Các lối nói nghệ thuật tương đồng trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người Thái
Tóm tắt - Là di sản văn hóa tinh thần nổi bật của tộc người, dân
ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái biểu đạt sâu đậm cho những điểm
tương đồng giữa hai tộc người này. Xét về mặt thi pháp lời thơ
nghệ thuật, một trong những điểm dễ nhận thấy là sự tương đồng
về các lối nói nghệ thuật. Qua khảo sát, nhóm tác giả nhận thấy
dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái đều phổ
biến bốn lối nói nghệ thuật là: Hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường,
cường điệu. Các lối nói nghệ thuật này được sử dụng nhiều nhất
trong các loại dân ca mang tính đối đáp giao duyên như lượn cọi,
lượn slương, lượn rọi, khắp báo xao, khắp hạn khuống Sự gần
gũi về việc sử dụng các lối nói nghệ thuật đó có nguyên nhân từ
trình tự diễn xướng hát đối đáp và từ nhu cầu thể hiện tâm tư, tình
cảm của nhân vật trữ tình. Vì thế, nghiên cứu này có ý nghĩa mở
rộng ra cả các vấn đề liên quan tới văn hóa tộc người.
Abstract - As a prominent cultural heritage of the ethnic group,
daily lyrical folk songs of Tay and Thai activities attain depth of the
similarities between these two ethnic groups. In terms of poetic art
poetry, one of the most recognizable points is the similarity of
artistic expressions. Through the survey, we have found that in
daily lyrical folk songs of the Tay and Thai people four art ways
such as hidden expression, imperatives, humility and exaggeration
are popular. These artistic expressions are used most in the folk
songs that respond to love, such as luon coi, luon sluong, luon roi,
khap bao xa, khap han khuong Closeness in the use of spoken
ways of that art is caused by the order of singing and repartee
singing and the need for expressing the feelings of lyrical
characters. Therefore, this study has significant implications for
both cultural and psychological ethnic sissues.
Từ khóa - Sự tương đồng; các lối nói nghệ thuật; dân ca trữ tình
sinh hoạt; người Tày; người Thái.
Key words - similarity; artistic expression; romantic folk songs; Tay
people; Thai people.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các lối nói nghệ thuật tương đồng trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người Thái
26 Hà Xuân Hương CÁC LỐI NÓI NGHỆ THUẬT TƯƠNG ĐỒNG TRONG DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƯỜI TÀY VÀ NGƯỜI THÁI SIMILARITY OF ARTISTIC EXPRESSIONS IN TAY AND THAI PEOPLE’S DAILY LYRICAL FOLK SONGS Hà Xuân Hương Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên; haxuanhuong_dhkh@yahoo.com.vn Tóm tắt - Là di sản văn hóa tinh thần nổi bật của tộc người, dân Abstract - As a prominent cultural heritage of the ethnic group, ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái biểu đạt sâu đậm cho những điểm daily lyrical folk songs of Tay and Thai activities attain depth of the tương đồng giữa hai tộc người này. Xét về mặt thi pháp lời thơ similarities between these two ethnic groups. In terms of poetic art nghệ thuật, một trong những điểm dễ nhận thấy là sự tương đồng poetry, one of the most recognizable points is the similarity of về các lối nói nghệ thuật. Qua khảo sát, nhóm tác giả nhận thấy artistic expressions. Through the survey, we have found that in dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái đều phổ daily lyrical folk songs of the Tay and Thai people four art ways biến bốn lối nói nghệ thuật là: Hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường, such as hidden expression, imperatives, humility and exaggeration cường điệu. Các lối nói nghệ thuật này được sử dụng nhiều nhất are popular. These artistic expressions are used most in the folk trong các loại dân ca mang tính đối đáp giao duyên như lượn cọi, songs that respond to love, such as luon coi, luon sluong, luon roi, lượn slương, lượn rọi, khắp báo xao, khắp hạn khuống Sự gần khap bao xa, khap han khuong Closeness in the use of spoken gũi về việc sử dụng các lối nói nghệ thuật đó có nguyên nhân từ ways of that art is caused by the order of singing and repartee trình tự diễn xướng hát đối đáp và từ nhu cầu thể hiện tâm tư, tình singing and the need for expressing the feelings of lyrical cảm của nhân vật trữ tình. Vì thế, nghiên cứu này có ý nghĩa mở characters. Therefore, this study has significant implications for rộng ra cả các vấn đề liên quan tới văn hóa tộc người. both cultural and psychological ethnic sissues. Từ khóa - Sự tương đồng; các lối nói nghệ thuật; dân ca trữ tình Key words - similarity; artistic expression; romantic folk songs; Tay sinh hoạt; người Tày; người Thái. people; Thai people. 1. Đặt vấn đề lẻ bóng. Tất cả đều nhằm mục đích để cho đối phương chấp Tiếp cận dân ca trữ tình sinh hoạt (DCTTSH) Tày, Thái nhận tham gia cuộc hát và chứng minh sự chân thành khi ở góc độ là một nghệ thuật ngôn từ, nhóm tác giả nhận thấy, đến với cuộc vui này, chuyện tình duyên này. Chẳng hạn, để xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình, DCTTSH của trong lượn cọi (hát gọi bạn tình) của người Tày, mở đầu hai dân tộc đều cần đến vai trò của các cách thức thể hiện cuộc hát là những lời khuyên mời theo tập quán mến khách tình cảm, đóng vai trò như những công thức diễn đạt góp của tộc người để được đối phương trả lời. Những lời phần tạo nên lời vàng ý ngọc cho các chàng, các nàng trong khuyên mời ấy là cả một cung lượn nải (hát mời) dài tới dân ca. Các cách thức này không chỉ có hiệu quả lớn đối vài trăm câu. Cách mời hát nêu những lí lẽ để đối phương với nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình mà còn bất khả kháng, buộc phải lên tiếng trả lời: hay em chê anh đáp ứng tính đưa đẩy của trình tự diễn xướng hát đối đáp. người xấu kém nên không đáng nói cùng, hay em sợ lời nói Qua khảo sát 500 bài DCTTSH Tày với 4216 câu, được mất tiền của, hát để cầu mùa màng, hát kẻo một mai về già, công bố trong các công trình [1], [3], [5], [6], [7], [10] và kẻo bướm ong hội thời vận có mùa, kẻo một mai về nhà 286 bài DCTTSH Thái với 6068 câu, được công bố trong chồng Trong khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi), khắp báo [4], [11], [8], nhóm tác giả nhận thấy có sự tương đồng xao (hát giao duyên nam nữ) của người Thái, trước khi trong cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình, chính thức đi vào cuộc hát, các cô gái Thái cũng dò hỏi thông qua bốn lối nói nghệ thuật là: hàm ẩn, cầu khiến, chàng trai bằng lối nói hàm ẩn, buộc chàng phải lên tiếng khiêm nhường và cường điệu. hát để chứng minh thành ý và tình trạng của mình. Cách nêu lí lẽ nghe ra đầy vẻ khích bác nhưng lại không đến mức 2. Kết quả nghiên cứu và khảo sát quá trớn khiến người được mời phải mếch lòng, phật ý: 2.1. Lối nói hàm ẩn - Tày: Bạn hợi dượng rừ ná nhặn dăng/ Nam Tào chẩm DCTTSH Tày, Thái đều phổ biến lối nói hàm ẩn. Theo sổ rừ tẻ nhằng/ Thai đá hạy nhằng phân đan đuổi/ Tua cáy dõi sự xuất hiện của lối nói này trong DCTTSH Tày, Thái, nuồm eng mà hết vằn (Bạn hỡi làm sao chẳng đáp lời/ Nam nhóm tác giả nhận thấy 100% các bài DCTTSH Tày, Thái Tào xóa sổ đời hết thôi/ Chết rồi làm sao còn trăng trối/ Gà đều có sự xuất hiện của lối nói này. Đặc biệt lối nói này tơ đặt ván thế là rồi) [76, tr. 301]. thường có mặt trong hai trường hợp: Trong lời mời hát đối - Thái: Pên xa păng xương mạy inh hưak chin lê/ Pên đáp hoặc trong những bức thư t ... số lần xuất hiện/ tổng số câu được khảo Hay có khi, chàng trai Thái nói ám chỉ về việc cô gái đã sát * 100%. Từ đó, nhóm tác giả có kết quả như ở Bảng 1. 28 Hà Xuân Hương Bảng 1. Kết quả khảo sát sự xuất hiện của phụ quyền, lứa đôi Tày, Thái không tự quyết định được các dấu hiệu cầu khiến hạnh phúc của cuộc đời mình. Việc hôn nhân của họ phụ Số câu thuộc nhiều vào cha mẹ, họ hàng, vào quan điểm môn đăng Số lần Tần Dấu hiệu cầu khiến được hộ đối. Cho nên, họ phải dặn dò nhau hãy yêu, hãy nhớ cho xuất hiện suất khảo sát hết kiếp, thậm chí cả sau khi chết đi rồi. Vì những nguyên Tày nhân trên, lối nói cầu khiến là lối nói phù hợp và hiệu quả đối với việc thể hiện các nội dung đưa đẩy cuộc hát, khẳng Câu hỏi tu từ 4216 187 4,4% định tình yêu hoặc dặn dò bạn tình của nhân vật trữ tình Hãy (hại, cỏi) 4216 480 11,4% Dấu hiệu trong DCTTSH Tày, Thái. Đừng (dá) 4216 159 3,4% ngôn từ của 2.3. Lối nói khiêm nhường Khuyên 4216 445 10,6% kiểu câu DCTTSH Tày, Thái đều sử dụng lối nói khiêm nhường, cầu khiến (khuyên, khuyên mừa, cạ mừa) đặc biệt rõ ở các bài hát chào mời. Trong DCTTSH Tày, lối nói này xuất hiện 226 lần thì có mặt ở các bài hát chào Thái mời 179 lần (chiếm 79%). Trong DCTTSH Thái, lối nói Câu hỏi tu từ 6068 138 2,27% này xuất hiện 187 lần thì có mặt ở các bài hát chào mời 154 Hãy (không có 6068 358 16,9% lần (chiếm 82%). Đây là lối nói được hình thành dựa trên từ tương đương biện pháp tu từ ngữ nghĩa nói giảm. Việc ưa dùng biện pháp trong tiếng Thái, Dấu hiệu này trong DCTTSH bắt nguồn từ truyền thống chuộng lịch diễn tả bằng cách ngôn từ của sự, lịch lãm trong việc cư xử của người Tày, Thái và từ yêu lặp lại động từ) kiểu câu cầu nội dung của chặng hát này trong diễn xướng. Đừng (na) 6068 307 5,1% cầu khiến Ở chặng hát này, người hát sẽ tự nhận mình là xấu, Sẽ (chi) 6068 128 3,9% nghèo hèn, kém cỏi, không xứng với đối phương, đồng thời Nhé (nờ, lò, lộ) 6068 356 5,9% đề cao đối phương bằng cách gán cho đối phương thân phận cao quý, gia cảnh giàu có. Điển hình, trong khắp hạn Nhìn vào Bảng 1, ta thấy ở DCTTSH của cả người Tày khuống của người Thái, khi các chàng trai hát xin thang lên và người Thái, câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ của sàn chơi, các cô gái sẽ hát về chiếc thang hỏng, mối mọt, kiểu câu cầu khiến có sự xuất hiện khá dày đặc. Sự kết hợp không chắc chắn. Các chàng trai xin ghế ngồi, các cô gái của sắc thái cầu khiến cùng tình cảm yêu thương ẩn giấu sẽ hát về việc không có ghế đan, ghế mây để ngồi, đành trong đó khiến cho lời hát vừa mạnh mẽ vừa có sức lan tỏa, mời các chàng ngồi ghế nệm hoặc ngồi đòn kê. Hãy nghe lay động tâm hồn đối tượng trữ tình. Kết thúc cuộc vui chơi các cô gái Thái trong cuộc vui chơi ở sân tình tự hạ thấp ở hạn khuống, trai gái Thái tha thiết dặn nhau đừng quên: bản thân mình: Hặc xơng căn/ Cảu chí lựm/ Xíp chí lựm (Đã yêu nhau/ Chín đừng quên/ Mười đừng quên). Lời dặn chân thành Khôống mở noọng khôống đin đăm/ Khôống mở noọng mà tha thiết, cứ vang lên như một điệp khúc khắc sâu vào tặm mạy ở/ Khôống khỏ bớ mí báo xao tom/ Bớ đăng đảy, tâm khảm biết bao đôi trai gái đã từng rong chơi một thời bớ xun pin/ Mạy đăm họt nó ngựn bớ đáng/ Nặm pắn họt nó hoa nở trăng tròn bên sân tình năm ấy. Để rồi, khi yêu nhau khặm bớ xum/ Bók đôông hại dản bớ xơng/ Va đôông lôông chẳng lấy được nhau, họ dặn dò đợi nhau ngay cả sau khi dản bớ đết/ Mở noọng phặn cáy cả/ Mở ái nả cáy cón/ đã chết. Sự lặp lại của những cụm từ: anh hãy anh hãy Cọn mạy ngá/ Vả lụk tạo khắm đáp kin mợng (Sân của chúng trong lời dặn dò khiến cho câu hát trở nên ám ảnh đến đau em đất đen/ Lửa được đốt bằng cây sậy/ Sân nghèo chẳng có lòng: Xoong hạu tai mợ mợng bun chại cói ha lả nờ/ Xoong trai gái tới/ Củi không thành, đốt không nên/ Gỗ đen đâu hạu tai mợ mợng phà chại cói ha nhịnh nờ/ Chại ha nhịnh sánh được măng vàng/ Nước lã sao so được măng bạc/ Bông đởi khôống phải/ Chại thả nhịnh đởi khôống may nờ (Đôi hoa xấu e chẳng thể quyến rũ/ Đóa hoa thô ai thèm ngắt cầm ta chết lên Mường Bun anh hãy tìm em nhé/ Đôi ta chết lên tay/ Chúng em nòi gà dân/ Các anh nòi gà chọi/ Đậu cây trời thì anh hãy tìm em/ Anh hãy tìm em nơi sân sợi/ Anh ngà/ Dòng giống tạo cầm gươm quản đất) [8, tr. 333]. hãy đợi em chỗ sân thêu) [8, tr. 496]. Cũng cách nói ấy, trong các cung lượn nải, khi mời nhau Lối nói cầu khiến trong được sử dụng trong lời hát của hát, người Tày tự nhận mình hèn kém, chẳng dám cất tiếng nhân vật trữ tình trong DCTTSH Tày, Thái có thể được lí lượn cùng khách. Ấy không hẳn vì tự ti mà là sự khiêm giải từ các nguyên nhân: Thứ nhất, lối nói này bắt nguồn từ nhường cần thiết theo truyền thống của tộc người khi đối trình tự cuộc hát của hai dân tộc. Lệ hát của người Tày, diện với khách: Mạy khoang pjúc khửn tẩư cằn nà/ Bản nọi Thái, bao giờ cũng có các chặng hát khuyên mời, hát thề rườn đeo cần xẩu xa/ Bản nọi rườn đeo cần xẩu sắc/ Xẩu nguyền, hát dặn. Vào cuộc hát, họ hát mời gọi, hát tán tỉnh, sắc là thôi ná khảu mà (Cây trúc trồng mọc dưới đầu bờ/ hát thề nguyền, đến khi phải chia li, giã biệt hoặc không Xóm nhỏ, nhà ít, người xấu xa/ Nhà ít, xóm nhỏ toàn người được yêu nhau nữa, họ hát nán chân, hát dặn, hát khuyên, xấu/ Người xấu thời thôi chẳng dám thưa) [6, tr. 300]. hát chờ đợi Yêu cầu nội dung của các lời hát này đã quy Vì sự khiêm nhường ấy của bên chủ mà khách phải định lối nói cầu khiến trong DCTTSH Tày, Thái. Thứ hai, dùng đến sự viện trợ của lối nói hàm ẩn, bóng gió, khích tình yêu luôn đi kèm với các trạng thái tương tư, nhớ đối phương cùng tham gia vào cuộc lượn. Cũng vì truyền nhung, thề thốt Vì thế, khi gặp nhau, họ luôn căn dặn thống khiêm nhường, lịch sự mà khách sẽ ca ngợi gia cảnh, người yêu giữ lòng chung thủy và suy nghĩ đến tương lai bản làng của đối phương bằng lối nói khoa trương, phóng tình yêu của đôi lứa. Thứ ba, do đặc điểm chế độ gia đình đại: bản làng giàu nhất châu huyện, cọc bên mỏ nước là cọc ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 17, NO. 2, 2019 29 rồng, hòn đá cũng phải là đá tròn đuôi bạc, sư tử vác côn lời chàng trai nói về những sự việc nghịch lí là một cách đứng hai bên đường vào làng Đồng thời, người Tày dùng nói hết sức thông minh và hài hước: Thả Nặm Ma hẻng cách nói khiêm nhường để tôn vinh người mình yêu lên to le chắng lưm/ Nặm Te hẻng to thú chắng lưm/ Pa bú dỏn hàng quý tộc. Họ gọi người yêu là quân tử, quan anh, là kin đao chắng lưm/ Xai khao dỏn kin mook chắng lưm/ nàng đẹp, cười chua với biết bao thương yêu, trìu mến. Nôộc chok phạ kin ỏi thong xuôn chắng lưm nơ, peng ơi! Ở trường hợp này, lối nói khiêm nhường không còn giữ ( Chờ sông Mã cạn bằng chiếc đĩa hẵng quên/ Sông Đà chức năng đưa đẩy câu chuyện nữa mà có tác dụng thể hiện cạn bằng chiếc đũa hẵng quên/ Cá bống bò lượn ăn sao sự tôn trọng, yêu quý nhất mực với đối phương. Sự hạ thấp hẵng quên/ Cát trắng lượn ăn sương mù hẵng quên/ Chim bản thân, nâng cao đối tượng như thế có tác dụng đưa đẩy sẻ trời ăn mía nửa vườn hẵng quên nhé tình thương ơi!) [4, câu chuyện, nhiều khi trở thành lí do để khơi mào cuộc hát. tr. 353 – 354]. Một loạt những hình ảnh, sự việc ngược đời 2.4. Lối nói cường điệu như: sông Mã cạn, sông Đà cạn, cá bống bò lên trời ăn sao, cát trắng lượn ăn sương mù, chim sẻ ăn nửa vườn mía Đây là lối nói nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở biện được đưa ra nhằm khoa trương, nói quá cho sự khẳng định pháp tu từ nói quá, là sự nâng lên một mức thái quá quy mạnh mẽ không bao giờ quên nhau của chàng trai với bạn mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng được tình. Tình cảm yêu thương mãi quấn quýt, vấn vương nơi mô tả. Trong các bài DCTTSH Thái, biện pháp này được sân tình. Lời thề thốt, dặn dò vì thế có ý nghĩa như một lời sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ngợi ca hoặc biểu đạt tình yêu thề quyết tâm nhớ nhau trọn đời. Hơn thế, cách nói quá, nồng nhiệt của chủ thể trữ tình đối với đối tượng trữ tình. thậm xưng này giúp cho cảm xúc thực của chủ thể trữ tình Sự cường điệu ở đây thường theo hướng liên tưởng tới các được bộc lộ rõ ràng hơn, gây được ấn tượng, sự hấp dẫn đặc điểm của tự nhiên. Chẳng hạn, giọng hát của cô gái đối với người nghe. Thái được chàng trai ca ngợi là có sức mạnh to lớn có thể biến cải tự nhiên: Ói pánh căn ơi noọng còi khắp hảư Khoa trương, phóng đại cũng là biện pháp phổ biến trong mạy nẳng pá púng nhọt baư lương dớ noọng lả ái ới/ Ún những bức phong slư của nam nữ thanh niên Tày xưa. Đây hướn căn ơi noọng lả còi khắp hảư noong cắp ná háu là cách nói để họ chứng minh tình yêu chân thành và to lớn làn dớ noọng hặc ái á/ Ói pánh căn ơi noọng lả còi khắp của mình dành cho đối phương. Chẳng hạn, họ luôn dùng hảư pú đán coỏng lùm phạ đắn lúng pin đon dớ noọng hặc các việc làm trái logic để cam đoan rằng vì người yêu mà ái ới/ Ói pánh căn á pin phiêng luông hảư luống cón má mình sẽ làm được những việc không thể tồn tại trong đời hạu dớ noọng hặc ái á (Em hãy ca hát cho cây ở rừng đâm thường như đắp ao trên ngọn cây để thả cá, lấy nước nấu chồi mọc lá/ Em thương hãy hát cho ao với ruộng mình thành dầu thắp, cho nước chảy lên đỉnh núi, bắt thuyền đang lớn phẳng em yêu nhé/ Em thương hãy hát cho núi đá đổ xuống thác quay đầu trở lại, ngồi ăn cơm trên ngọn cây sấu sập xuống thành bãi/ Thành bãi rộng cho rồng vàng đến Chàng trai trong bài ca sau đây dặn dò người yêu nếu nhất chơi nhé em yêu) [11, tr. 286]. Dưới con mắt của chàng trai tâm yêu nhau thì việc ngược đời như đan sọt đựng nước mưa đang yêu, nhan sắc của cô gái được ví như rồng lượn với cũng có thể làm được: Sị lo bấu nhất tâm rừ dưởng/ Nhất khả năng mê hoặc vạn vật và con người: Ún hướn căn á tâm dá pây cảng tàng đai/ Thương căn cỏi hết cuôi to nặm/ noọng pánh ái quoắc khen lé pan luống vin ná noọng hặc Hắp bó hẩư mền chẳng như thôm (Một lòng chớ nói đi nói ái ới/ Ún hướn căn ới noọng lả ái nhàng khoắc tin pan lại/ Hãy đan sọt để đựng nước mưa/ Đắp nước mạch để thành luống xẻo dá noọng hặc ái á / Ói pánh căn ới noọng lả ao lớn/ Cho lý ngư hội rộn xuống lên) [6, tr. 196]. ái té cứn đaư hin cọ lướt lé tai tẳng dá noọng pánh ái á/ Rõ ràng, cường điệu, phóng đại là một lối nói ấn tượng, Ói pánh căn á noọng pánh ái lé nôộc hin nôộc cọ nhắng giúp diễn đạt một cách mạnh mẽ cảm xúc, đồng thời thể lứm pík dá lo noọng hặc ái ới/ Ún hướn căn ới noọng hiện tư duy vừa thông minh vừa hài hước của chủ thể trữ pánh ái lé én hin én cọ nhắng lứm vin dá noọng lả ái á/ tình trong DCTTSH Tày, Thái. Người Tày, Thái đều là cư Ún hướn căn á noọng lả ái lé cứn mướng cay lé hin lẹo dân văn hóa thung lũng. Môi trường sống của họ gần gũi lứm nhại dá lo noọng hặc á noọng pánh ái á (Cánh tay em với tự nhiên. Đó là điều kiện để cho lối tư duy cường điệu, đưa đẹp tựa như rồng bay/ Em thương cất bước chân tựa phóng đại theo hướng liên tưởng đến các hình ảnh tự nhiên như rồng đang bay lượn đó/ Em thương của anh liếc ai thì của họ được nảy nở, phát triển và phát huy hiệu quả trong người đó ngất ngây/ Em thương của anh nhìn chim rừng, việc thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình trong DCTTSH. chim rừng quên vỗ cánh/ Em thương của anh nhìn chim én, chim én quên cả bay/ Người mường xa nhìn thấy em liền 3. Kết luận quên bước chân đi em yêu của anh à!) [11, tr.233]. Như vậy, DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có sự Theo kết quả thống kê của nhóm tác giả, trong DCTTSH tương đồng về bốn lối nói nghệ thuật: hàm ẩn, cầu khiến, của hai dân tộc Tày, Thái, lối nói cường điệu được sử dụng khiêm nhường, cường điệu. Việc gọi tên các lối nói nghệ với tần suất khá lớn (469 lần/500 bài DCTTSH Tày, 317 lần/ thuật như trên là dựa vào quan hệ giữa ngôn ngữ và ngữ 286 bài DCTTSH Thái). Lối nói cường điệu được sử dụng cảnh [2], cụ thể là ngữ cảnh của cuộc hát đối đáp. Từ những nhiều nhất ở những lời hát ước ao, thề thốt trong tình yêu đặc điểm của phần lời trong dân ca như biện pháp tu từ ẩn (298 lần, chiếm 63,5% trong DCTTSH Tày và 265 lần, dụ, nói quá, nói giảm, câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ chiếm 84% trong DCTTSH Thái). của kiểu câu cầu khiến, tác giả dân gian Tày, Thái đã nâng lên thành những lối nói nghệ thuật trong các bài hát của Trai gái Thái khi chia tay hạn khuống rồi còn dặn nhau mình, tạo thành các công thức mang tính truyền thống cho nhớ về những kỉ niệm, những tình cảm đã gửi trao ở sân việc phô diễn, bộc lộ tâm tư, tình cảm của nhân vật. Điều tình. Lời dặn dò thiết tha được đảm bảo bằng việc không này xuất phát từ nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ thể đảo ngược được sự vĩnh hằng của tự nhiên. Cho nên, 30 Hà Xuân Hương tình và từ tính chất của các chặng trong hát đối đáp. Trong Giáo dục, Hà Nội, 2001. đó, “các chặng tương ứng với quá trình diễn biến của một [3] Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tước, Hoàng Nừng (sưu tầm, biên cuộc giao duyên là chỗ giống nhau cơ bản của dân ca đối dịch), Iếu – Dân ca dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2012. đáp trữ tình” [9, tr. 16]. Việc sử dụng lối nói nghệ thuật nào [4] Nguyễn Văn Hòa (sưu tầm, biên dịch), Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2001. hay kết hợp linh hoạt các lối nói nghệ thuật trong một bài hát [5] Nhiều tác giả, Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày – Nùng), Nxb Dân đều do hai nguyên nhân trên chi phối. Điều đáng nói là, ở tộc Việt Bắc, 1970. DCTTSH Tày, Thái, tính diễn xướng của dân ca với tư cách [6] Nhiều tác giả, Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương, Nxb Văn là một nghệ thuật biểu diễn khá nổi bật, đặc biệt là ở hình hóa dân tộc, Hà Nội, 2012. thức hát cuộc. Sự phổ biến của các cuộc hát ở dạng thức phát [7] Lục Văn Pảo (sưu tầm, phiên âm, dịch), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân triển với lề lối, thể thức ngày càng ổn định, dần tiến tới tộc, Hà Nội, 1994. chuyên nghiệp hóa và sự nhạt dần của các hình thức hát lẻ [8] Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sưu tầm, biên dịch), Dân ca Thái Lai cùng các hình thức hát cuộc ở dạng chưa phát triển có tác Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà động không nhỏ tới sự phổ biến của các lối nói nghệ thuật Nội, 2012. trên trong DCTTSH, hé lộ sự gần gũi nhau về văn hóa giữa [9] Lê Chí Quế, Văn hóa dân gian – Khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại hai tộc người ở khu vực miền núi phía Bắc. học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014. [10] Dương Văn Sách, Dương Thị Đào (sưu tầm), Lượn rọi – Hát đối đáp TÀI LIỆU THAM KHẢO của của người Tày, Nxb Hội nhà văn, Hà nội, 2016. [11] Đỗ Thị Tấc (sưu tầm và dịch), Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 1 – [1] Phương Bằng (sưu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch), Phong Slư, Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012. Hà Nội, 2012. [2] Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học, Nxb (BBT nhận bài: 25/12/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/02/2019)
File đính kèm:
- cac_loi_noi_nghe_thuat_tuong_dong_trong_dan_ca_tru_tinh_sinh.pdf