Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên

Tóm tắt: Tây Nguyên là vùng nguồn nước rất dồi dào với tổng lượng nước mặt hàng năm là

khoảng 46 tỷ m3 và trữ lượng nước ngầm khoảng 9 tỷ m3, là vùng rất có tiềm năng về nguồn

nước. Xét theo khả năng nguồn nước bình quân nhiều năm trên đầu người, Tây Nguyên được

xem là đủ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng tình trạng thiếu nước và căng thẳng về nguồn nước

vẫn thường xảy ra vào mùa khô. Theo dự báo, dân số và nhu cầu nước đến năm 2025, vùng này

sẽ bị thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô và mức căng thẳng sẽ ở phạm vi cao. Rõ ràng, tiềm

năng nguồn nước ở Tây Nguyên không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp phù hợp lưu giữ

nước trong mùa mưa để sử dụng cho mùa khô. Bài báo này trình bày tranh tổng thể về tài

nguyên nước ở Tây Nguyên và các vấn đề còn tồn tại trong việc quản lý và khai thác nguồn tài

nguyên nước, đặc biệt là tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên.

Từ khóa: Nước dưới đất, tài nguyên nước, Tây Nguyên.

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 1

Trang 1

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 2

Trang 2

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 3

Trang 3

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 4

Trang 4

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 5

Trang 5

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 6

Trang 6

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 7

Trang 7

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 8

Trang 8

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 9

Trang 9

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang baonam 11940
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên

Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 1
CÁC VẤN ĐỀ TRONG VIỆC KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ 
NGUỒN TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NGUYÊN 
Hà Hải Dương, Nguyễn Minh Tiến 
Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường 
Tóm tắt: Tây Nguyên là vùng nguồn nước rất dồi dào với tổng lượng nước mặt hàng năm là 
khoảng 46 tỷ m3 và trữ lượng nước ngầm khoảng 9 tỷ m3, là vùng rất có tiềm năng về nguồn 
nước. Xét theo khả năng nguồn nước bình quân nhiều năm trên đầu người, Tây Nguyên được 
xem là đủ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng tình trạng thiếu nước và căng thẳng về nguồn nước 
vẫn thường xảy ra vào mùa khô. Theo dự báo, dân số và nhu cầu nước đến năm 2025, vùng này 
sẽ bị thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô và mức căng thẳng sẽ ở phạm vi cao. Rõ ràng, tiềm 
năng nguồn nước ở Tây Nguyên không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp phù hợp lưu giữ 
nước trong mùa mưa để sử dụng cho mùa khô. Bài báo này trình bày tranh tổng thể về tài 
nguyên nước ở Tây Nguyên và các vấn đề còn tồn tại trong việc quản lý và khai thác nguồn tài 
nguyên nước, đặc biệt là tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên. 
Từ khóa: Nước dưới đất, tài nguyên nước, Tây Nguyên. 
Summary: Central Highland - Vietnam possesses huge water resources potential with available 
surface water amount of about 46 billion m3 and ground water reserves of nearly 9 billion m3. 
According to multi-year average water resources potential per capita, Central Highland is the 
area where the international standard water resources per capita is met, however, water shortage 
and water stress usually occur in dry season in this region. In 2025, according to the increase of 
population and water demand, this region is projected is at high level of water shortage in dry 
season. Thus, it is clear that Central Highland region have abundance of water resources but lack 
of the measures to storage water in rainny season for using in dry season. This paper presents a 
picture of water resources in Central Highland region and the issues for exploitation, utilization 
and management of waer resources, especially groundwater in this region. 
Keywords: Ground water, water resources, Central Highland - Vietnam. 
GIỚI THIỆU* 
Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng 
trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc 
phòng của cả nước, là giao điểm của hai khu 
vực kinh tế trọng điểm gồm: khu vực kinh tế 
trọng điểm Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm 
Trung Bộ, được Nhà nước rất quan tâm và đầu 
tư trong những năm gần đây. Cùng với sự tăng 
trưởng mạnh mẽ về dân số và kinh tế, nhu cầu 
sử dụng nước cũng tăng cao. Do đó, đảm bảo 
vấn đề cấp nước nói chung và cấp nước sinh 
hoạt nói riêng là rất cần thiết. Đặc biệt, việc cấp 
Ngày nhận bài: 25/4/2019 
Ngày thông qua phản biện: 10/5/2019 
Ngày duyệt đăng: 12/6/2019 
nước sinh hoạt cho đồng bào thiểu số, cho vùng 
núi cao, vùng khan hiếm nước đóng vai trò rất 
quan trọng trong đảm bảo đời sống dân sinh – 
kinh tế và an ninh xã hội. 
Theo các nghiên cứu đánh giá trước đây, Tây 
Nguyên có tổng lượng mưa trung bình năm 
lớn nhưng lại phân bố không đồng đều. Lượng 
nước mùa mưa chiếm 85 - 90% tổng lượng 
mưa năm, riêng 6 tháng mùa khô chỉ chiếm 10 
- 15%. Nhu cầu sử dụng nước ở Tây Nguyên 
hiện chỉ chiếm khoảng 8% so với tiềm năng 
nguồn nước có được. Theo chỉ tiêu của Ngân 
hàng Thế giới, Tây Nguyên nằm ngoài vùng 
căng thẳng về nước, tuy nhiên vào mùa khô 
hàng năm Tây Nguyên vẫn thường xuyên bị 
thiếu nước nghiêm trọng do hạn hán kéo dài. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 2
Rõ ràng, tiềm năng nguồn nước ở Tây Nguyên 
không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp 
phù hợp lưu giữ nước trong mùa mưa để sử 
dụng cho mùa khô. Bức tranh tổng thể về tài 
nguyên nước ở Tây Nguyên dưới tác động 
hoạt động kinh tế của con người cần phải được 
làm sáng tỏ nhằm đề ra các giải pháp khai thác 
sử dụng hợp lý, lâu dài nguồn nước, đồng thời 
bảo vệ nguồn nước khỏi bị cạn kiệt và ô 
nhiễm. Những thành tựu khoa học công nghệ 
hiện nay cho phép chúng ta đưa ra các giải 
pháp hữu hiệu nhằm khai thác hợp lý và bảo 
vệ tài nguyên thiên nhiên một cách tích cực. 
1. TIỀM NĂNG TÀI NGUYÊN NƯỚC 
VÙNG TÂY NGUYÊN 
1.1. Tài nguyên nước mưa 
Theo tính toán, lượng mưa hàng năm trung 
bình khu vực Tây Nguyên nhìn chung thuộc 
loại cao hơn so với trung bình của cả nước và 
có sự khác biệt theo từng vùng. Vùng có lượng 
mưa năm lớn nhất Tây Nguyên là vùng phía 
Tây Nam Đà Lạt (LVS Đồng Nai) có lượng 
mưa từ 2400–2600mm và khu vực quanh 
thành phố Pleiku – Gia Lai có lượng mưa từ 
2200-2400mm (Hình 1). Lượng mưa năm tuy 
lớn nhưng phân bố không đồng đều theo 
không gian, đặc biệt là theo thời gian (Hình 
2). Cụ thể như sau: 
Hình 1: Bản đồ đẳng trị mưa năm khu vực Tây Nguyên 
Vùng phía Bắc thuộc LVS Sê San: Lượng mưa tập trung chủ yếu vào 6 tháng mùa mưa, từ tháng 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGH ... òng ngầm 
Q (l/s) 
1 LVS Sê San 11620 4.50 49165.50 
2 LVS Srêpok 18480 4.25 56750.13 
3 LVS Ba 10970 4.75 22567.29 
4 LVS Đồng Nai 10983 4.93 47805.91 
 Toàn Tây Nguyên 176288.83 
Như vậy, tiềm năng nguồn nước dưới đất ở 
Tây Nguyên đặc trưng bởi hai giá trị là trữ 
lượng động tự nhiên (lưu lượng dòng ngầm) 
và trữ lượng tĩnh tự nhiên. Hai nguồn này 
hình thành nên tiềm năng trữ lượng khai thác 
của nước dưới đất, trong đó trữ lượng tĩnh tự 
nhiên (3,27 tỷ m3/năm) chiềm gần một nửa 
trữ lượng động tự nhiên. Tuy nhiên, trữ 
lượng động tự nhiên được xác định trên cơ 
sở số liệu quan trắc nhiều năm, còn trữ 
lượng tĩnh tự nhiên trình bày trong Bảng 2 
được tính toán trên cơ sở những giả thiết về 
chiều dày và giá trị các thông số chứa. Giá 
trị lưu lượng dòng ngầm hoàn toàn phản ánh 
đầy đủ về tiềm năng nước dưới đất ở vùng 
nghiên cứu. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 8
Tóm lại, tiềm năng nguồn nước Tây nguyên 
được thống kê theo lưu vực đặc trưng bởi: 
tổng lượng nước mưa, nước mặt và nước ngầm 
và được trình bày trong Bảng 4. 
Bảng 4: Tiềm năng nước ở Tây Nguyên tính trung bình theo lưu vực sông 
STT Lưu vực 
Diện tích 
lưu vực 
(km2) 
Tổng lượng 
nước mưa 
(tỷ m3/năm) 
Tổng lượng 
dòng mặt 
(tỷ m3/năm) 
Tổng lượng 
dòng ngầm 
 (tỷ m3/năm) 
1 LVS Sê San 11620 22.37 11.62 2.24 
2 LVS Srêpok 18480 32.64 13.18 2.07 
3 LVS Ba 10970 17.28 14.83 0.82 
4 LVS Đồng Nai 10983 21.01 6.82 1.62 
 Toàn Tây Nguyên 93.29 46.44 6.75 
(Nguồn: Đoàn Văn Cánh, 2010) 
2. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC VÀ CÁC 
VẤN ĐỀ TRONG QUẢN LÝ, KHAI THÁC 
TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG 
TÂY NGUYÊN 
Tại Tây Nguyên, các hình thức khai thác nước 
nước dưới đất rất phong phú, tùy theo mục 
đích sử dụng, các hình thức khai thác nước 
cũng khác nhau. Xét riêng về khai thác nước 
phục vụ sinh hoạt, các hình thức khai thác chủ 
yếu là: giếng đào, khai thác nước tại điểm lộ, 
giếng khoan đơn lẻ và tập trung, số lượng 
được thống kê theo Bảng 5. 
Bảng 5: Thống kê số lượng công trình khai thác nước phục vụ sinh hoạt Tây Nguyên 
STT Tỉnh 
Hình thức khai thác 
Giếng 
đào 
GK đường 
kính nhỏ 
GK sâu, đường 
kính lớn 
Điểm lộ 
1 Kon Tum 17,000 211 39 158 
2 Gia Lai 54,181 1,638 355 231 
3 Đăk Lăk 68,204 2,571 303 256 
4 Đăk Nông 9,102 628 89 167 
5 Lâm Đồng 1,718 890 63 124 
Tổng cộng 150,205 5,938 849 936 
Nguồn: Sở Tài Nguyên và Môi trường các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng 
Nhìn chung, hiện trạng cấp nước sinh hoạt tập 
trung tại Tây Nguyên cơ bản như sau: 
Ở tỉnh Kon Tum, tổng công suất các nhà máy 
cấp nước đạt khoảng 22,000m3/ngđ, và hiện 
khai thác khoảng 9,000m³/ngđ. Trong đó nổi 
bật là nhà máy nước KonTum với công suất 
15.000 m3/ngđ và hiện khai thác khoảng 
7,500m3/ngđ. Ngoài ra, việc khai thác nước 
dưới đất với lỗ khoan có đường kính lớn (≥110 
mm) và độ sâu của GK đạt trên 60m cũng khá 
đáng kể, tập trung vào các nhà máy, xí nghiệp 
sản xuất kinh doanh, các bệnh viện, các trường 
học, đơn vị quân đội với tổng lượng nước khai 
thác 8,000m3/ngđ. 
Ở Gia Lai có 12 khu vực có nhà máy cấp nước 
phục vụ cấp nước tập trung, trong đó có 
TP.Pleiky và 11 thị trấn thuộc các huyện với 
công suất thiết kế 68,000m3/ngđ, công suất 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 9
đang khai thác 30,500m3/ngđ, với 50,833 hộ 
sử dụng nước trong đó có 50.500 hộ nhân dân, 
số còn lại là đơn vị cơ quan và nhà hàng khách 
sạn. Ngoài ra, các cơ quan quốc phòng, các 
trường học nội trú, bệnh viện, nông trường xí 
nghiệp cũng được đầu tư khai thác nước cho 
ăn uống và sinh hoạt bằng công trình khai thác 
nước ngầm. Trữ lượng nước ngầm đang được 
khai thác trên địa bàn tỉnh Gia Lai bằng các 
LK đường kính lớn (≥110mm) tính đến hết 
năm 2001 là khoảng 12,118m3/ngđ. 
Hiện nay TP. Buôn Ma Thuột đã có hệ thống 
khai thác nước ngầm khá hoàn chỉnh nhờ 
chính phủ Đan Mạch tài trợ. Với số lượng 33 
GK trên 5 bãi giếng và hai cụm điểm lộ Ea Cô 
Tam và Cư Pul có thể khai thác 49,000m3/ngđ 
(điểm lộ Ea Cô Tam: 15,000m3/ngđ; điểm lộ 
Cư Pul: 10,000m3/ngđ; Ea M’sen: 
10,000m3/ngđ; bãi giếng Thắng Lợi cũ và mới 
với 12 GK: 8,000m3/ngđ; bãi giếng Đạt Lý 14 
GK: 6,000m3/ngđ và bãi giếng Hòa Thắng 7 
GK: 4,000m3/ngđ). Ngoài ra, gần đây trung 
tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường 
nông thôn đã đầu tư các cụm khai thác nước 
quy mô nhỏ phục vụ cho các thị tứ, thị trấn. 
Tại Lâm Đồng, theo số liệu của Bộ TN&MT, 
tính đến cuối năm 2011, số lượng giếng đài đã 
và đang khai thác NDĐ ở Lâm Đồng là 1,718 
giếng. trong đó có 108 giếng cung cấp nước 
cho các cụm dân cư; 1,610 giếng do tư nhân 
quản lý và khai thác. Theo kết quả khảo sát lập 
Bản đồ Quản lý NDĐ ở TX Bảo Lộc, huyện 
miền núi Bảo Lâm và huyện Cát Tiên, số 
lượng các công trình khai thác nước đơn lẻ 
tỉnh Lâm Đồng là được thống kê là 890 lỗ 
khoan với tổng lượng khai thác là 
18,400m3/ngđ. 
Tuy nhiên, việc khai thác tự phát, không theo tư 
vấn, hướng dẫn của các đơn vị, cơ quan chuyên 
môn, đặc biệt việc tự phát xây dựng các lỗ 
khoan, giếng đào khai thác nước phục vụ sản 
xuất nông nghiệp đã dẫn đến sự suy giảm mực 
nước ngầm trong mùa khô. Theo số liệu của 
Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên 
nước Quốc Gia, từ tháng 12/2014 đến tháng 
4/2015 mực nước ngầm liên tục giảm ở hầu hết 
các lỗ khoan quan trắc Hình 5 và Hình 6). 
Đối với tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng Bazan 
Pleistocen giữa βQII, xu thế hạ thấp chiếm ưu thế 
trong các tháng mùa khô, điển hình tại Ea Nam, 
Ea H’leo, Đăk Lăk và Ia Dom, Đức Cơ, Gia Lai. 
Trong 6 tháng đầu năm 2015, lỗ khoan LK29T 
(Ea Nam) ghi nhận mực nước hạ thấp 7.05m và 
5.06m đối với lỗ khoan LK166T. 
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 
Hình 5: Dự báo độ sâu mực nước tháng 2 và 3 năm 2015 tầng βQII 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 10
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 
Hình 6: Dự báo độ sâu mực nước tháng 2 và 3 năm 2015 tầng βN2-QI 
Đối với tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng 
Bazan Pliocen - Pleistocen dưới βN2-QI, xu 
thế hạ thấp cũng chiếm ưu thế, điển hình là 
các lỗ khoan quan trắc ở Đức Cơ, Gia Lai và 
ở Tp. Bảo lộc, Lâm Đồng. Tháng 1/2015, giá 
trị hạ thấp nhất là 13.9m tại xã Ia Din, huyện 
Đức Cơ, tỉnh Gia Lai (LK163T). Tháng 
2/2015, Giá trị hạ thấp nhất là 4,75m tại 
TT.Chư Ty, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai 
(K165T) và mực nước sâu nhất là 126.33m tại 
Phường 2, TP.Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng 
(C10o). 
Mực nước tháng 10/2014 Mực nước tháng 12/2014 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 11
Mực nước tháng 2/2015 Mực nước tháng 3/2015 
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 
Hình 7: Diễn biến mực nước tầng Bazan Pleistocen giữa βQII mùa khô năm 2015 Tây Nguyên 
Mực nước tháng 10/2014 Mực nước tháng 12/2014 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 12
Mực nước tháng 2/2015 Mực nước tháng 3/2015 
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015 
Hình 8: Diễn biến mực nước tầng Bazan Pliocen-Pleistocen dưới βN2-QI 
mùa khô năm 2015 Tây Nguyên 
Theo kết quả điều tra, khảo sát thực địa năm 
2016 thuộc đề tài “Nghiên cứu đề xuất các mô 
hình, giải pháp công nghệ khai thác và bảo vệ 
nguồn nước trong các thành tạo Bazan phục vụ 
cấp nước sinh hoạt bền vững tại các vùng núi 
cao, khan hiếm nước khu vực Tây Nguyên”, 
trong số 501 lỗ khoan khai thác tập trung cấp 
nước sinh hoạt đã được điều tra chi tiết, toàn 
vùng Tây Nguyên có tổng cộng 206 lỗ khoan 
có lưu lượng khai thác lớn hơn 180m3/ngđ, 13 
lỗ khoan đã ngừng khai thác do lưu lượng quá 
thấp. Các lỗ khoan lớn chủ yếu tập trung ở 2 
tỉnh Đăk Lăk và Gia Lai với số lượng lỗ 
khoan tương ứng là 84 và 72. Ít nhất là tại 
Kon Tum (7 lỗ khoan), Đăk Nông (19 lỗ 
khoan) và Lâm Đồng (26 lỗ khoan). Tổng lưu 
lượng khai thác của các lỗ khoan đã điều tra 
là 115.144m3/ngđ. Lỗ khoan có lưu lượng 
khai thác lớn nhất là 2074 m3/ngđ (LK PKL9 
– cấp nước cho bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia 
Lai) và nhỏ nhất là 20m3/ngđ (LK CJ21 là lỗ 
khoan cấp nước sinh hoạt cho thôn 2 – Nam 
Dong – Cư Jút – Đăk Nông). Lưu lượng khai 
thác của các lỗ khoan này không giảm nhiều 
so với lưu lượng thiết kế. 
Các lỗ khoan này chủ yếu tập trung ở các khu 
vực thị trấn, thị tứ, hoặc là các lỗ khoan cấp 
nước cho các trường học, bệnh viện và đơn vị 
quân đội. Còn nhân dân sống tại các buôn, đặc 
biệt là đồng bảo dân tộc thiểu số sông tại vùng 
nông thôn vẫn dùng nước chủ yếu tại các điểm 
lộ và giếng đào tự phát. Tại các vùng khan 
hiếm nước (theo QĐ264/TT-TTG), nước sinh 
hoạt cho nhân dân chủ yếu được cung cấp từ 
các mạch lộ, một số nơi có giếng đào và giếng 
khoan đơn lẻ đường kính nhỏ nhưng số lượng 
rất ít và lưu lượng thấp, các giếng khoan sâu 
khai thác nước tập trung hầu như không có 
hoặc có nhưng không đảm bảo lưu lượng cấp 
nước tập trung. Bên cạnh đó, việc xây dựng lỗ 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 13
khoan phục vụ nông nghiệp một cách tự phát 
khiến mực nước ngầm hạ thấp, nguồn nước 
sinh hoạt cho đồng bào rất hạn chế, đặc biệt là 
vào mùa khô. Theo kết quả điều tra, tại xã 
Iabang, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, trong 
2 năm gần đây, các giếng phải đào sâu thêm 
3m/năm thì người dân mới đủ nước ăn trong 
mùa khô. Tình trạng cạn kiệt cũng diễn ra 
tương tự tại tất cả 36 xã khan hiếm nước ở Tây 
Nguyên thời điểm mùa khô năm 2015 và 2016. 
Việc quản lý, vận hành các trạm cấp nước sinh 
hoạt tập trung cũng gặp nhiều khó khăn do 
thiếu nhân lực, kinh phí, hiệu quả khai thác 
thấp và tập quán sinh hoạt đặc thù của đồng 
bảo dân tộc thiểu số. Đồng bào dân tộc thiểu 
số tại nhiều buôn, làng có thói quen sử dụng 
nước từ các điểm lộ (giọt nước) và không sẵn 
lòng chi trả chi phí điện năng để vận hành các 
giếng khoan cấp nước tập trung. 
Bên cạnh việc thiếu hụt về lượng, chất lượng 
nước cũng là vấn đề cần được quan tâm. Mặc 
dù kết quả đo nhanh cho thấy chất lượng 
nước trong tầng chứa Bazan khá tốt (pH từ 
6.0 đến 7.6; TDS từ 0.03 đến 0.93g/l) nhưng 
hầu hết các giếng khoan cấp nước tập trung 
không có hệ thống xử lý nước. Trong số các 
giếng khoan đã điều tra, chỉ có 5 lỗ khoan có 
đầu tư công nghệ lọc nước, tại các đơn vị 
quân đội, công ty cao su (cấp nước cho cán 
bộ công nhân viên) và bệnh viện. Như tại 
tỉnh Kon Tum, trong tổng số 17.000 giếng 
đào, số giếng đạt vệ sinh ăn uống khoảng 
15.000 giếng, chiếm gần 90%, số còn lại 
trong tình trạng không có nền giếng, thành 
giếng, hoặc có nhưng không đảm bảo cách ly 
nước mặt ngấm xuống, một số giếng gần khu 
vực vệ sinh, khu chăn nuôi gia súc, gia cầm 
nên thường bị ô nhiễm vi sinh. 
Do đó, các biện pháp quản lý khai thác, bảo vệ 
nước dưới đất và áp dụng các công nghệ khai 
thác hợp lý, tiết kiệm để quản lý bền vững tài 
nguyên nước ngầm là vấn đề rất cấp thiết cho 
Tây Nguyên. 
KẾT LUẬN 
Như vậy, nguồn tài nguyên nước Tây Nguyên 
có tiềm năng lớn trong khai thác, với tổng 
lượng mưa hơn 93 tỷ m3, tổng lượng dòng mặt 
hơn 46 tỷ m3 và lượng nước ngầm hơn 9 tỷ m3. 
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên nước lại phân bố 
không đồng đều theo không gian với mùa khô 
kéo dài (6 tháng từ tháng XI đến tháng IV năm 
sau). Lượng mưa mùa khô trung bình chỉ 
chiếm 15% lượng mưa năm, dòng chảy mùa 
khô chỉ chiếm khoảng 30% tổng lượng dòng 
chảy mặt. 
Nguồn tài nguyên nước ngầm có trữ lượng khá 
lớn với trữ lượng tĩnh khoảng 3.2 tỷ m3 và trữ 
lượng động khoảng 6.7 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, 
hiện tượng khai thác nước ngầm tự phát không 
theo hướng dẫn, tư vấn để phục vụ tưới cho 
nông nghiệp đã làm cho mực nước ngầm hạ 
thấp. Các công trình cấp nước tập trung cho 
nhân dân ở vùng nông thôn lại thiếu, khả năng 
vận hành và duy trì vận hành còn yếu. Kết hợp 
với tình trạng hạn hán diễn ra nghiêm trọng 
trong 2 năm vừa qua, hiện tượng thiếu nước 
sinh hoạt diễn ra tại nhiều vùng ở Tây Nguyên. 
Hơn nữa, các công trình cấp nước đảm bảo về 
mặt chất lượng nước cấp cũng là một vấn đề 
cần phải quan tâm trong tương lai. 
Lí do của tình trạng thiếu nước vẫn xảy ra 
thường xuyên mặc dù nguồn nước có tiềm 
năng lớn là hiệu quả của các công trình khai 
thác còn kém, các công trình trữ nước, phân 
phối nước theo mùa còn thiếu. Ngày nay, với 
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều mô 
hình công nghệ vừa giúp nâng cao hiệu quả 
khai thác nước, vừa bảo vệ nguồn tài nguyên 
nước đã được áp dụng và mang lại kết quả rất 
tốt. Qua nghiên cứu, các mô hình thu gom 
nước mưa, thu gom nước mặt sau đó tích chứa, 
bổ cập vào các tầng chứa nước để sử dụng vào 
mùa khô đã được áp dụng thành công cả trên 
thế giới và Việt Nam. Xây dựng đập ngầm để 
thay đổi kết cấu tầng trữ nước cũng là một 
biện pháp khả thi. Các công nghệ này hoàn 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019 14
toàn có thể áp dụng để đảm bảo cấp nước sinh 
hoạt và khai thác tài nguyên một cách bền 
vững trong bối cảnh của Tây Nguyên. 
LỜI CẢM ƠN 
Nội dung của bài báo là một phần kết quả 3 
năm nghiên cứu thuộc đề tài “Nghiên cứu đề 
xuất các mô hình, giải pháp công nghệ khai 
thác và bảo vệ nguồn nước trong các thành tạo 
Bazan phục vụ cấp nước sinh hoạt bền vững 
tại các vùng núi cao, khan hiếm nước khu vực 
Tây Nguyên” mã số ĐTĐL.CN-65/15. Nhóm 
tác giả xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới 
Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện khoa học 
thủy lợi Việt Nam đã tạo điều kiện và hỗ trợ 
trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] CGWB (Central Ground Water Board), 2007. Manual on Artificial Recharge of Ground Water. 
Technical Series-M, No. 3. Ministry of Water Resources, Government of India, pp. 215. 
[2] Đoàn Văn Cánh, 2005. Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất các giải pháp bảo 
vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên nước vùng Tây Nguyên. Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên 
cứu trọng điểm cấp Nhà nước KC.08.05 giai đoạn 2000-2005. Trung tâm thông tin KHKT 
Quốc gia. Hà Nội, 2005. 260 trang. 
[3] Đoàn Văn Cánh, 2010. Nghiên cứu cơ sở khoa học và xây dựng các giải pháp lưu giữ nước 
mưa vào lòng đất phục vụ chống hạn và bảo vệ tài nguyên nước dưới đất vùng Tây 
Nguyên. Đại học Mỏ - Địa chất. Hà Nội. 
[4] Nilson, A., 1988. Groundwater dams for small-scale water supply. IT Publications, 
London. 
[5] Nguyễn Cao Đơn, 2012. Vai trò và tiềm năng ứng dụng của đập dâng nước ngầm trong 
phát triển bền vững tài nguyên nước. Tạp chí khoa học kỹ thuật thủy lợi và môi trường - số 
39 (12/2012). 
[6] Osuga, K. ,1997. The development of groundwater resources on the Miyakojima Islands. 
In: J.I Uilto, and J. Schneider (eds.), Freshwater resources in arid lands, United Nations 
University, Tokyo 
[7] Trung tâm Cảnh báo và Dự báo tài nguyên nước, 2015. Bản tin dự báo, cảnh báo tài 
nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên. Trung tâm Điều tra và Quy hoạch tài nguyên 
nước Quốc Gia, Hà Nội 

File đính kèm:

  • pdfcac_van_de_trong_viec_khai_thac_su_dung_va_quan_ly_nguon_tai.pdf