Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán

Thẻ thanh toán là kết quả của sự phát triển khoa học và công nghệ trong hoạt động dịch

vụ tài chính ngân hàng, mang lại cho người dùng nhiều sự tiện lợi và lợi ích trong thời đại

công nghệ 4.0. Tuy nhiên, việc sử dụng thẻ thanh toán vẫn chưa được phổ biến trong mọi

tầng lớp dân cư. Bài viết này giới thiệu các mô hình lý thuyết về chấp nhận và sử dụng công

nghệ, một số nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhân sử dụng

thẻ thanh toán. Từ đó, bài viết đề xuất các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ

thanh toán của người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 1

Trang 1

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 2

Trang 2

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 3

Trang 3

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 4

Trang 4

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 5

Trang 5

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 6

Trang 6

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 7

Trang 7

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 8

Trang 8

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 9

Trang 9

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán trang 10

Trang 10

pdf 10 trang baonam 18960
Bạn đang xem tài liệu "Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán

Các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán
12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 
58 
CÁC MÔ HÌNH LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CHẤP NHẬN SỬ DỤNG 
THẺ THANH TOÁN 
ThS. Trần Ngọc Minh Trang(*) 
Tóm tắt 
Thẻ thanh toán là kết quả của sự phát triển khoa học và công nghệ trong hoạt động dịch 
vụ tài chính ngân hàng, mang lại cho người dùng nhiều sự tiện lợi và lợi ích trong thời đại 
công nghệ 4.0. Tuy nhiên, việc sử dụng thẻ thanh toán vẫn chưa được phổ biến trong mọi 
tầng lớp dân cư. Bài viết này giới thiệu các mô hình lý thuyết về chấp nhận và sử dụng công 
nghệ, một số nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhân sử dụng 
thẻ thanh toán. Từ đó, bài viết đề xuất các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ 
thanh toán của người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
1. Các mô hình lý thuyết về chấp nhận và sử dụng dụng công nghệ 
1.1.Thuyết hành động hợp lý (TRA-Theory of Reasoned Action) 
Hình 1. Thuyết hành động hợp lý (TRA) của Ajzen và Fishbein (1975) 
Thuyết hành động hợp lý (TRA) được 
Ajzen và Fishbein xây dựng từ cuối thập 
niên 60 của thế kỷ 20 và được hiệu chỉnh 
mở rộng trong thập niên 70. TRA gần như là 
xuất phát điểm của các lý thuyết về thái độ, 
góp phần trong việc nghiên cứu thái độ và 
hành vi, nói lên rằng hành vi sử dụng của 
người tiêu dùng là dựa trên sự kiểm soát của 
ý chí. Mô hình TRA (Ajzen và Fishbein, 
1975) thừa nhận rằng, ý định hành vi là yếu 
tố quyết định đến hành vi thực sự của con 
(*) Giảng viên khoa Kinh tế, Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng 
người. Trong đó, ý định hành vi bị ảnh 
hưởng bởi hai yếu tố: Thái độ đối với hành 
vi và Chuẩn chủ quan. Trong đó: 
- Thái độ đối với hành vi được xác 
định bởi cảm nhận của cá nhân về những kết 
quả khi thực hiện hành vi và sự đánh giá về 
những kết quả đó. Theo đó, khi khách hàng 
có niềm tin mạnh mẽ rằng thực hiện hành vi 
sẽ mang lại những kết quả có giá trị tích cực 
thì họ sẽ có thái độ tích cực đối với hành vi. 
Ngược lại, khách hàng sẽ có thái độ tiêu cực 
Hành vi 
thực sự 
Ý định 
hành vi 
Thái độ đối 
với hành vi 
Chuẩn chủ 
quan 
Cảm nhận về kết quả hành vi 
Đánh giá kết quả hành vi 
Niềm tin theo chuẩn mực 
Động cơ thúc đẩy 
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 
 59 
khi họ cho rằng hành vi mang lại những tác 
động tiêu cực. 
- Chuẩn chủ quan liên quan đến việc 
ảnh hưởng của môi trường xã hội đến hành 
vi. Mức độ tác động của yếu tố chuẩn chủ 
quan đến hành vi của cá nhân phụ thuộc 
vào: (1) niềm tin theo chuẩn mực – mức độ 
ủng hộ hay phản đối của những người quan 
trọng (ví dụ như gia đình, bạn bè, đồng 
nghiệp, ) đối với việc thực hiện hành vi 
của cá nhân; (2) động cơ thúc đẩy – động 
lực của cá nhân làm theo mong muốn của 
những người có ảnh hưởng đó. TRA thừa 
nhận rằng yếu tố quyết định trực tiếp quan 
trọng nhất của hành vi thực sự là dự định 
hành vi. 
1.2.Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB 
- Theory of Planned Behaviour) 
Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) 
được phát triển bởi Icek Ajzen vào năm 
1988 bằng cách bổ sung thêm yếu tố “Cảm 
nhận kiểm soát hành vi” vào mô hình TRA. 
TPB là một lý thuyết dự đoán hành vi có 
chủ ý, vì hành vi có thể được thảo luận và 
lên kế hoạch. 
Hình 2. Thuyết hành vi có kế hoạch(TPB) của Ajzen (1988) 
Theo lý thuyết TPB, dự định hành vi 
ngoài chịu tác động vởi hai nhân tố là thái 
độ đối với hành vi và chuẩn chủ quan, còn 
chịu tác động bởi nhân tố “Cảm nhận kiểm 
soát hành vi” - là nhận thức của con người 
về khả năng của họ để thực hiện một hành vi 
nhất định, đề cập đến nguồn tài nguyên sẵn 
có, những kỹ năng, cơ hội cũng như nhận 
thức của riêng từng người hướng tới việc đạt 
được kết quả. 
Cả hai biến “dự định hành vi” và “cảm 
nhận kiểm soát hành vi” đều đóng vai trò 
quan trọng trong việc dự đoán hành vi thực 
sự. “Dự định hành vi” là một dấu hiệu sự 
sẵn sàng thực hiện một hành vi nhất định 
của cá nhân, nó được xem là tiền đề trực 
tiếp của hành vi. “Hành vi” là biểu hiện, 
phản ứng có thể quan sát trong một tình 
huống nhất định đối với một mục tiêu được 
đưa ra. Các biến quan sát hành vi có thể 
được tổng hợp qua các bối cảnh và thời gian 
để đưa ra một sự đo lường đại diện cho hành 
vi. 
Mô hình TPB được xem như tối ưu 
hơn mô hình TRA trong việc dự đoán và 
giải thích hành vi của người tiêu dùng trong 
cùng một nội dung và hoàn cảnh nghiên 
cứu. 
Thái độ đối với 
hành vi 
Chuẩn chủ quan 
Cảm nhận kiểm 
soát hành vi 
Dự định hành vi Hành vi thực sự 
12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 
60 
1.3.Mô hình chấp nhận công nghệ 
(TAM - Technology Acceptance Model) 
Được giới thiệu bởi Davis (1986), 
TAM là một mô hình áp dụng theo mô hình 
TRA để nghiên cứu việc chấp nhận của 
người sử dụng về hệ thống thông tin. TAM 
là cung cấp sự giải thích cơ bản tác động 
của các nhân tố bên ngoài (Exteral Variable) 
đến niềm tin bên  ... ử dụng máy tính cá nhân 
(MCPU – Thompson, Higgins & Howell, 
1991), thuyết truyền bá sự đổi mới ( IDT – 
Moore & Benbasat, 1991), thuyết nhận thức 
xã hội (SCT – Compeau & Higgins, 1995). 
Cảm nhận sự 
hữu dụng 
Cảm nhận tính 
dễ sử dụng 
Nhân tố 
bên ngoài 
Thái độ Dự định 
hành vi 
Hành vi 
thực sự 
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 
 61 
Hình 4. Mô hình UTAUT của Vemkatesh và cộng sự (2003) 
Theo lý thuyết này, có 3 yếu tố tác 
động trực tiếp đến dự định hành vi sử dụng 
công nghệ: Hiệu quả mong đợi, nỗ lực 
mong đợi và ảnh hưởng xã hội. Và 2 yếu tố 
ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi sử dụng 
công nghệ đó là dự định hành vi và Điều 
kiện thuận lợi. Ngoài ra còn các yếu tố 
ngoại vi (giới tính, độ tuổi, sự tự nguyện, và 
kinh nghiệm) điều chỉnh đến ý định sử dụng 
hệ thống. 
Hiệu quả mong đợi: là mức độ một cá 
nhân tin rằng việc sử dụng hệ thống sẽ giúp 
họ đạt được hiệu suất công việc. Năm yếu tố 
từ các mô hình khác nhau mà liên hệ với 
hiệu quả mong đợi là cảm nhận sự hữu dụng 
(TAM/TAM2 và C-TAM-TPB), thúc đẩy 
bên ngoài (MM), sự phù hợp công việc 
(MPCU), lợi thế tương đối (IDT) và kết quả 
kỳ vọng (SCT). 
Nỗ lực mong đợi: là mức độ một cá 
nhân cảm thấy dễ dàng sử dụng hệ thống. 
Ba yếu tố từ các mô hình trước đây đưa ra 
khái niệm về nỗ lực mong đợi: cảm nhận dễ 
sử dụng (TAM/TAM2), sự phức tạp 
(MPCU), sự dễ sử dụng (IDT). 
Ảnh hưởng xã hội: là mức độ mà một 
cá nhân nhận thấy rằng những người quan 
trọng đối với họ như gia đình hay bạn bè tin 
rằng họ nên sử dụng hệ thống đó. Ảnh 
hưởng xã hội được xem như một yếu tố 
quyết định trực tiếp đến dự định hành vi 
được giới thiệu là chỉ tiêu chuẩn chủ quan 
trong TRA, TAM2, TPB/DTPB và C-TAM-
TPB, yếu tố xã hội trong MPCU, và hình 
ảnh trong IDT. Mặc dù chúng có tên gọi 
khác nhau, nhưng mỗi yếu tố này đều có ý 
nghĩa là hành vi cá nhân bị ảnh hưởng bởi 
cách thức mà họ tin tưởng những người 
khác sẽ xem chúng như là kết quả của việc 
sử dụng công nghệ. 
Điều kiện thuận lợi: là mức độ một cá 
nhân tin rằng tổ chức và kỹ thuật sẽ hỗ trợ 
cho việc sử dụng công nghệ. Định nghĩa này 
được biểu hiện bởi ba yếu tố khác nhau: 
cảm nhận kiểm soát hành vi (TPB/DTPB, 
C-TAM-TPB), điều kiện cơ sở hạ tầng 
(MPCU) và khả năng tương thích (IDT). 
Các yếu tố ngoại vi: bao gồm giới tính, 
độ tuổi, kinh nghiệm và sự tự nguyện sử 
dụng được xem xét là các yếu tố không trực 
Hiệu quả 
mong đợi 
Nỗ lực 
mong đợi 
Ảnh hưởng 
xã hội 
Điều kiện 
thuận lợi 
Dự định 
hành vi 
Hành vi 
thực sự 
Giới tính Tuổi Kinh nghiệm Tự nguyện sử dụng 
12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 
62 
tiếp ảnh hưởng đến ý định hành vi nhưng 
vẫn có liên hệ với việc đưa ra ý định sử 
dụng hệ thống. 
Cũng được xây dựng với mục tiêu giải 
thích về hành vi chấp nhận và sử dụng công 
nghệ của người tiêu dùng chính xác và hợp 
lý nhưng UTAUT thực sự chứng minh được 
sự vượt trội so với các mô hình lý thuyết 
trước đây. Theo nghiên cứu và nhận định 
của Venkatesh (2003), mô hình UTAUT 
giải thích được 70% các trưởng hợp trong ý 
định sử dụng, tốt hơn so với các mô hình 
trước đây khi mà các mô hình đó chỉ giải 
thích được 30-45%. Đây là mô hình được sử 
dụng nhiều nhất trong việc giải thích hành 
vi chấp nhận công nghệ, đặc biệt trong lĩnh 
vực e – banking tại nhiều quốc gia trên thế 
giới. 
2. Một số nghiên cứu thực nghiệm về các 
nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử 
dụng thẻ thanh toán 
2.1.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc 
sử dụng thẻ tín dụng của cộng đồng đại 
học tại Indonesia của Maya Sari & Rofi 
Rofaida, 2011 
Tác giả đã dựa trên thuyết hành vi có 
kế hoạch (TPB) làm cơ sở lý thuyết để thực 
hiện nghiên cứu. Theo đó, dự định hành vi 
chịu tác động của “thái độ đối với hành vi”, 
“Chuẩn chủ quan”, “Cảm nhận kiểm soát 
hành vi”. Và dự định hành vi có tác động 
đến hành vi thực sự của người dùng thẻ tín 
dụng. 
Hình 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thẻ tín dụng 
Tác giả đã tiến hành phân tích mối 
quan hệ giữa các nhân tố thái độ, chuẩn chủ 
quan, kiểm soát hành vi đến ý định sử dụng 
thẻ thông qua ma trận phương sai. Qua phân 
tích phương sai, cho thấy các nhân tố thái 
độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi 
đều có Sig. <0.05, các hệ số tương quan 
Pearson đều lớn hơn 0 có nghĩa là các nhân 
tố này đều có mối tương quan dương đến ý 
định sử dụng thẻ, trong đó nhân tố Thái độ 
có mối quan hệ chặt chẽ nhất với ý định sử 
dụng thẻ (hệ số tương quan Pearson là 
0.587). Kết quả kiểm định các giả thuyết mô 
hình cho thấy, các nhân tố thái độ, chuẩn 
chủ quan và kiểm soát hành vi đều có ảnh 
hưởng đến ý định sử dụng (các hệ số 
Sig.<0.05), mức độ ảnh hưởng của các nhân 
tố được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp: 
Thái độ (0.377), kiểm soát hành vi (0.215), 
chuẩn chủ quan (0.199). 
Như vậy, “Thái độ” có ảnh hưởng đến 
ý định và quyết định sử dụng thẻ mạnh hơn 
Thái độ đối với 
hành vi 
Chuẩn chủ quan 
Kiểm soát hành vi 
Ý định Quyết định sử 
dụng 
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 
 63 
nhiều so với các yếu tố khác trong mô hình, 
và đây là nhân tố quan trọng nhất. Điều này 
chỉ ra rằng, cảm nhận của của cá nhân mang 
tính quyết định nhất đến việc chấp nhận sử 
dụng thẻ của họ. Kết quả phân tích cũng cho 
thấy rằng, ý định sử dụng thẻ có ảnh hưởng 
ý nghĩa đến quyết định sử dụng với mức tác 
động là 85.5%. 
2.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc 
lực chọn thẻ tín dụng tại Pakistan: áp 
dụng Thuyết hành động hợp lý (TRA) của 
Muhammad Ali và Syed Ali Raza, 2015 
Nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu dựa 
trên mô hình TRA gốc có bổ sung thêm biến 
“cảm nhận chi phí tài chính”. Theo đó, thái 
độ, chuẩn chủ quan và cảm nhận chi phí tài 
chính có ảnh hưởng đến ý định lựa chọn thẻ 
tín dụng. Dữ liệu được thu thập từ 466 bản 
câu hỏi được phản hồi từ 492 bản được phát 
cho khách hàng ngân hàng tại Karachi, 
Sind-Pakistan. Từ kết quả khảo sát, nhóm 
tác giả tiến hành phân tích độ tin cậy của 
thang đo và phân tích nhân tố khám phá đối 
với mô hình đề xuất. Từ kết quả phân tích, 
thang đo các nhân tố đều tốt và có giá trị 
(nằm trong khoảng từ 0.65 đến 0.8) và có 19 
biến được rút trích từ 20 biến có mối quan 
hệ với ý định lựa chọn thẻ tín dụng. 
Hình 6. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn sử dụng thẻ tín dụng 
Kết quả phân tích cho thấy, nhân tố 
“chuẩn chủ quan” và “thái độ” có ý nghĩa và 
tác động dương đến dự định lựa chọn thẻ tín 
dụng của khách hàng và chuẩn chủ quan là 
nhân tố có tác động mạnh nhất trong dự 
đoán ý định lựa chọn thẻ tín dụng. Còn nhân 
tố “Cảm nhận chi phí tài chính” lại không có 
ý nghĩa trong mô hình, mặc dù các nghiên 
cứu trước đây chỉ ra rằng “Cảm nhận chi phí 
tài chính” có tác động âm đến việc lựa chọn 
thẻ tín dụng (nghĩa là khi cảm nhận chi phí 
tài chính càng cao thì càng cản trở việc chọn 
thẻ tín dụng). Lý giải cho việc không có sự 
tác động của nhân tố này đối với việc lựa 
chọn thẻ tín dụng ở Pakistan, có thể là do 
thẻ tín dụng mới chỉ bắt đầu được sử dụng ở 
Pakistan và yếu tố tôn giáo cũng ảnh hưởng 
mạnh mẽ đến ý định sử dụng thẻ của họ, 
hơn nữa, chi phí tài chính liên quan đến thẻ 
tín dụng lại bằng nhau và có thể chấp nhận 
được ở Pakistan nên người tiêu dùng có thể 
phớt lờ chi phí tài chính. Tuy nhiên, nghiên 
cứu này cũng có những hạn chế như mẫu 
điều tra bị giới hạn nhóm người tại một địa 
điểm cụ thể, không mang tính đại diện cho 
các nhóm khác; và nghiên cứu này bị giới 
Thái độ 
Chuẩn chủ 
quan 
Cảm nhận chi 
phí tài chính 
Ý định sử dụng 
thẻ 
12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 
64 
hạn số lượng các nhân tố tác động đến việc 
lựa chọn thẻ tín dụng. 
2.3.Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến 
ý định sử dụng thẻ tín dụng điện thoại tại 
Malaysia của Hanudin Amin, 2007 
Ngoài áp dụng hai nhân tố cơ bản “cảm 
nhận tính dễ sử dụng” và “cảm nhận sự hữu 
dụng” trong mô hình TAM, tác giả còn bổ 
sung thêm nhân tố “cảm nhận sự tin tưởng” 
– đánh giá về tính bảo mật và sự an toàn khi 
sử dụng thẻ và “kiến thức về thẻ tín dụng 
điện thoại” vào mô hình nghiên cứu các 
nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng thẻ 
tín dụng điện thoại ở Malaysia. 
Hình 7. Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng thẻ tín dụng điện thoại 
Qua phân tích kết quả hồi quy cho thấy 
các biến PU, PEOU, PC và AIMC có hệ số 
Sig. <0.05 có nghĩa là các biến này có ảnh 
hưởng đến ý định sử dụng thẻ tín dụng điện 
thoại. Trong 4 biến tác động đến ý định sử 
dụng thẻ, thì biến Kiến thức về thẻ tín dụng 
điện thoại có tác động mạnh nhất đến ý định 
sử dụng thẻ. Do vậy, để thúc đẩy việc sử 
dụng thẻ, các nhà quản trị ngân hàng nên tổ 
chức khóa đào tạo về thẻ tín dụng điện thoại 
để tăng sự hiểu biết về thẻ tín dụng điện 
thoại, đồng thời cung cấp cho khách hàng 
những tập hướng dẫn chi tiết về thẻ và nó 
phải luôn có sẵn ở các chi nhánh của ngân 
hàng. 
2.4.Mô hình nghiên cứu những nhân 
tố ảnh hưởng đến ý định và quyết định sử 
dụng thẻ ATM tại Việt Nam của PGS.TS. 
Lê Thế Giới và ThS. Lê Văn Huy, 2005 
Trong nghiên cứu này, kết hợp với việc 
xem xét điều kiện thực tế Việt Nam, nhóm 
tác giả đưa ra mô hình các nhân tố ảnh 
hưởng đến ý định và quyết định sử dụng thẻ 
ATM tại Việt Nam gồm: Yếu tố kinh tế, yếu 
tố luật pháp, hạ tầng công nghệ, nhận thức 
vai trò của thẻ ATM, thói quen sử dụng 
phương thức thanh toán không dùng tiền 
mặt, độ tuổi của người tham gia, khả năng 
sẵn sàng của hệ thống ATM và dịch vụ cấp 
thẻ của ngân hàng, chính sách marketing 
của đơn vị cấp thẻ, tiện tích của thẻ. 
Cảm nhận sự hữu dụng (PU) 
Cảm nhận tính dễ sử dụng (PEOU) 
Cảm nhận sự tin tưởng (PC) 
Kiến thức về thẻ (AIMC) 
Ý định sử dụng thẻ 
(USINT) 
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 
 65 
Hình 8. Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định và quyết định sử dụng thẻ ATM 
Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát, thu 
thập dữ liệu trên địa bàn Đà Nẵng và Quảng 
Nam. Từ kết quả phân tích, có thể khẳng 
định trong điều kiện tại Việt Nam, yếu tố 
Khả năng sẵn sàng của hệ thống ATM và 
dịch vụ cấp thẻ của ngân hàng có tác động 
mạnh nhất đến ý định sử dụng thẻ ATM của 
người dân. Ngoài ra, nghiên cứu còn đưa ra 
kết quả cho thấy được sự tác động của các 
yếu tố ý định sử dụng thẻ, khả năng sẵn sàng, 
chính sách marketing của ngân hàng phát 
hành, tiện ích sử dụng đến quyết định sử 
dụng thẻ ATM. Trong đó, nhân tố ý định sử 
dụng có tầm quan trọng nhất đối với quyết 
định sử dụng thẻ ATM của người dân. 
2.5.Nghiên cứu mức độ chấp nhận sử 
dụng thẻ thanh toán xăng dầu _ Flexicard 
của người tiêu dùng tại Đà Nẵng: Áp dụng 
mô hình thống nhất việc chấp nhận và sử 
dụng công nghệ (UTAUT) của Trần Thị 
Minh Anh, năm 2010 
Ngoài các thành phần được Venkatesh 
đề cập trong mô hình UTAUT (2003), 
nghiên cứu còn đưa thêm 2 nhân tố khác, đó 
là “Lo lắng” và “Thái độ”, cả hai nhân tố 
này đều chịu tác động bởi các yếu tố Giới 
tính, tuổi tác và kinh nghiệm và đều ảnh 
hưởng trực tiếp đến dự định hành vi của 
người tiêu dùng. 
Yếu tố kinh tế 
Yếu tố pháp luật 
Hạ tầng công nghệ 
Nhận thức vai trò 
Thói quen sử dụng 
Độ tuổi người sử dụng 
Khả năng sẵn sàng 
Chính sách marketing 
Tiện ích sử dụng thẻ 
Ý định sử dụng thẻ 
ATM 
Quyết định sử 
dụng thẻ ATM 
12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 
66 
Hình 9. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng thẻ xăng dầu 
Kết quả phân tích từ dữ liệu thu thập từ 
350 người tiêu dùng xăng dầu tại Đà Nẵng 
cho thấy, tất cả các nhân tố: Thái độ, hiệu 
quả mong đợi, nỗ lực mong đợi, ảnh hưởng 
xã hội, điều kiện thuận lợi đều tác động 
thuận chiều với Dự định hành vi, riêng “Lo 
lắng” có tác động ngược lại. (Hình 9)Trong 
đó, Thái độ có tác động mạnh nhất đến Dự 
định hành vi. Nghiên cứu đã lần nữa khẳng 
định giá trị của mô hình UTAUT, phát triển 
mô hình có thể ứng dụng để nghiên cứu sự 
chấp nhận thẻ thanh toán của người tiêu 
dùng tại Việt Nam. 
3. Kết luận 
Như vậy, dựa trên các kết quả nghiên 
cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc chấp 
nhận sử dụng thẻ nêu trên, người viết vẫn sử 
dụng các nhân tố tác động đến việc chấp 
nhận sử dụng thẻ thanh toán của người dân 
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng dựa trên 
nền tảng lý thuyết và các mô hình nghiên 
cứu thực nghiệm đi trước, đó là cơ sở vật 
chất, sự bảo mật và an toàn khi sử dụng thẻ, 
lợi ích của thẻ, tính dễ sử dụng của thẻ, ảnh 
hưởng của những người liên quan. Ngoài ra, 
đề xuất thêm một nhân tố mới: “Dịch vụ hỗ 
trợ của ngân hàng”. Bởi lẽ, thẻ thanh toán là 
một sản phẩm của công nghệ ngân hàng, 
không phải khách hàng nào cũng có thể 
thành thạo các thao tác kỹ thuật khi thanh 
toán qua thẻ, và không phải khách hàng nào 
cũng có kiến thức và hiểu biết đầy đủ về lợi 
ích, vai trò, cách sử dụng thẻ. Vì thế, một 
khi khách hàng nhận đươc sự tư vấn nhiệt 
tình, hỗ trợ kịp thời của nhân viên ngân 
hàng trong quá trình sử dụng thẻ thì khách 
hàng đó sẽ dễ dàng chấp nhận sử dụng thẻ 
của ngân hàng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Trần Thị Minh Anh (2010), “Nghiên 
cứu mức độ chấp nhận sử dụng thẻ 
thanh toán xăng dầu – Flexicard của 
người tiêu dùng tại Đà Nẵng, Áp dụng 
mô hình thống nhất việc chấp nhận và 
Thái độ 
Lo lắng 
Hiệu quả mong đợi 
Nỗ lực mong đợi 
Ảnh hưởng xã hội 
Điều kiện thuận lợi 
Dự định 
hành vi 
Hành vi sử 
dụng 
Giới 
tính 
Tuổi 
Kinh 
nghiệm 
Nghề 
nghiệp 
Tự nguyện 
sử dụng 
+0.420 
-0.200 
+0.230 
+0.176 
+0.039 
+0.121 
KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 
 67 
sử dụng công nghệ (UTAUT)”, Báo cáo 
Hội nghị sinh viên Nghiên cứu khoa 
học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng. 
[2]. JungKun Park, Sujin Yang, Xinran 
Lehto (2007), “Adoption of Mobile 
Technologies for Chinese Consumers”, 
Joural of Electronic Commerce 
Research, Vol. 8, No. 3: 196-206 
[3]. Ajzen, I. (1991), “The Theory of 
Planned Behavior”, Organizational 
Behavior and Human Decision 
Processes, pp. 179-211 
[4]. Venkatesh, V., M. G. Morris, G. B. 
Davis, F. D. Davis (2003), “User 
acceptance of information technology: 
Toward a unified view”, MIS 
Quarterly, Vol. 27, No. 3: 425-478 
[5]. Maya Sari, Rofi Rofaida (2011), 
“Factor Effecting the Behavior of 
University Community to Use credit 
card”, Business Studies, Vol.4, No.3. 
[6]. Muhamad Ali and Syed Ali Raza 
(2015), “ Factor Affecting to select 
Islamic credit card in Pakistan: tha 
TRA model” 
[7]. Hanudin Amin (2007), “Analysis of 
mobile credit card usage intention”, 
Information Management & Computer 
Security, Vol .15, No. 4 
[8]. PGS. TS. Lê Thế Giới, Ths. Lê Văn 
Huy (2005), “Mô hình nghiên cứu 
những nhân tố ảnh hưởng đến ý định và 
quyết định sử dụng thẻ ATM tại Việt 
Nam”, Báo cáo toàn văn Hội thảo khoa 
học về phát triể dịch vụ tài chính tại 
Việt Nam. 

File đính kèm:

  • pdfcac_mo_hinh_ly_thuyet_va_cac_nghien_cuu_thuc_nghiem_ve_cac_n.pdf