung, trong đó có TP.Pleiky và 11 thị trấn thuộc các huyện với công suất thiết kế 68,000m3/ngđ, công suất KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 9 đang khai thác 30,500m3/ngđ, với 50,833 hộ sử dụng nước trong đó có 50.500 hộ nhân dân, số còn lại là đơn vị cơ quan và nhà hàng khách sạn. Ngoài ra, các cơ quan quốc phòng, các trường học nội trú, bệnh viện, nông trường xí nghiệp cũng được đầu tư khai thác nước cho ăn uống và sinh hoạt bằng công trình khai thác nước ngầm. Trữ lượng nước ngầm đang được khai thác trên địa bàn tỉnh Gia Lai bằng các LK đường kính lớn (≥110mm) tính đến hết năm 2001 là khoảng 12,118m3/ngđ. Hiện nay TP. Buôn Ma Thuột đã có hệ thống khai thác nước ngầm khá hoàn chỉnh nhờ chính phủ Đan Mạch tài trợ. Với số lượng 33 GK trên 5 bãi giếng và hai cụm điểm lộ Ea Cô Tam và Cư Pul có thể khai thác 49,000m3/ngđ (điểm lộ Ea Cô Tam: 15,000m3/ngđ; điểm lộ Cư Pul: 10,000m3/ngđ; Ea M’sen: 10,000m3/ngđ; bãi giếng Thắng Lợi cũ và mới với 12 GK: 8,000m3/ngđ; bãi giếng Đạt Lý 14 GK: 6,000m3/ngđ và bãi giếng Hòa Thắng 7 GK: 4,000m3/ngđ). Ngoài ra, gần đây trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn đã đầu tư các cụm khai thác nước quy mô nhỏ phục vụ cho các thị tứ, thị trấn. Tại Lâm Đồng, theo số liệu của Bộ TN&MT, tính đến cuối năm 2011, số lượng giếng đài đã và đang khai thác NDĐ ở Lâm Đồng là 1,718 giếng. trong đó có 108 giếng cung cấp nước cho các cụm dân cư; 1,610 giếng do tư nhân quản lý và khai thác. Theo kết quả khảo sát lập Bản đồ Quản lý NDĐ ở TX Bảo Lộc, huyện miền núi Bảo Lâm và huyện Cát Tiên, số lượng các công trình khai thác nước đơn lẻ tỉnh Lâm Đồng là được thống kê là 890 lỗ khoan với tổng lượng khai thác là 18,400m3/ngđ. Tuy nhiên, việc khai thác tự phát, không theo tư vấn, hướng dẫn của các đơn vị, cơ quan chuyên môn, đặc biệt việc tự phát xây dựng các lỗ khoan, giếng đào khai thác nước phục vụ sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến sự suy giảm mực nước ngầm trong mùa khô. Theo số liệu của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước Quốc Gia, từ tháng 12/2014 đến tháng 4/2015 mực nước ngầm liên tục giảm ở hầu hết các lỗ khoan quan trắc Hình 5 và Hình 6). Đối với tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng Bazan Pleistocen giữa βQII, xu thế hạ thấp chiếm ưu thế trong các tháng mùa khô, điển hình tại Ea Nam, Ea H’leo, Đăk Lăk và Ia Dom, Đức Cơ, Gia Lai. Trong 6 tháng đầu năm 2015, lỗ khoan LK29T (Ea Nam) ghi nhận mực nước hạ thấp 7.05m và 5.06m đối với lỗ khoan LK166T. Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 Hình 5: Dự báo độ sâu mực nước tháng 2 và 3 năm 2015 tầng βQII KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 10 Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 Hình 6: Dự báo độ sâu mực nước tháng 2 và 3 năm 2015 tầng βN2-QI Đối với tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng Bazan Pliocen - Pleistocen dưới βN2-QI, xu thế hạ thấp cũng chiếm ưu thế, điển hình là các lỗ khoan quan trắc ở Đức Cơ, Gia Lai và ở Tp. Bảo lộc, Lâm Đồng. Tháng 1/2015, giá trị hạ thấp nhất là 13.9m tại xã Ia Din, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai (LK163T). Tháng 2/2015, Giá trị hạ thấp nhất là 4,75m tại TT.Chư Ty, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai (K165T) và mực nước sâu nhất là 126.33m tại Phường 2, TP.Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng (C10o). Mực nước tháng 10/2014 Mực nước tháng 12/2014 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 11 Mực nước tháng 2/2015 Mực nước tháng 3/2015 Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 Hình 7: Diễn biến mực nước tầng Bazan Pleistocen giữa βQII mùa khô năm 2015 Tây Nguyên Mực nước tháng 10/2014 Mực nước tháng 12/2014 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 12 Mực nước tháng 2/2015 Mực nước tháng 3/2015 Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 Hình 8: Diễn biến mực nước tầng Bazan Pliocen-Pleistocen dưới βN2-QI mùa khô năm 2015 Tây Nguyên Theo kết quả điều tra, khảo sát thực địa năm 2016 thuộc đề tài “Nghiên cứu đề xuất các mô hình, giải pháp công nghệ khai thác và bảo vệ nguồn nước trong các thành tạo Bazan phục vụ cấp nước sinh hoạt bền vững tại các vùng núi cao, khan hiếm nước khu vực Tây Nguyên”, trong số 501 lỗ khoan khai thác tập trung cấp nước sinh hoạt đã được điều tra chi tiết, toàn vùng Tây Nguyên có tổng cộng 206 lỗ khoan có lưu lượng khai thác lớn hơn 180m3/ngđ, 13 lỗ khoan đã ngừng khai thác do lưu lượng quá thấp. Các lỗ khoan lớn chủ yếu tập trung ở 2 tỉnh Đăk Lăk và Gia Lai với số lượng lỗ khoan tương ứng là 84 và 72. Ít nhất là tại Kon Tum (7 lỗ khoan), Đăk Nông (19 lỗ khoan) và Lâm Đồng (26 lỗ khoan). Tổng lưu lượng khai thác của các lỗ khoan đã điều tra là 115.144m3/ngđ. Lỗ khoan có lưu lượng khai thác lớn nhất là 2074 m3/ngđ (LK PKL9 – cấp nước cho bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai) và nhỏ nhất là 20m3/ngđ (LK CJ21 là lỗ khoan cấp nước sinh hoạt cho thôn 2 – Nam Dong – Cư Jút – Đăk Nông). Lưu lượng khai thác của các lỗ khoan này không giảm nhiều so với lưu lượng thiết kế. Các lỗ khoan này chủ yếu tập trung ở các khu vực thị trấn, thị tứ, hoặc là các lỗ khoan cấp nước cho các trường học, bệnh viện và đơn vị quân đội. Còn nhân dân sống tại các buôn, đặc biệt là đồng bảo dân tộc thiểu số sông tại vùng nông thôn vẫn dùng nước chủ yếu tại các điểm lộ và giếng đào tự phát. Tại các vùng khan hiếm nước (theo QĐ264/TT-TTG), nước sinh hoạt cho nhân dân chủ yếu được cung cấp từ các mạch lộ, một số nơi có giếng đào và giếng khoan đơn lẻ đường kính nhỏ nhưng số lượng rất ít và lưu lượng thấp, các giếng khoan sâu khai thác nước tập trung hầu như không có hoặc có nhưng không đảm bảo lưu lượng cấp nước tập trung. Bên cạnh đó, việc xây dựng lỗ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 13 khoan phục vụ nông nghiệp một cách tự phát khiến mực nước ngầm hạ thấp, nguồn nước sinh hoạt cho đồng bào rất hạn chế, đặc biệt là vào mùa khô. Theo kết quả điều tra, tại xã Iabang, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, trong 2 năm gần đây, các giếng phải đào sâu thêm 3m/năm thì người dân mới đủ nước ăn trong mùa khô. Tình trạng cạn kiệt cũng diễn ra tương tự tại tất cả 36 xã khan hiếm nước ở Tây Nguyên thời điểm mùa khô năm 2015 và 2016. Việc quản lý, vận hành các trạm cấp nước sinh hoạt tập trung cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu nhân lực, kinh phí, hiệu quả khai thác thấp và tập quán sinh hoạt đặc thù của đồng bảo dân tộc thiểu số. Đồng bào dân tộc thiểu số tại nhiều buôn, làng có thói quen sử dụng nước từ các điểm lộ (giọt nước) và không sẵn lòng chi trả chi phí điện năng để vận hành các giếng khoan cấp nước tập trung. Bên cạnh việc thiếu hụt về lượng, chất lượng nước cũng là vấn đề cần được quan tâm. Mặc dù kết quả đo nhanh cho thấy chất lượng nước trong tầng chứa Bazan khá tốt (pH từ 6.0 đến 7.6; TDS từ 0.03 đến 0.93g/l) nhưng hầu hết các giếng khoan cấp nước tập trung không có hệ thống xử lý nước. Trong số các giếng khoan đã điều tra, chỉ có 5 lỗ khoan có đầu tư công nghệ lọc nước, tại các đơn vị quân đội, công ty cao su (cấp nước cho cán bộ công nhân viên) và bệnh viện. Như tại tỉnh Kon Tum, trong tổng số 17.000 giếng đào, số giếng đạt vệ sinh ăn uống khoảng 15.000 giếng, chiếm gần 90%, số còn lại trong tình trạng không có nền giếng, thành giếng, hoặc có nhưng không đảm bảo cách ly nước mặt ngấm xuống, một số giếng gần khu vực vệ sinh, khu chăn nuôi gia súc, gia cầm nên thường bị ô nhiễm vi sinh. Do đó, các biện pháp quản lý khai thác, bảo vệ nước dưới đất và áp dụng các công nghệ khai thác hợp lý, tiết kiệm để quản lý bền vững tài nguyên nước ngầm là vấn đề rất cấp thiết cho Tây Nguyên. KẾT LUẬN Như vậy, nguồn tài nguyên nước Tây Nguyên có tiềm năng lớn trong khai thác, với tổng lượng mưa hơn 93 tỷ m3, tổng lượng dòng mặt hơn 46 tỷ m3 và lượng nước ngầm hơn 9 tỷ m3. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên nước lại phân bố không đồng đều theo không gian với mùa khô kéo dài (6 tháng từ tháng XI đến tháng IV năm sau). Lượng mưa mùa khô trung bình chỉ chiếm 15% lượng mưa năm, dòng chảy mùa khô chỉ chiếm khoảng 30% tổng lượng dòng chảy mặt. Nguồn tài nguyên nước ngầm có trữ lượng khá lớn với trữ lượng tĩnh khoảng 3.2 tỷ m3 và trữ lượng động khoảng 6.7 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, hiện tượng khai thác nước ngầm tự phát không theo hướng dẫn, tư vấn để phục vụ tưới cho nông nghiệp đã làm cho mực nước ngầm hạ thấp. Các công trình cấp nước tập trung cho nhân dân ở vùng nông thôn lại thiếu, khả năng vận hành và duy trì vận hành còn yếu. Kết hợp với tình trạng hạn hán diễn ra nghiêm trọng trong 2 năm vừa qua, hiện tượng thiếu nước sinh hoạt diễn ra tại nhiều vùng ở Tây Nguyên. Hơn nữa, các công trình cấp nước đảm bảo về mặt chất lượng nước cấp cũng là một vấn đề cần phải quan tâm trong tương lai. Lí do của tình trạng thiếu nước vẫn xảy ra thường xuyên mặc dù nguồn nước có tiềm năng lớn là hiệu quả của các công trình khai thác còn kém, các công trình trữ nước, phân phối nước theo mùa còn thiếu. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều mô hình công nghệ vừa giúp nâng cao hiệu quả khai thác nước, vừa bảo vệ nguồn tài nguyên nước đã được áp dụng và mang lại kết quả rất tốt. Qua nghiên cứu, các mô hình thu gom nước mưa, thu gom nước mặt sau đó tích chứa, bổ cập vào các tầng chứa nước để sử dụng vào mùa khô đã được áp dụng thành công cả trên thế giới và Việt Nam. Xây dựng đập ngầm để thay đổi kết cấu tầng trữ nước cũng là một biện pháp khả thi. Các công nghệ này hoàn KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 14 toàn có thể áp dụng để đảm bảo cấp nước sinh hoạt và khai thác tài nguyên một cách bền vững trong bối cảnh của Tây Nguyên. LỜI CẢM ƠN Nội dung của bài báo là một phần kết quả 3 năm nghiên cứu thuộc đề tài “Nghiên cứu đề xuất các mô hình, giải pháp công nghệ khai thác và bảo vệ nguồn nước trong các thành tạo Bazan phục vụ cấp nước sinh hoạt bền vững tại các vùng núi cao, khan hiếm nước khu vực Tây Nguyên” mã số ĐTĐL.CN-65/15. Nhóm tác giả xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện khoa học thủy lợi Việt Nam đã tạo điều kiện và hỗ trợ trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] CGWB (Central Ground Water Board), 2007. Manual on Artificial Recharge of Ground Water. Technical Series-M, No. 3. Ministry of Water Resources, Government of India, pp. 215. [2] Đoàn Văn Cánh, 2005. Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất các giải pháp bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên nước vùng Tây Nguyên. Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp Nhà nước KC.08.05 giai đoạn 2000-2005. Trung tâm thông tin KHKT Quốc gia. Hà Nội, 2005. 260 trang. [3] Đoàn Văn Cánh, 2010. Nghiên cứu cơ sở khoa học và xây dựng các giải pháp lưu giữ nước mưa vào lòng đất phục vụ chống hạn và bảo vệ tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên. Đại học Mỏ - Địa chất. Hà Nội. [4] Nilson, A., 1988. Groundwater dams for small-scale water supply. IT Publications, London. [5] Nguyễn Cao Đơn, 2012. Vai trò và tiềm năng ứng dụng của đập dâng nước ngầm trong phát triển bền vững tài nguyên nước. Tạp chí khoa học kỹ thuật thủy lợi và môi trường - số 39 (12/2012). [6] Osuga, K. ,1997. The development of groundwater resources on the Miyakojima Islands. In: J.I Uilto, and J. Schneider (eds.), Freshwater resources in arid lands, United Nations University, Tokyo [7] Trung tâm Cảnh báo và Dự báo tài nguyên nước, 2015. Bản tin dự báo, cảnh báo tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên. Trung tâm Điều tra và Quy hoạch tài nguyên nước Quốc Gia, Hà Nội
File đính kèm:
- cac_van_de_trong_viec_khai_thac_su_dung_va_quan_ly_nguon_tai.pdf