Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế

Cùng với quá trình già hóa dân số, hệ thống y tế Việt Nam chưa thực sự đáp ứng tốt với những kỳ vọng và

nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và đòi hỏi cần có những giải pháp can thiệp toàn diện nhằm

nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm tìm hiểu các vấn đề sức

khỏe thường gặp, thực trạng sử dụng dịch vụ y tế và xác định các nhu cầu chăm sóc sức khỏe của của người

cao tuổi tại thành phố Huế. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với phương pháp chọn

mẫu ngẫu nhiên phân tầng được tiến hành trên 808 người dân từ 60 tuổi trở lên ở thành phố Huế năm 2019.

Sử dụng bảng mã ICPC-2, bộ câu hỏi Global Ageing and Adult health (SAGE) và EQ-5D-3L để đánh giá các vấn

đề thường gặp, sử dụng dịch vụ y tế và chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Kết quả: 58,5% có ốm đau/

bệnh tật trong vòng 3 tháng trước thời điểm nghiên cứu. Trung bình mỗi người cao tuổi mắc 1,49 (0,72) lần

ốm đau/bệnh tật. Các triệu chứng thường gặp bao gồm tăng huyết áp, than phiền về đầu gối, đái tháo đường,

than phiền về thắt lưng và ho. Phần lớn đối tượng nghiên cứu đến khám tại bệnh viện trung ương, bệnh viện

huyện/thành phố khi có triệu chứng ốm đau. Hơn 80% người cao tuổi có nhu cầu sử dụng các dịch vụ chăm sóc

tại trạm y tế, chủ yếu về quản lý bệnh mạn tính, kiểm tra sức khỏe định kỳ, tư vấn nâng cao sức khỏe và chăm

sóc cuối đời/chăm sóc giảm nhẹ. Kết luận: Hệ thống y tế Việt Nam đang đối mặt với các thách thức nhằm tăng

cường khả năng dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế và đáp ứng nhu cầu chăm sóc bệnh mạn tính, chăm sóc tại nhà và

cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 1

Trang 1

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 2

Trang 2

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 3

Trang 3

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 4

Trang 4

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 5

Trang 5

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 6

Trang 6

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 7

Trang 7

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 7080
Bạn đang xem tài liệu "Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế

Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại thành phố Huế
50
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Địa chỉ liên hệ: Lê Hồ Thị Quỳnh Anh, email: lhtqanh@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 12/2/2020; Ngày đồng ý đăng: 20/4/2020
Các vấn đề sức khỏe thường gặp và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của 
người cao tuổi tại thành phố Huế 
Lê Hồ Thị Quỳnh Anh1, Trần Thị Hoa Mai2, Nguyễn Minh Tâm1
 (1)Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Trung tâm Y tế quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Tóm tắt
Cùng với quá trình già hóa dân số, hệ thống y tế Việt Nam chưa thực sự đáp ứng tốt với những kỳ vọng và 
nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi và đòi hỏi cần có những giải pháp can thiệp toàn diện nhằm 
nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm tìm hiểu các vấn đề sức 
khỏe thường gặp, thực trạng sử dụng dịch vụ y tế và xác định các nhu cầu chăm sóc sức khỏe của của người 
cao tuổi tại thành phố Huế. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với phương pháp chọn 
mẫu ngẫu nhiên phân tầng được tiến hành trên 808 người dân từ 60 tuổi trở lên ở thành phố Huế năm 2019. 
Sử dụng bảng mã ICPC-2, bộ câu hỏi Global Ageing and Adult health (SAGE) và EQ-5D-3L để đánh giá các vấn 
đề thường gặp, sử dụng dịch vụ y tế và chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Kết quả: 58,5% có ốm đau/ 
bệnh tật trong vòng 3 tháng trước thời điểm nghiên cứu. Trung bình mỗi người cao tuổi mắc 1,49 (0,72) lần 
ốm đau/bệnh tật. Các triệu chứng thường gặp bao gồm tăng huyết áp, than phiền về đầu gối, đái tháo đường, 
than phiền về thắt lưng và ho. Phần lớn đối tượng nghiên cứu đến khám tại bệnh viện trung ương, bệnh viện 
huyện/thành phố khi có triệu chứng ốm đau. Hơn 80% người cao tuổi có nhu cầu sử dụng các dịch vụ chăm sóc 
tại trạm y tế, chủ yếu về quản lý bệnh mạn tính, kiểm tra sức khỏe định kỳ, tư vấn nâng cao sức khỏe và chăm 
sóc cuối đời/chăm sóc giảm nhẹ. Kết luận: Hệ thống y tế Việt Nam đang đối mặt với các thách thức nhằm tăng 
cường khả năng dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế và đáp ứng nhu cầu chăm sóc bệnh mạn tính, chăm sóc tại nhà và 
cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. 
Từ khóa: người cao tuổi, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, tình hình sử dụng dịch vụ y tế, nhu cầu 
chăm sóc
Abstract
Common health problems and demand for health care services among 
the elderly in Hue city
Le Ho Thi Quynh Anh1, Tran Thi Hoa Mai2, Nguyen Minh Tam1
(1) Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Lien Chieu District Health Center, Da Nang city
As the ageing population continues to increase, Vietnam health system has not yet met the health ser-
vices needs and expectations of the older population and it requires a more comprehensive approach to im-
prove the quality of care for them. Objectives: This study aimed to explore the common health problems and 
health care utilization of elderly in Hue city and to identidy their demand for health care services. Methods: 
A a cross-sectional study with stratified proportion sampling of 808 older people aged 60 and older living in 
Hue city was conducted in 2019. Using ICPC-2 code, Global Ageing and Adult health (SAGE) and EQ-5D-3L 
instrument to assess the common health problems, health care utilization, and quality of life among partici-
pants. Results: 58.5% of elderly had illness/disease with in the last 3 months. The average number of illness/ 
disease among participants was 1.49 (0.72). Symptoms most commonly reported by older persons included 
hypertension, knee symptom/complaint, diabetes mellitus, low back symptom/complaint, and cough. Most 
of the elderly visited higher level public hospitals such as central hospitals, district hospitals when having 
illness/disease. More than 80% of the respondents reported their demands on health services at prima-
ry care level, particularly on chronic disease management, periodic health checkup, health promotion and 
counselling, and palliative care. Conclusions: Vietnam’s healthcare system is being challenged to make health 
services easily accessible and meet the growing needs for chronic illness management, home care and im-
proving the aging population’s quality of life.
Keywords: elderly, elderly care, health care utilization, health care demand
DOI: 10.34071/jmp.2020.2.8
51
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với quá trình già hóa dân số, nhu cầu được 
chăm sóc của người cao tuổi ngày càng tăng và là 
một thách thức rất lớn với hệ thống an sinh xã hội 
nói chung và hệ thống chăm sóc người cao tuổi nói 
riêng. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ 
già hóa dân số thuộc hàng cao nhất thế giới, dự báo 
sẽ trở thành nước có dân số rất già năm 2038 với tỷ 
lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt 20,1%. Theo báo cáo 
của Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2017, cả nước 
có hơn 11 triệu người cao tuổi (NCT), chiếm khoảng 
11,95% dân số [2]. Tuổi thọ trung bình của nước ta 
đã tăng từ 68,6 tuổi (năm 1999) ... 4) 0,83
Phục hồi chức năng 57 (15,4) 41 (16,9) 31 (15,9) 129 (16,0) 0,867
Nâng cao sức khỏe, tư vấn sức khỏe 119 (32,2) 69 (28,4) 51 (26,2) 239 (29,6) 0,294
Kiểm tra sức khỏe định kỳ 150 (40,5) 99 (40,7) 62 (31,8) 311 (38,5) 0,075
Các dịch vụ khác 9 (2,4) 6 (2,5) 4 (2,1) 19 (2,4) 0,95
 Nhận xét: Hơn 80% đối tượng nghiên cứu có nhu cầu CSSK tại Trạm Y tế, chủ yếu là các dịch vụ chăm sóc 
bệnh mạn tính, kiểm tra sức khỏe định kỳ, chăm sóc giảm nhẹ/ chăm sóc cuối đời. Tỷ lệ có nhu cầu CSSK tại 
nhà giữa các nhóm tuổi khá tương đương nhau và đều trên 80%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nhu 
cầu chăm sóc giảm nhẹ (p<0,05).
54
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Bảng 5. Nhu cầu chăm sóc tại nhà của người cao tuổi
 Nhóm tuổi 
n = 808 
60-69 70-79 80 trở lên Tổng p
n (%) n (%) n (%) n (%)
Có nhu cầu 278 (75,1) 178 (73,3) 148 (75,9) 604 (74,8) 0,797
Không có nhu cầu 92 (24,9) 65 (26,7) 47 (24,1) 204 (25,2)
Các dịch vụ chăm sóc tại nhà mong muốn sử dụng 
Công việc hàng ngày 38 (10,3) 29 (11,9) 39 (20,0) 106 (13,1) 0,004
Điều trị bệnh/phục hồi chức năng tại nhà 91 (24,6) 60 (24,7) 61 (31,3) 212 (26,2) 0,185
Hướng dẫn, nhắc nhở sử dụng thuốc 99 (26,8) 84 (34,6) 59 (30,3) 242 (30,0) 0,118
Đo và theo dõi huyết áp/ glucose máu 194 (52,4) 126 (51,9) 95 (48,7) 415 (51,4) 0,691
Kiểm tra sức khỏe tại nhà 181 (48,9) 120 (49,4) 94 (48,2) 395 (48,9) 0,970
Chăm sóc vết thương, vết loét 32 (8,6) 12 (4,9) 17 (8,7) 61 (7,5) 0,183
Hỗ trợ về tâm lý 18 (4,9) 6 (2,5) 6 (3,1) 30 (3,7) 0,266
Khác 7 (1,9) 4 (1,6) 3 (1,5) 14 (1,7) 1,000
Nhận xét: Tỷ lệ có có nhu cầu chăm sóc tại nhà khá cao, chiếm khoảng 3/4 đối tượng nghiên cứu. Các loại 
dịch vụ chăm sóc tại nhà mong muốn chủ yếu là đo và theo dõi huyết áp/ glucose máu, kiểm tra sức khỏe tại 
nhà, và hướng dẫn nhắc nhở sử dụng thuốc. 
Bảng 6. Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ, chăm sóc cuối đời
 Nhóm tuổi 
n = 808 
60-69 70-79 80 trở lên Tổng p
n (%) n (%) n (%) n (%)
Có nhu cầu 307 (83,0) 196 (80,7) 156 (80,0) 659 (81,6) 0,626
Không có nhu cầu 63 (17,0) 47 (19,3) 39 (20,0) 149 (18,4)
Các dịch vụ chăm sóc tại nhà mong muốn sử dụng 
Điều trị các triệu chứng 242 (65,4) 156 (64,2) 117 (60,0) 515 (63,7) 0,439
Chăm sóc về vấn đề tinh thần 100 (27,0) 64 (26,3) 63 (32,3) 227 (28,1) 0,318
Hỗ trợ giải quyết các vấn đề xã hội 39 (10,5) 31 (12,8) 41 (21,0) 111 (13,7) 0,002
Hỗ trợ về tâm linh 26 (7,0) 22 (9,1) 21 (10,8) 69 (8,5) 0,300
Khác 6 (1,6) 4 (1,6) 1 (0,5) 11 (1,4) 0,500
Nhận xét: Hơn 80% NCT có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ, chăm sóc cuối đời. Điều trị các triệu chứng 
thường gặp (đau, ho, mệt mỏi, sốt) là dịch vụ có nhu cầu cao nhất (63,7%); tiếp đến là chăm sóc tư vấn về 
tinh thần (28,1%). Có sự khác biệt về nhu cầu hỗ trợ giải quyết các vấn đề xã hội giữa các nhóm tuổi (p<0,05). 
Bảng 7. Nhu cầu về tư vấn, cung cấp thông tin sức khỏe
 Nhóm tuổi 
n = 808 
60-69 70-79 80 trở lên Tổng p
n (%) n (%) n (%) n (%)
Có nhu cầu 295 (79,7) 177 (72,8) 147 (75,4) 619 (76,6) 0,129
Không có nhu cầu 75 (20,3) 66 (27,2) 48 (24,6) 189 (23,4)
Các dịch vụ chăm sóc tại nhà mong muốn sử dụng 
Quản lý, chăm sóc các bệnh thường gặp 135 (36,5) 101 (41,6) 77 (39,5) 313 (38,7) 0,437
Dinh dưỡng và chế độ ăn 140 (37,8) 72 (29,6) 49 (25,1) 261 (32,3) 0,005
Hướng dẫn vận động thể lực 100 (27,0) 50 (20,6) 41 (21,0) 191 (23,6) 0,113
Hướng dẫn cách phòng bệnh 156 (42,2) 80 (32,9) 56 (28,7) 292 (36,1) 0,003
Hướng dẫn tự CSSK 176 (47,6) 98 (40,3) 84 (43,1) 358 (44,3) 0,195
55
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Quản lý, điều trị đau ở NCT 101 (27,3) 68 (28,0) 53 (27,2) 222 (27,5) 0,977
Thông tin về hệ thống y tế 25 (6,8) 4 (1,6) 4 (2,1) 33 (4,1) 0,002
Thông tin khác 9 (2,4) 6 (2,5) 3 (1,5) 18 (2,2) 0,755
Nhận xét: 76,6% đối tượng có nhu cầu được tư vấn, cung cấp thông tin sức khỏe. Có sự khác biệt về các nhu 
cầu tư vấn thông tin về chế độ dinh dưỡng, hướng dẫn cách phòng bệnh và thông tin về hệ thống y tế với các 
nhóm tuổi (p<0,05), nhóm 60-69 tuổi có nhu cầu cao hơn các nhóm khác.
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên 
808 người dân từ 60 tuổi trở lên đang sinh sống tại 
6 phường thuộc thành phố Huế. Qua 2 lần đo huyết 
áp cho các đối tượng nghiên cứu cho thấy 41,5% đối 
tượng tăng huyết áp. Tuy nhiên, qua khảo sát tỷ lệ 
đối tượng đã được chẩn đoán mắc tăng huyết áp là 
31,8% (Bảng 1), kết quả này cho thấy tỷ lệ NCT trong 
nhóm nghiên cứu mắc tăng huyết áp mà không biết 
mình mắc bệnh khá phổ biến. Đây là một điều đáng 
lo ngại về tình hình tầm soát, phát hiện sớm bệnh 
tăng huyết áp trong cộng đồng. Bảng 1 cho thấy tình 
hình mắc bệnh mạn tính của NCT, trong đó, 56,1% đối 
tượng nghiên cứu mắc các bệnh mạn tính thấp hơn 
các nghiên cứu của Nguyễn Đăng Vững (65,7%) [9]; 
Hoàng Trung Kiên (84,7%) [5]. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi về các bệnh mạn tính thường gặp ở NCT là 
tương tự các nghiên cứu khác với tỷ lệ mắc cao của 
bệnh tăng huyết áp và thoái hóa xương khớp [3], [6], 
[7], [10].
Trong vòng 3 tháng trước thời điểm khảo sát, có 
hơn 1/2 trong tổng số đối tượng nghiên cứu mắc 
ốm đau, chấn thương (58,5%) cao hơn nghiên cứu 
của Đàm Thị Tuyết (49,0%) nhưng thấp hơn nghiên 
cứu của Hoàng Trung Kiên (63,5%). Xét theo nhóm 
tuổi, nhóm 80 tuổi trở lên có tỷ lệ mắc bệnh cao 
nhất. Kết quả này khá hợp lý khi càng cao tuổi thì 
sức đề kháng của cơ thể càng suy giảm, dẫn đến khả 
năng mắc bệnh càng cao. Đa số NCT bị mắc 1 bệnh 
(63,2%), 2 bệnh (27,5%); từ 3 bệnh trở lên (9,3%). 
Nghiên cứu của Hoàng Trung Kiên tại 4 xã nghiên 
cứu ở Hà Nội cũng cho kết quả tương tự (mắc 2 bệnh 
trở lên là 32,3%). Số bệnh trung bình mỗi NCT mắc 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu 
của Hoàng Trung Kiên (1,49 bệnh với 2,8 bệnh). Nhìn 
chung tỷ lệ NCT phải nhập viện cấp cứu khá thấp 
(11,6%) [5], [8]. Trong vòng 12 tháng qua, 36,8% 
đối tượng có kiểm tra sức khỏe định kỳ. Đây là tỷ lệ 
khá thấp so với mong đợi về tình hình chăm sóc sức 
khỏe của NCT. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi cao 
hơn nghiên cứu của Nguyễn Minh Thành (27,7%) và 
Hoàng Trung Kiên (22,1%). Điều đó cho thấy khám 
sức khỏe định kỳ vẫn chưa được NCT quan tâm, chú 
trọng thực hiện nhiều [6], [7].
Các triệu chứng đến khám thường gặp trong các 
đợt ốm đau của đối tượng phân loại theo ICPC2 nổi 
bật là tăng huyết áp không biến chứng, triệu chứng 
về đầu gối, đái tháo đường, triệu chứng về thắt 
lưng, ho. Nghiên cứu của Lưu Phương Dung cho 
thấy các dấu hiệu bệnh có tỷ suất mật độ mới mắc 
cao nhất là đau khớp (95%), đau đầu (69%), mất ngủ 
(54%), và ho có đờm (30%). Nghiên cứu của Nguyễn 
Đăng Vững tại xã An Lão, huyện Bình Lục, tỉnh Hà 
Nam năm 2014 thì tỷ lệ đau đầu, chóng mặt chiếm 
nhiều nhất (39,0%), tiếp đến là ho, sốt (33,1%), mất 
ngủ (28,1%) [8], [9].
Bảng 1 và Bảng 3 cho thấy thực trạng sử dụng 
dịch vụ y tế của NCT trong vòng 3 tháng trước 
khi khảo sát. Trong tổng số 705 lần ốm đau/chấn 
thương, 516 lần (73,2%) đến cơ sở y tế (CSYT), 
không đi khám (26,8%). Bệnh viện Trung ương 
(24,6%), bệnh viện huyện/thành phố (17,8%), 
phòng khám đa khoa khu vực (15,7%) lần lượt là 
những CSYT mà đối tượng đã đến khám khi ốm đau 
chiếm tỷ lệ cao trong khi đó theo nghiên cứu của 
Hoàng Trung Kiên thì NCT có xu hướng lựa chọn 
bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực (54,0%) 
và Trạm Y tế xã (32,2%) là chủ yếu [5]. Có 465 lần 
ốm đau (90,1%) NCT có sử dụng thẻ bảo hiểm y 
tế (BHYT) khi đi khám, đồng thời 73,3% CSYT đến 
khám là nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu của 
BHYT. Số lần ốm đau cần nhập viện là 71 (13,8%).
Về nhu cầu chăm sóc sức khỏe, trong khi tỷ lệ sử 
dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại Trạm y tế còn thấp 
(12,0%) trong khi nhu cầu sử dụng các dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe tại Trạm của người cao tuổi lại rất cao 
(82,8%). Trong đó, các loại hình dịch vụ tại Trạm Y tế 
mà đối tượng nghiên cứu mong muốn được cung 
cấp là chăm sóc bệnh mạn tính (56,7%); kiểm tra sức 
khỏe định kỳ (46,5%); nâng cao, tư vấn thông tin sức 
khỏe (35,7%); chăm sóc tại nhà (23,5%); chăm sóc 
giảm nhẹ, chăm sóc cuối đời (21,8%). Từ những nhu 
cầu trên, Trạm Y tế cần phải đầy mạnh các hoạt động 
để đáp ứng nhu cầu CSSK của NCT ở địa phương. Bên 
cạnh đó, có 17,2% đối tượng không có nhu cầu CSSK 
tại Trạm. Nguyên nhân chủ yếu qua đợt khảo sát ghi 
nhận cho thấy họ không tin tưởng vào chuyên môn 
tại Trạm nên muốn lên các tuyến cao hơn để CSSK. 
56
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Theo Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban chấp hành 
Trung ương khoá XII về tăng cường công tác bảo vệ, 
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình 
hình mới, khuyến khích người dân đến khám chữa 
bệnh tại trạm y tế xã, phường là chủ trương lớn của 
ngành y tế nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm 
giảm áp tải ở các bệnh viện tuyến trên. Do đó, việc 
tăng cường thêm cán bộ y tế có chuyên môn về công 
tác tại Trạm là một trong những giải pháp để thu hút 
người dân đến khám tại Trạm. Nhu cầu kiểm tra sức 
khỏe định kỳ của đối tượng nghiên cứu khá cao với 
94,2%. Trong đó, gần 1/2 NCT có mong muốn kiểm 
tra 6 tháng/lần. So sánh tỷ lệ NCT trong nghiên cứu 
của chúng tôi đã đi khám sức khỏe định kỳ trong 12 
tháng qua (36,8%) và nhu cầu của họ (94,2%) ta thấy 
được sự chênh lệch rất lớn giữa nhu cầu và sử dụng 
dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ. Do đó, cần có 
nhiều kế hoạch tổ chức các đợt khám sức khỏe định 
kỳ nhằm đáp ứng nhu cầu của NCT trên địa bàn. 
Khi điều kiện kinh tế được cải thiện thì nhu cầu 
tiếp cận các hình thức chăm sóc thuận tiện hơn như 
dịch vụ CSSK tại nhà được NCT quan tâm nhiều hơn. 
Kết quả nghiên cứu có 74,8% đối tượng nghiên cứu 
có nhu cầu chăm sóc tại nhà. Các loại dịch vụ mong 
muốn được chăm sóc tại nhà chủ yếu là đo và theo 
dõi huyết áp/glucose máu (51,4%), kiểm tra sức 
khỏe tại nhà (48,9%), hướng dẫn nhắc nhở sử dụng 
thuốc (30,0%). 
Đây là những nhu cầu phổ biến và góp phần 
đảm bảo cho việc CSSK NCT được tốt hơn. Có sự 
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhu cầu trợ giúp 
công việc hàng ngày với các nhóm tuổi, nhóm từ 80 
tuổi trở lên có nhu cầu cao hơn các nhóm khác. Kết 
quả này hoàn toàn hợp lý khi nhóm tuổi càng cao thì 
khả năng tự thực hiện các công việc hàng ngày càng 
hạn chế nên nhu cầu được hỗ trợ càng cao. Nhu cầu 
chăm sóc bởi bác sĩ gia đình, điều dưỡng chiếm tỷ lệ 
cao nhất (57,4%), người thân trong gia đình (27,0%), 
cán bộ xã/ phường (10,3%).
Tỷ lệ NCT có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ, chăm 
sóc cuối đời là khá cao (81,6%). Trong đó điều trị các 
triệu chứng thường gặp (đau, ho, mệt mỏi, sốt) 
là dịch vụ có nhu cầu cao nhất (63,7%); tiếp đến là 
chăm sóc tư vấn về tinh thần (28,1%). Đây là một 
hình thức CSSK NCT mới được đề cập đến trong thời 
gian gần đây và đã được các đối tượng nghiên cứu 
quan tâm. Chăm sóc giảm nhẹ là cách tiếp cận nhằm 
cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và gia 
đình họ, những người đang phải đương đầu với các 
vấn đề đe dọa tính mạng do bệnh tật gây ra, nhờ dự 
phòng và giảm nhẹ sự đau đớn qua việc phát hiện 
sớm, đánh giá cẩn trọng tình hình, điều trị đau và 
các vấn đề thuộc về thể chất, tinh thần và tâm linh.
Nhu cầu tư vấn, cung cấp thông tin sức khỏe 
được các đối tượng nghiên cứu mong muốn nhất 
là hướng dẫn tự CSSK (44,3%); tiếp đến là quản lý, 
chăm sóc các bệnh thường gặp (38,7%); hướng dẫn 
cách phòng bệnh (36,1%). Đây là những thông tin 
cần thiết, liên quan trực tiếp đến tình hình sức khỏe 
của NCT nên tỷ lệ mong muốn được cung cấp cao 
là hoàn toàn phù hợp. Có sự khác biệt có ý nghĩa về 
các nhu cầu tư vấn thông tin về chế độ dinh dưỡng, 
hướng dẫn cách phòng bệnh và thông tin về hệ 
thống y tế giữa các nhóm tuổi, nhóm 60-69 tuổi có 
nhu cầu cao hơn các nhóm khác. Sự khác biệt này có 
thể giải thích do nhóm 60-69 chủ yếu là NCT đang 
còn lao động hoặc mới nghỉ hưu, trình độ học vấn 
của họ có thể cao hơn nhóm lớn tuổi hơn, nên nhu 
cầu tìm hiểu thông tin về CSSK cao hơn.
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ già hóa dân số Việt Nam và gánh nặng bệnh 
tật liên quan đến các bệnh mạn tính trong nhóm 
đối tượng người cao tuổi ngày càng gia tăng. Cần 
tiếp tục củng cố hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở, 
nâng cao năng lực khám chữa bệnh, sàng lọc phát 
hiện và quản lý các bệnh mạn tính ở người cao tuổi 
tại Trạm Y tế xã/phường cũng như tăng cường khả 
năng dễ dàng tiếp cận và đáp ứng các nhu cầu ngày 
càng tăng của người cao tuổi về quản lý bệnh mạn 
tính, kiểm tra sức khỏe định kỳ, chăm sóc tại nhà, 
chăm sóc giảm nhẹ/chăm sóc cuối đời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2016), Quyết định số 7618/QĐ-BYT ngày 
30/12/2016, Quyết định về việc phê duyệt Đề án chăm sóc 
sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017 - 2025.
2. Bộ Y tế (2017), Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế 
năm 2016: Hướng tới mục tiêu già hóa khỏe mạnh ở Việt 
Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2017.
3. Bang K.-S., Tak S. H. et al (2019), Health Status and 
the Demand for Healthcare among the Elderly in the Rural 
Quoc-Oai District of Hanoi in Vietnam. Biomed Res Int.; 
2019: 9590417.
4. Lưu Phương Dung, Nguyễn Thị Thi Thơ, Mai LTP (2017), 
“Một số vấn đề sức khỏe thường gặp ở người cao tuổi tại 
xã Kỳ Hải (Hà Tĩnh), Tam Phú (Quảng Nam) và Hàm Rồng (Cà 
Mau), giai đoạn 2014-2015”, Tạp chí Y học dự phòng, 27 (6)
5. Hoàng Trung Kiên (2013), Nghiên cứu nhu cầu, đáp 
ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và thử nghiệm 
mô hình can thiệp cộng đồng tại huyện Đông Anh, Hà Nội, 
Luận án Tiến sĩ Y học.
6. Tô Kỳ Nam (2014), Nghiên cứu chất lượng sống của 
người cao tuổi tại thành phố Quảng Ngãi năm 2013, Luận 
57
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
án chuyên khoa II, chuyên ngành quản lý y tế, Trường Đại 
học Y Dược Huế.
7. Nguyễn Minh Thành (2011), Nghiên cứu tình hình 
bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và một số yếu tố liên 
quan của người cao tuổi tại huyện Củ Chi, Thành phố Hồ 
Chí Minh, Luận án chuyên khoa cấp II, chuyên ngành Quản 
lý y tế, Đại học Y Dược Huế.
8. Đàm Thị Tuyết, Mai Anh Tuấn (2013), "Thực trạng 
tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi 
tại xã Lâu Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên năm 
2012", Tạp chí Y học thực hành số 4/2013, pp. 53.
9. Nguyễn Đăng Vững, Nguyễn Thị Hồng (2015), “Một 
số vấn đề sức khỏe của người cao tuổi và các yếu tố liên 
quan tại xã An Lão, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam năm 
2014”, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 6 (166).
10. Wroblewska I, Zborowska I, Dabek A, Suslo R, et 
al (2018), “Health status, health behaviors, and the abili-
ty to perform everyday activities in Poles aged ≥ 65 years 
staying in their home environment”, Clin Interv Aging, 13 
pp. 355-363. 
11. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2013), 
Kế hoạch số 69/KH-UBND ngày 30/5/2013, Kế hoạch Triển 
khai Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi 
giai đoạn 2013 - 2020 trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

File đính kèm:

  • pdfcac_van_de_suc_khoe_thuong_gap_va_nhu_cau_cham_soc_suc_khoe.pdf