Các nhân tố ảnh hưởng đến sức khỏe của người cao tuổi Việt Nam
Số liệu thống kê dân số cho thấy, Việt Nam đang ở cuối của thời kỳ “quá độ dân số”
với ba đặc trưng rõ rệt, đó là: tỷ suất sinh giảm, tỷ suất chết giảm và tuổi thọ tăng. Kết quả
là, dân số trẻ em có xu hướng giảm nhanh, dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh và
dân số cao tuổi cũng bắt đầu tăng nhanh. Điều tra Dân số giữa kỳ năm 2013 của Tổng cục
Thống kê (TCTK, 2013) cho thấy, tỷ lệ người cao tuổi (NCT - là những người từ 60 tuổi
trở lên) đã ở mức 10,5% tổng dân số. Theo định nghĩa của UNFPA (2011) thì Việt Nam
chính thức bước vào thời kỳ dân số “bắt đầu già”(aging). Chỉ số già hóa (được tính bằng tỷ
số giữa dân số cao tuổi với dân số trẻ em) tăng nhanh từ 35,5 năm 2009 lên 43,5 năm
2013. Nếu sử dụng định nghĩa người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên thì dự báo
dân số của TCTK (2011) cho thấy, Việt Nam mất chưa tới 20 năm để chuyển từ giai đoạn
“bắt đầu già” (aging, dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 7% tổng dân số) sang giai đoạn dân số
“già” (aged, dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 14% tổng dân số) - ít hơn số năm cần thiết mà
hai nước khu vực luôn được coi là có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất là Nhật Bản và
Thái Lan đã trải qua (tương ứng 26 năm và 22 năm).
Việc tiếp cận dịch vụ y tế (DVYT) của NCT còn nhiều khó khăn, rào cản. Tỷ lệ
NCT không tiếp cận được các DVYT nói chung là 15,8%. Nguyễn Việt Cường (2010), đã
chỉ ra nguyên nhân không tiếp cận được DVYT của NCT như không đủ điều kiện kinh tế,
không có người đưa đi khám, do hệ thống y tế còn yếu và thiếu thuốc men, trang thiết bị và
một phần do khoảng cách đi lại. Chi phí điều trị được coi là một trong những rào cản lớn
nhất cản trở việc tiếp cận DVYT của NCT. Nghiên cứu của Phạm Đỗ Thắng và cộng sự
(2009) cho thấy trung bình chi phí điều trị cho một NCT gấp 7- 8 lần so với trẻ em.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến sức khỏe của người cao tuổi Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 28. 2016 37 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI CAO TUỔI VIỆT NAM Nguyễn Thị Hồng Điệp1, Lương Thị Phương Thanh2 TÓM TẮT Già hóa dân số tạo sức ép nặng nề cho ngân sách Nhà nước về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT), với trung bình chi phí điều trị cho một NCT gấp 7-8 lần so với trẻ em. Bài viết này phân tích các yếu tố liên quan tới sức khỏe như tuổi, giới tính, hoàn cảnh gia đình, vị thế xã hội, bảo hiểm y tế, sự hỗ trợ của các thành viên khác trong gia đình... là hết sức cần thiết để cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách xây dựng chính sách chăm sóc người cao tuổi tốt hơn, có sự chuẩn bị về hệ thống y tế, phúc lợi xã hội để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho NCT. Từ khóa: Người cao tuổi, sức khỏe, Việt Nam 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Số liệu thống kê dân số cho thấy, Việt Nam đang ở cuối của thời kỳ “quá độ dân số” với ba đặc trưng rõ rệt, đó là: tỷ suất sinh giảm, tỷ suất chết giảm và tuổi thọ tăng. Kết quả là, dân số trẻ em có xu hướng giảm nhanh, dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh và dân số cao tuổi cũng bắt đầu tăng nhanh. Điều tra Dân số giữa kỳ năm 2013 của Tổng cục Thống kê (TCTK, 2013) cho thấy, tỷ lệ người cao tuổi (NCT - là những người từ 60 tuổi trở lên) đã ở mức 10,5% tổng dân số. Theo định nghĩa của UNFPA (2011) thì Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ dân số “bắt đầu già”(aging). Chỉ số già hóa (được tính bằng tỷ số giữa dân số cao tuổi với dân số trẻ em) tăng nhanh từ 35,5 năm 2009 lên 43,5 năm 2013. Nếu sử dụng định nghĩa người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên thì dự báo dân số của TCTK (2011) cho thấy, Việt Nam mất chưa tới 20 năm để chuyển từ giai đoạn “bắt đầu già” (aging, dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 7% tổng dân số) sang giai đoạn dân số “già” (aged, dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 14% tổng dân số) - ít hơn số năm cần thiết mà hai nước khu vực luôn được coi là có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất là Nhật Bản và Thái Lan đã trải qua (tương ứng 26 năm và 22 năm). Việc tiếp cận dịch vụ y tế (DVYT) của NCT còn nhiều khó khăn, rào cản. Tỷ lệ NCT không tiếp cận được các DVYT nói chung là 15,8%. Nguyễn Việt Cường (2010), đã chỉ ra nguyên nhân không tiếp cận được DVYT của NCT như không đủ điều kiện kinh tế, không có người đưa đi khám, do hệ thống y tế còn yếu và thiếu thuốc men, trang thiết bị và một phần do khoảng cách đi lại. Chi phí điều trị được coi là một trong những rào cản lớn nhất cản trở việc tiếp cận DVYT của NCT. Nghiên cứu của Phạm Đỗ Thắng và cộng sự (2009) cho thấy trung bình chi phí điều trị cho một NCT gấp 7- 8 lần so với trẻ em. 1 ThS. Giảng viên khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Hồng Đức 2 CN. Giảng viên khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Hồng Đức TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 28. 2016 38 Phân tích các yếu tố liên quan tới sức khỏe, giới tính, hoàn cảnh gia đình, vị thế xã hội, bảo hiểm y tế, sự hỗ trợ của các thành viên khác trong gia đình... là hết sức cần thiết để cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách xây dựng chính sách chăm sóc người cao tuổi tốt hơn, có sự chuẩn bị về hệ thống y tế, phúc lợi xã hội để đáp ứng nhu cầu CSSK cho NCT. 2. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Số liệu Các số liệu sử dụng trong phân tích sẽ gồm có các số liệu thống kê có tính đại diện quốc gia từ Điều tra Người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011. Số liệu điều tra Quốc gia về người cao tuổi (VNAS) năm 2012. Điều tra Quốc gia về người cao tuổi năm 2012 đã khảo sát 4007 người từ 50 tuổi trở lên tại 12 tỉnh, thành đại diện cho 6 khu vực sinh thái. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn nghiên cứu viên chỉ thực hiện các phân tích trên 2.789 người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) tại 12 tỉnh thành, đại diện cho 6 khu vực sinh thái Việt Nam là: Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội, Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Thanh Hóa, Đắk Lắk, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Sóc Trăng và Tiền Giang. Thời gian thực hiện điều tra từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 12 năm 2012. Trong số những người lớn tuổi, có 1.683 là nữ và 1.106 là nam giới; 2.050 người sống ở các khu vực nông thôn và 739 người sống tại các khu vực đô thị. VNAS cung cấp thông tin chi tiết về cá nhân (ví dụ độ tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, v.v...), cuộc sống gia đình (sống sắp xếp, các mối quan hệ gia đình, chăm sóc và được chăm sóc, v.v...), cộng đồng và các mối quan hệ xã hội (sự tham gia vào các hoạt động cộng đồng, tiếp cận với các nguồn thông tin chính sách...). Những mẫu thông tin đã được chuẩn hóa trong gia đình và sức khỏe các khảo sát lớn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Liên quan đến tình trạng làm việc, VNAS có câu hỏi cụ thể về quá khứ những người lớn tuổi và các tác phẩm hiện nay. 2.2. Phương pháp Sử dụng mô hình hồi quy propit để đánh giá xác suất các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi. Các yếu tố liên quan đến tình trạng sức khỏe NCT, ở đó bao gồm các yếu tố về nhân khẩu học (giới tính, tuổi, học vấn, hôn nhân, nghề nghiệp), các yếu tố về đặc điểm hộ gia đình và hoàn cảnh sống (hoàn cảnh sống, chăm sóc cháu chắt, hỗ trợ kinh tế cho các thành viên khác, bị đối xử không tốt trong gia đình như bị nói nặng lời, bị từ chối nói chuyện, bị đe dọa hoặc đánh đập, được tham gia vào các quyết định trong gia đình, tình trạng kinh tế hộ gia đình), các yếu tố về an sinh xã hội, hiểu biết về quyền lợi của NCT (lương hưu, tham gia các hoạt động câu lạc bộ xã/thôn, có thẻ bảo hiểm y tế, sử dụng thuốc lá, rượu/bia), hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe, mức độ hài lòng về các mối quan hệ trong gia đình, cộng đồng và xã hội và một số vấn đề về sức khỏe tâm thần. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 28. 2016 39 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Với số liệu VNAS (2011), sử dụng phần mềm STATA12 xử lý số liệu có kết quả bảng sau: 3.1. Các yếu tố nhân khẩu học ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Bảng 3.1 đánh giá tỷ lệ các nhân tố nhân khẩu học bao gồm giới tính, nhóm tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của NCT. Bảng 3.1. Yếu tố nhân khẩu học ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Biến số Tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu Ít nhất 1 chức năng bị hạn chế Mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính Tổng Giới tính Nam Nữ 59,2* 67,9 83,9*** 90,6 64,6*** 73,0 n = 2.789 Nhóm tuổi 60-69 70-79 80 56,7** 67,2 74,8 81,1*** 90,0 97,7 63,8** 76,5 75,7 n = 2.789 Trình độ học vấn Không đi học Tiểu học và dưới tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp/cao đẳng/đại học trở lên 79,8*** 68,1 49,8 46,8 47,6 89,2*** 92,7 80,4 74,9 81,0 66,0 71,9 73,6 60,5 76,0 n = 2.772 Tình trạng hôn nhân Đang sống cùng vợ/chồng Khác 59,9*** 73,5 85,7** 92,1 70,2 71,3 n = 2.789 Nghề nghiệp chính hiện tại Có việc làm Không làm gì 57,8** 68,5 80,5*** 92,5 60,1*** 77,4 n = 2.769 (Ghi chú: *p<0,05, **p<0,01, ***p<0,001) Có sự khác biệt rất rõ về tình trạng sức khỏe của NCT theo giới tính. Tỷ lệ phụ nữ cao tuổi tự đánh giá tình trạng sức khỏe của mình yếu cao hơn so với nam giới cao tuổi 67,9% so với 59,2%, p<0,05. Bên cạnh đó, phụ nữ cao tuổi cũng cho biết họ bị hạn chế chức năng và mắc bệnh mạn tính cao hơn so với nam giới cao tuổi (tỷ lệ tương ứng là 90,6% so với 83,9% bị hạn chế chức năng và 73,0% so với 64,6% bị mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính, p<0,001). TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 28. 2016 40 Khi phân tích tình trạng sức khỏe của NCT theo 3 nhóm tuổi (1) 60 - 69 tuổi, (2) 70 - 79 tuổi, (3) ≥80 tuổi, ta thấy, NCT càng cao tuổi thì tự đánh giá tình trạng sức khỏe của mình yếu, bị hạn chế chức năng và mắc bệnh mạn tính càng nhiều . Trình độ học vấn cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến việc tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu và bị hạn chế chức năng, ở đó những người có học vấn càng thấp thì tỷ lệ tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu càng cao (79,8% ở những NCT không đi học so với chỉ 46,8% NCT học THPT, p<0,001). Đối với tình trạng hạn chế chức năng, những NCT có học vấn tiểu học, dưới tiểu học và không đi học có tỷ lệ bị hạn chế chức năng cao nhất và tỷ lệ thấp nhất là những NCT có học vấn THPT. So với những NCT đang sống cùng vợ/chồng thì tỷ lệ NCT không sống cùng vợ chồng tự đánh giá tình trạng sức khỏe của mình yếu và bị hạn chế chức năng cao hơn (tỷ lệ tương ứng là 57,8% so với 68,5%, p<0,001 và 92,1% so với 85,7%, p<0,01). Nghề nghiệp cũng là một yếu tố liên quan đến tình trạng sức khỏe của NCT, ở đó những người không có việc làm tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu, bị hạn chế chức năng và mắc bệnh mạn tính cao hơn so với tỷ lệ này ở những NCT có việc làm (p<0,001). 3.2. Các yếu tố về gia đình và hoàn cảnh sống ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Các yếu tố về gia đình và hoàn cảnh sống ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của NCT như: sống cùng người khác hay sống một mình, có phải chăm sóc cháu chắt không, có phải hỗ trợ kinh tế cho các thành viên khác không, có được tôn trọng và thể hiện vị thế của mình trong gia đình không, kinh tế hộ gia đình. Kết quả bảng 3.2. Bảng 3.2. Yếu tố về gia đình và hoàn cảnh sống ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Biến số Tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu Ít nhất 1 chức năng bị hạn chế Mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính Tổng - Sống cùng với: Một mình Người khác 80,7*** 63,2 89,7 87,6 75,8 70,2 n = 2.789 - Người cao tuổi phải chăm sóc cháu chắt: Có Không 57,4** 68,7 84,6* 89,7 75,6* 69,2 n = 2.655 - Hỗ trợ kinh tế cho thành viên khác: Có Không 66,4** 55,1 81,1** 89,4 71,6 70,3 n = 2.789 - Bị nói nặng lời: Không Có 78,1** 60,9 86,3 91,3 70,9 71,6 n = 2.789 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 28. 2016 41 - Bị từ chối nói chuyện: Không Có 62,0* 83,1 86,8 88,2 70,4 86,6 n = 2.789 - Bị đe dọa hoặc đánh đập: Không Có 62,2*** 99,9 86,7** 98,9 70,8 83,3 n = 2.789 - Được hỏi ý kiến trong các quyết định của gia đình: Không được hỏi Được hỏi và nghe theo Được hỏi nhưng không nghe theo 76,0*** 74,2 59,0 93,5* 87,9 85,2 71,3 72,6 70,7 n = 2.789 - Kinh tế hộ gia đình: Giàu Nghèo Trung bình 55,4*** 76,0 64,8 85,5 89,7 88,7 76,2* 65,4 68,0 n = 2.789 (Ghi chú: *p<0,05, **p<0,01, ***p<0,001) Sống một mình cũng ảnh hưởng đến việc tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu, tỷ lệ những người sống một mình tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu cao hơn so với những NCT sống chung với người khác (80,7% so với 63,2%, p<0,001). Bên cạnh đó, các yếu tố khác về gia đình cũng có liên quan đến tình trạng sức khỏe của NCT, với tỷ lệ tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu, bị hạn chế chức năng cao hơn ở những người không phải chăm sóc cháu chắt. Nhưng những người phải chăm sóc cháu chắt lại mắc bệnh mạn tính cao hơn (p<0,05). Những NCT phải hỗ trợ kinh tế cho các thành viên khác trong gia đình tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu cao hơn so với những người không phải hỗ trợ kinh tế (66,4% so với 55,1%, p<0,01), tuy nhiên tỷ lệ bị hạn chế chức năng lại thấp hơn (81,1% so với 89,4%, p<0,01). Cách đối xử của các thành viên trong gia đình với NCT cũng có liên quan đến tình trạng sức khỏe của NCT. NCT từng bị từ chối nói chuyện hay từng bị đánh đập, đe dọa trong 12 tháng qua thì tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu cao hơn so với những người không bị những hành động đó, việc NCT từng bị đánh đập, đe dọa cũng có liên quan đến bị hạn chế chức năng, với 98,9% những người đã từng bị đánh đập, đe dọa bị hạn chế chức năng so với tỷ lệ này ở NCT không bị là 86,7% (p<0,01). Những NCT không được tham gia vào các quyết định của gia đình tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu, bị hạn chế chức năng và bị mắc bệnh mạn tính cao hơn so với những NCT được tham gia vào các quyết định trong gia đình. Kinh tế hộ gia đình có ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của NCT. NCT có kinh tế hộ gia đình thuộc loại nghèo tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu cao nhất (p<0,001), nhưng tỷ lệ bị mắc bệnh mạn tính thấp nhất (p<0,05). TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 28. 2016 42 3.3. Các yếu tố an sinh xã hội và tham gia hoạt động cộng đồng ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Bảng 3.3. Yếu tố an sinh xã hội ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Biến số Tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu Ít nhất 1 chức năng bị hạn chế Mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính Tổng - Lương hưu Không Có 48,1** 66,5 87,7 87,9 68,8** 82,3 n =2.781 - Bảo hiểm y tế Không Có 55,4** 67,3 84,7 88,8 56,2*** 75,7 n =2.781 - Tham gia hoạt động CLB xã/thôn Có Không 58,6* 67,3 87,8 87,6 74,5 68,3 n =2.789 (Ghi chú: *p<0,05, **p<0,01, ***p<0,001) NCT có lương hưu, có BHYT và không tham gia các hoạt động của xã/thôn tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu cao hơn (66,5%; 67,3%; 67,3%) so với NCT không có lương hưu (48,1%; 55,4%; 58,6%), không có BHYT và tham gia các hoạt động của thôn/xã (p<0,05). Bên cạnh đó, tỷ lệ NCT có lương hưu và có BHYT mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính cũng cao hơn so với tỷ lệ này ở NCT không có lương hưu và không có BHYT (p<0,01). 3.4. Các yếu tố thuộc về hiểu biết của NCT về các quyền lợi ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi. Sự hiểu biết về quyền ưu tiên sử dụng dịch vụ y tế, biết về phòng khám cho NCT có ảnh hưởng đến sức khỏe, thể hiện qua tỷ lệ tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu, chức năng bị hạn chế và mắc bệnh mạn tính. Bảng 3.4. Yếu tố hiểu biết các quyền lợi ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Biến số Tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu Ít nhất 1 chức năng bị hạn chế Mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính Tổng - Biết về quyền ưu tiên sử dụng dịch vụ y tế - Không biết 58,6 65,4 84,3* 88,6 73,6 69,0 n =2.788 - Biết về phòng khám cho NCT - Không biết 63,4 62,3 84,6 87,6 76,6** 69,0 n =2.781 (Ghi chú: *p<0,05, **p<0,01, ***p<0,001) TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 28. 2016 43 So với NCT không biết về quyền lợi được ưu tiên sử dụng dịch vụ y tế thì NCT biết về quyền này bị hạn chế chức năng thấp hơn. Bên cạnh đó, NCT biết về phòng khám dành cho NCT bị mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính cao hơn so với NCT không biết. 3.5. Các yếu tố thuộc về hành vi ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi. Hút thuốc lá/thuốc lào, sử dụng đồ uống có cồn như rượu, bia là những yếu tố được xem là có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe. Bảng 3.5 thể hiện sự ảnh hưởng của các yếu tố đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi. Bảng 3.5. Yếu tố hành vi ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Biến số Tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu Ít nhất 1 chức năng bị hạn chế Mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính Tổng Hút thuốc lá/thuốc lào Có Không 57,2* 66,0 77,8*** 90,4 54,6*** 74,7 n =2.789 Sử dụng đồ uống có cồn (rượu/bia..) Có Không 47,2*** 70,8 80,9*** 90,4 59,4*** 74,8 n =2.789 (Ghi chú: *p<0,05, **p<0,01, ***p<0,001) So với NCT không hút thuốc lá/thuốc lào hay sử dụng đồ uống có cồn thì NCT có sử dụng tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu, bị hạn chế ít nhất 1 chức năng và mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính đều thấp hơn (p<0,001). 3.6. Các yếu tố hài lòng về mối quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi. Bảng 3.6 phân tích các nhân tố thể hiện sự hài lòng hay không về mối quan hệ trong gia đình, cộng đồng và xã hội đến tình trạng sức khỏe của NCT. Bảng 3.6. Yếu tố hành vi ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của người cao tuổi Biến số Tự đánh giá tình trạng sức khỏe yếu Ít nhất 1 chức năng bị hạn chế Mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính Tổng - Hài lòng với mối quan hệ với gia đình Không Có 71,8** 60,2 90,3 85, 70,8 71,0 n=2.566
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_den_suc_khoe_cua_nguoi_cao_tuoi_viet_n.pdf