Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía
Các loại màng bọc và túi được tạo ra từ quá
trình polyme hóa etilen và vinyl clorua tạo ra
các túi nilon PE, PVC sử dụng rất rộng rãi ở
hầu hết các nước trên thế giới với ưu điểm rất rẻ
tiền, nhẹ, thuận tiện sử dụng, có khả năng tạo
hình đa dạng để bao bọc và đóng gói các sản
phẩm. Các loại màng PE, PVC, PET và PE khi
sản xuất thường được thêm các chất hóa dẻo
DEHA, LDPE, DEHP thuộc nhóm phthalates
(PAEs) từ 10% tới 60% khối lượng màng nhằm
cải tiến khả năng đàn hồi, khả năng kéo giãn và
dễ tạo hình (Giuliani & cs., 2020). Các chất
phtalates là những chất cấm sử dụng do tác
động đến hormone gây rối loạn nội tiết, ảnh
hưởng đến sức khỏe sinh sản, gây ung thư và
rất khó phân hủy phải mất từ 200-500 năm mới
có thể phân hủy một túi nilon trong môi trường
tự nhiên, do vậy gây ảnh hưởng rất lớn đến môi
trường và sức khỏe con người. Tại hội thảo khoa
học Kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng
túi nilon khó phân hủy năm 2018 tại Quy Nhơn,
các nhà khoa học dùng cụm từ “ô nhiễm trắng”
để nói về hiện tượng ô nhiễm do túi nilon gây ra
thảm họa đối với môi trường. Trên thế giới và cả
ở Việt Nam, việc hạn chế sử dụng và tiến tới
thay thế các bao bì, túi nilon bằng các loại vật
liệu mới an toàn, thân thiện với sức khỏe và môi
trường đang ngày càng được quan tâm (Rai &
cs., 2017).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía
Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 932-941 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 932-941 www.vnua.edu.vn 932 CÁC ĐẶC TÍNH MÀNG CHỐNG THẤM SINH HỌC CHITOSAN KẾT HỢP VỚI LIGNIN THU HỒI TỪ BÃ MÍA Chu Thị Thanh1*, Nguyễn Thị Tuyết2, Nguyễn Ngọc Kiên1, Ngô Thị Thương1, Nguyễn Thị Bích Thủy3, Lê Thị Thu Hương1 1Khoa Môi trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Sinh viên K60, Khoa Công nghệ thực phẩm, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 3Trường THPT Quang Hà, Vĩnh Phúc *Tác giả liên hệ: chuthithanh.hus@gmail.com Ngày nhận bài: 25.11.2019 Ngày chấp nhận đăng: 23.04.2021 TÓM TẮT Hiện nay nhu cầu toàn xã hội trong sự phát triển các loại màng sinh học dễ phân hủy để thay thế vật liệu nhựa tổng hợp ngày càng tăng lên nhanh chóng. Mục tiêu của nghiên cứu này là thu hồi lignin từ bã mía - phụ phẩm của ngành sản xuất mía đường bằng phương pháp thủy phân kiềm để tổng hợp ra các loại màng sinh học từ chitosan và lignin góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy lignin được tách ra từ bã mía sau 2h thủy phân với tỉ lệ NaOH/bã mía (1/10 w/w) và kết tủa bằng dung dịch axit tại pH = 2. Các màng tạo thành được đo các đặc tính: độ ẩm, độ dày, lực phá vỡ và khả năng chống thấm nước. Trong đó, màng được tạo thành từ chitosan và lignin theo tỉ lệ thể tích (1C:1L v/v), độ dày màng từ 27,19-30,13µm, lực phá vỡ màng 259.000-312.000 N/m2 có khả năng chống thấm nước tốt nhất và kháng khuẩn với chủng vi sinh vật Escherichia coli và Staphylococcus aureus. Từ khóa: Bã mía, chitosan, lignin, màng chống thấm, màng sinh học. Properties of Biological Waterproof Films Combination Chitosan and Lignin Extracted from Sugarcane Bagasse ABSTRACT Currently, the global demand for development of biodegradable films to replace synthetic plastic materials has been rapidly increased. In this study, we aimed to extract lignin from sugarcane bagasse by-products of the sugarcane industry in order to fabricate biological membranes from chitosan and lignin to reduce environmental pollution. The results revealed that lignin was successfully extracted from sugarcane bagasse by alkaline hydrolysis method in 2h with weight ratio NaOH/ sugarcane bagasse of 1:10 w/w and precipitation at pH = 2 by acidic solution. Properties of films were measured: moisture, film thickness, tensile strength and waterproof. The biological waterproof films were synthesized from chitosan and lignin with a volume ratio (1C:1L v/v), the film thickness of 27,19-30,13µm and the tensile strength of 259.000-312.000 N/m2 and antimicrobial activity with Escherichia coli and Staphylococcus aureus. Keywords: Biological films. chitosan, lignin, sugarcane bagasse, waterproof membranes. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Các loại màng bọc và túi được tạo ra từ quá trình polyme hóa etilen và vinyl clorua tạo ra các túi nilon PE, PVC sử dụng rất rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới với ưu điểm rất rẻ tiền, nhẹ, thuận tiện sử dụng, có khả năng tạo hình đa dạng để bao bọc và đóng gói các sản phẩm. Các loại màng PE, PVC, PET và PE khi sản xuất thường được thêm các chất hóa dẻo DEHA, LDPE, DEHP thuộc nhóm phthalates (PAEs) từ 10% tới 60% khối lượng màng nhằm cải tiến khả năng đàn hồi, khả năng kéo giãn và dễ tạo hình (Giuliani & cs., 2020). Các chất phtalates là những chất cấm sử dụng do tác động đến hormone gây rối loạn nội tiết, ảnh Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương 933 hưởng đến sức khỏe sinh sản, gây ung thư và rất khó phân hủy phải mất từ 200-500 năm mới có thể phân hủy một túi nilon trong môi trường tự nhiên, do vậy gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và sức khỏe con người. Tại hội thảo khoa học Kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi nilon khó phân hủy năm 2018 tại Quy Nhơn, các nhà khoa học dùng cụm từ “ô nhiễm trắng” để nói về hiện tượng ô nhiễm do túi nilon gây ra thảm họa đối với môi trường. Trên thế giới và cả ở Việt Nam, việc hạn chế sử dụng và tiến tới thay thế các bao bì, túi nilon bằng các loại vật liệu mới an toàn, thân thiện với sức khỏe và môi trường đang ngày càng được quan tâm (Rai & cs., 2017). Chitosan là một polysaccharide mạch thẳng, có nguồn gốc từ các thành phần cấu trúc của vỏ các loài giáp xác như tôm, cua đã được nhiều nhóm nghiên cứu làm màng bảo quản thực phẩm do có đặc tính kháng khuẩn, kháng nấm tự nhiên (Châu Văn Minh & Bùi Văn Miên, 1997). Màng bọc thực phẩm được tạo ra bằng cách kết hợp chitosan và các chất khác nhau như glycerol, gelatin, polysaccharide, tinh bột để cải tiến tính chất vật lý và cơ học của màng: Màng chitosan kết hợp glycerol (Lê Hồ Khánh Hỷ & cs., 2016; Priyadarshi & cs., 2018), màng chitosan-gelatin (Lê Thị Minh Thùy, 2008; Atmaka & cs., 2018). Màng chitosan kết hợp tinh bột ngô (Bof & cs., 2016). Sự kết hợp giữa lignin và chitosan để tạo màng bao gói thực phẩm có khả năng kháng khuẩn Gram âm ... , 2001). Bảng 2. Ảnh hưởng của pH đến khối lượng lignin Giá trị pH 1 2 3 4 Khối lượng lignin (g) 0,965 1,097 1,018 0,784 0,962 1,090 1,020 0,777 0,960 1,086 1,002 0,781 Khối lượng trung bình (g) 0,962 a ± 0,002 1,091 b ± 0,005 1,013 c ± 0,006 0,781 d ± 0,004 Ghi chú: Các giá trị trung bình mang các chữ khác nhau (a, b,c, d) là khác nhau có ý nghĩa thống kê ( P <0,05). Ghi chú: Các giá trị trung bình mang các chữ khác nhau (a, b,c) là khác nhau có ý nghĩa thống kê ( P <0,05). Hình 1. Ảnh hưởng của thời thủy phân đến khối lượng lignin Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương 937 Bảng 3. Ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng NaOH/bã mía Tỉ lệ NaOH/bã mía (w/w) 1/20 1/10 1/5 Khối lượng Lignin(g) 0,908 b ± 0,002 1,422 a ± 0,002 1,423 a ± 0,003 Ghi chú: Các giá trị trung bình mang các chữ khác nhau (a, b) là khác nhau có ý nghĩa thống kê ( P <0,05). 3.1.3. Khảo sát tỉ lệ NaOH/ bã mía Mục đích của quá trình thủy phân kiềm sẽ làm phá vỡ thành tế bào do kiềm hòa tan các hemicellulose, lignin, phân hủy các liên kết este do đó khi tăng nồng độ NaOH thì quá trình thủy phân hemicellulose, độ hòa tan lignin trong NaOH và sự trương nở cấu trúc cellulose sẽ tăng lên tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hòa tan lignin ra khỏi bã mía. Khối lượng lignin thu được trong TN3 được thể hiện tại bảng 3. Bảng 3 cho thấy khi tăng khối lượng NaOH từ 2,5g lên 5g khối lượng lignin thu được tăng từ 0,908g lên 1,422g khoảng 1,56 lần, nhưng tiếp tục tăng gấp đôi khối lượng NaOH thì sự thay đổi không đáng kể do khi nồng độ NaOH quá cao sẽ làm tăng độ nhớt dung dịch làm giảm tốc độ khuếch tán ion OH- vào bên trong nguyên liệu, nên khả năng cắt các liên kết sẽ trở lên chậm lại, hiệu quả xử lý không tăng thêm. Do đó, tỉ lệ NaOH/bã mía là 1/10 w/w được lựa chọn để thủy phân bã mía. Nhóm nghiên cứu Wunna đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xử lý kiềm để tách lignin từ bã mía đã nhận thấy khi thay đổi đồng thời các yếu tố nhiệt độ, nồng độ kiềm với thời gian sẽ ảnh hưởng đến khối lượng lignin thu được. Điều kiện tối ưu tìm được khi thủy phân để thu hồi lignin ở nhiệt độ 120C trong 1h với tỉ lệ khối lượng NaOH 2% và tỉ lệ chất rắn: lỏng là 1:20 w/v (Wunna & cs., 2017). 3.2. Hình ảnh màng sinh học từ chitosan và lignin Với 10 công thức phối trộn tỉ lệ giữa chitosan và lignin thì công thức CT1.5 và CT2.5 khi chỉ có dung dịch lignin không tạo được màng. Các tỉ lệ phối trộn chitosan với lignin và công thức chỉ chứa chitosan đều thành các màng mỏng và bóng, các màng được làm khô ở nhiệt độ 40C, màng có thể bóc ra dễ dàng khỏi khuôn nhựa. Hình 2 là ảnh một màng thu được. Màng chỉ chứa chitosan có màu trắng ngà, sáng, bề mặt nhẵn, bóng. Các màng được tạo bởi dung dịch hỗn hợp chitosan và lignin có màu hơi vàng nâu, do thành phần lignin được phối trộn vì bột lignin khi được tách ra từ bã mía và hòa tan trong dung dịch NaOH 0,1M có màu nâu. Khi hàm lượng lignin trong hỗn hợp càng nhiều thì màu sắc màng càng đậm. Bề mặt các màng này cũng đều nhẵn và bóng. Phương pháp tạo chế tạo màng đơn giản, chitosan được hòa tan trong dung dịch axit axetic loãng 2% và lignin tan trong NaOH 0,1M sau khi bay hơi để lại lớp màng trên khuôn nhựa, dễ dàng bóc tách ra khỏi khuôn. 3.3. Các đặc tính của màng Sau khi màng được hình thành, tiến hành xác định các chỉ tiêu độ ẩm màng bằng phương pháp sấy ở nhiệt độ 80C, xác định độ dày màng bằng phương pháp kính hiển vi điện tử quét và lực phá vỡ màng theo các công thức phối trộn tỉ lệ giữa chitosan và lignin được thể hiện trong bảng 4. Bảng 4 cho thấy độ ẩm màng dao động trong khoảng 15-25%, màng có tỉ lệ chitosan : lignin (2C:1L v/v) tương ứng công thức CT1.2.và CT2.2 có độ ẩm cao hơn các công thức màng còn lại và màng dày hơn có độ ẩm cao hơn. Với công thức màng CT1.4 là màng mỏng nhất độ dày 22,12µm có lực phá vỡ màng nhỏ nhất từ 130.000 N/m2, khi giảm tỉ lệ lignin trong màng xuống với tỉ lệ chitosan: lignin (1C:1L v/v) tại CT1.3 thì lực phá vỡ tăng lên gấp khoảng 2 lần. Màng chỉ có chứa chitosan CT1.1 có độ ẩm thấp nhất nhưng có độ dày lớn 50,97µm và lực phá vỡ màng lớn 624.000 N/m2. Khi thể tích đổ màng 200ml, độ dày và lực phá vỡ tăng lên, tương ứng với CT2.1 màng chỉ chứa chitosan có lực phá vỡ tới 728.000 N/m2 khi màng có độ dày 55,10µm. So sánh với kết quả nghiên cứu của tác giả Bùi Văn Miên & cs. Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía 938 (2003), màng hình thành từ chitosan/ PEG-EG (với nồng độ phụ gia tối ưu là 10% so với chitosan, tỉ lệ PEG : EG là (1:1) thì lực phá vỡ màng là 6,86 kg/cm2, với độ dày màng 52,6µm, nếu màng không được bổ sung chất phụ gia, lực phá vỡ màng chỉ 1,66 kg/cm2 thấp hơn từ 6-7 lần so với kết quả của nghiên cứu không cần bổ sung chất phụ gia với độ dày màng chitosan 50,97 µm ở CT1.1 có lực phá vỡ 624.000 N/m2 (tương đương 6,24 kg/cm2) và màng chitosan dày 55,10µm ở CT2.1 có lực phá vỡ màng 728.000 N/m2 (tương đương 7,28 kg/cm2). CT1.1 CT1.2 CT1.3 CT1.4 CT1.5 CT2.2 Hình 2. Màng sinh học từ chitosan và màng phối trộn chitosan/lignin Bảng 4. Một số chỉ tiêu màng tạo bởi chitosan và lignin Công thức màng Tổng thể tích đổ màng 150ml Tổng thể tích đổ màng 200ml CT1.1 CT1.2 CT1.3 CT1.4 CT2.1 CT2.2 CT2.3 CT2.4 Độ ẩm (%) 14,99 24,46 20,68 18,35 16,31 25,34 22,08 19,81 Lực phá vỡ màng (N/m 2 ) 624.000 286.000 259.000 130.000 728.000 702.000 312.000 156.000 Độ dày (µm) 50,97 47,88 27,19 22,12 55,10 49,41 30,13 27,25 Ghi chú: C: chitosan, L: lignin. Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương 939 Bảng 5. Khảo sát khả năng chống thấm của màng Công thức màng Tổng thể tích đổ màng : 150ml Tổng thể tích đổ màng : 200ml CT1.1 CT1.2 CT1.3 CT1.4 CT2.1 CT2.2 CT2.3 CT2.4 Tính chống thấm Dễ thấm nước Thấm nước sau 3 ngày Không thấm nước Thấm nước sau 1h Dễ thấm nước Thấm nước sau 3 ngày Không thấm nước Thấm nước sau 3h Staphylococcus aureus Escherichia coli Hình 3. Hình ảnh đo đường kính vòng vô khuẩn S. aureus và E. coli 3.4. Xác định khả năng chống thấm nước của màng Khảo sát khả năng chống thấm nước của màng được đánh giá theo theo TCVN 9067-4- 2012. Kết quả nghiên cứu tính chống thấm của các tỉ lệ phối trộn giữa chitosan và lignin được thể hiện tại bảng 5. Bảng 5 cho thấy, nếu màng chỉ tạo bởi chitosan CT1.1 và CT2.1 có lực phá vỡ màng lớn nhất nhưng rất dễ thấm nước, khi rót nước vào màng thì màng đã thấm nước và trương lên, sau đó nước chảy qua màng dễ dàng. Các công thức được phối trộn thêm lignin thì đã kéo dài được thời gian giữ nước trên màng. Màng CT1.4 và CT2.4 có tỉ lệ chitosan : lignin (1C:2L v/v) thì lực phá vỡ màng là nhỏ nhất và thấm nước sau khoảng thời gian từ 1-3h. Với công thức tạo màng CT1.2 và CT2.2 chỉ thấm nước sau thời gian 3 ngày, màng được tạo theo CT1.3 và CT2.3 khi tỉ lệ chitosan : lignin là (1C :1L v/v) độ dày màng trong khoảng 27,19-30,13 µm thì đều có khả năng chống thấm nước tốt, sau thời gian quan sát 7 ngày, nước vẫn được giữ trên màng. Do chitosan khi hòa tan trong dung dịch axit có điện tích dương, còn lignin khi hòa tan trong dung dịch kiềm phân tử lignin mang điện tích âm do bị hydroxyl và carboxyl hóa. Khi phối trộn chitosan với lignin với nhau chúng tạo liên kết ngang tạo nên một lớp phủ polymer chặt chẽ (Santam & cs., 2018 ; Ajao & cs., 2018). Khi tỉ lệ của chitosan với lignin thích hợp vừa để trung hòa phần axit và kiềm thì tạo thành màng có khả năng chống thấm tốt nhất. 3.5. Khả năng kháng khuẩn bằng phương pháp đục lỗ thạch Kết quả thử khả năng kháng khuẩn trên hai chủng vi khuẩn Gram (+) Staphylococcus Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía 940 aureus và vi khuẩn Gram (-) Escherichia coli của công thức tạo màng CT1.1 công thức có khả năng chống thấm tốt nhất cho đường kính vòng vô khuẩn lần lượt là 18mm và 16mm. Kết quả phân tích cho thấy khi phối trộn giữa chitosan và lignin để tạo màng có khả năng kháng khuẩn tốt, có thể sử dụng để làm màng ứng dụng trong bao gói sản phẩm. Kết quả thử vi khuẩn được thể hiện trên hình 3. Kiểm tra hai chủng vi khuẩn Gram (+) Staphylococcus aureus và vi khuẩn Gram (-) Escherichia coli được a cho thấy khi phối trộn chitosan và lignin để tạo màng sinh học có hoạt tính ức chế vi sinh vật. Trong kết quả nghiên cứu của Rai & cs. (2017), khi chỉ có dung dịch lignin nồng độ 200µg có khả năng kháng khuẩn Gram (+) Bacillus subtilis và vi khuẩn Gram (-) Pseudomonas aeruginosa với đường kính vòng kháng khuẩn lần lượt là 19mm và 14mm, khi kết hợp giữa chitosan và lignin (200µg) để tạo màng đã tăng khả năng kháng khuẩn Gram (-) lên 28mm và Gram (+) là 30mm. Do vi khuẩn Gram dương thường nhạy với các hợp chất vòng thơm và các chất kháng sinh hơn vi khuẩn Gram âm vì trong thành tế bào vi khuẩn gram dương giàu lipoprotein và phospholipid nên có đường kính vô khuẩn lớn hơn. Màng chitosan và lignin được ứng dụng làm bao bì thực phẩm giúp bảo quản và kéo dài thời hạn của thực phẩm. 4. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chế tạo thành công màng sinh học khi kết hợp chitosan với lignin, mở ra một hướng nghiên cứu mới về vật liệu thân thiện môi trường từ phụ phẩm nông nghiệp. Trong các tỉ lệ phối trộn chitosan và lignin thì công thức tạo màng CT1.3 và CT2.3 có tỉ lệ chitosan : lignin 1C:1L (v/v) có khả năng chống thấm nước tốt nhất, màng có khả năng kháng khuẩn với hai chủng vi khuẩn E. coli và S. aureus với đường kính vòng vô khuẩn lần lượt 16mm và 18mm. Các màng sinh học được tạo thành rất mỏng độ dày dao động trong khoảng 22-55µm nhưng có lực phá vỡ màng lớn từ 130.000-728.000 N/m2 mà không cần bổ sung thêm chất phụ gia và chất hóa dẻo. LỜI CẢM ƠN Kết quả nghiên cứu của bài báo nhận được một phần kinh phí hỗ trợ từ đề tài cấp Học viện với mã số T2019-04-18. Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn cán bộ, sinh viên khoa Môi Trường, khoa Công nghệ thực phẩm, Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Viện Hóa học, Viện Hàn lâm và Khoa học Việt Nam đã hỗ trợ để thực hiện nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ajao O., Jeaidi J., Benali M., Restrepo M.A., Mehdi El M., Boumghar Y. (2018). Quantification and variability analysis of lignin optical properties for colour-dependent industrial applications. Molecules. 23(2) : 377. Atmaka W., Yudhistira B. & Putro M.I.S. (2018). Characteristic study of chitosan addition in Tilapia (Oreochromis niloticus) bone base gelatin film. Conference series Earth and Environmental Science. 142. DOI:10.1088/1755- 1315/142/1/012028. Bof M.J., Jimenez A., Locaso D.E., Garcia M.A & Chiralt A. (2016). Grapefruit seed extract and lemon essential oil as active agents in corn starch- chitosan blend films. Food and Bioprocess Techonogy. 9(12): 2033-2045. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012). TCVN 9067-4- 2012: quy định phương pháp xác định độ thấm nước dưới áp lực thủy tĩnh của tấm trải chống thấm trên cơ sở bitum biến tính được gia cường bằng sợi hữu cơ và/hoặc sợi vô cơ. Bộ Khoa học và Công nghệ (2013). TCVN 10101:2013 - Quy định phương pháp xác định độ dày của mẫu thử màng hoặc tấm chất dẻo bằng phương pháp quét cơ học. Bùi Văn Miên & Nguyễn Anh Trinh (2004). Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến độ dày và áp suất phá vỡ của màng chitosan. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp. 3: 1-6. Châu Văn Minh, Phạm Hữu Điển, Đặng Lan Hương, Trịnh Đức Hưng & Hoàng Thanh Hương (1997). Sử dụng chitosan làm chất bảo quản thực phẩm tươi sống. Tạp chí Hóa học. 4: 75-78. Giuliani A., Zuccarini M., Cichelli A., Khan H & Reale M (2020). Critical review on the presence of Phthalates in food and evidence of their biological impact. International Journal of Enviromental research and public health. 17(16): 5655. Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương 941 Haghdan S., Rennecker S. & Smith G.D. (2016). Ligin in polymer Composites. Journal and Books. pp. 1-11. Lê Hồ Khánh Hỷ, Nguyễn Thu Hồng, Đào Việt Hà, Phạm Xuân Kỳ, Phạm Bảo Vi & Đoàn Thị Thiết (2016). Chế tạo màng chitosan/ glycerol và chitosan/glycerol bổ sung nanochitosan trong bảo quản thực phẩm cá thu. Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển. 22: 48-58. Lê Thị Minh Thùy (2008). Nghiên cứu phối trộn chitosan-gelatin làm màng bọc thực phẩm bao gói bảo quản phi lê cá ngừ đại dương. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. 1:147- 153. Motaung E.T., Mochane J.M. (2017). Systematic review on recent studies on sugar cane bagasse and bagasse cellulose polymer composites. Journal of thermoplastic composite materials. 1-17. DOI: 10.1177/0892705717738292. Muxika A., Zugasti I., Guerrero P & Caba K. D. L. (2017). Application of chitosan in Food packaging. Reference Module in Food Science. 1-12. DOI: 10.1016/B978-0-08-100596-5.22400-1. Novaes E., Kirst M & Chiang V. (2010), Lignin and Biomass: A negative correlation for woof formation and lignin conntent in trees. Plant Physsiol. 154(2): 555- 561. Priyadarshi R., Sauraj., Kumar B & Negi (2018). Chitosan film incorporated with citric acid and glycerol as an active packaging material for extension of green chilli shelf life. Carbohydrate Polymers. 1(195): 329: 338. Rai S., Dutta P. K & Mehrotra G.K. (2017). Lignin Incorporated Antimicrobial Chitosan Film for Food Packaging Application. Journal Polymer Material. 34(1): 171-183. Satam C.C., Irvin W.C., Lang W.A., Jallorina R.C.J., Shofner L.M., Reynolds R.J. & Meredith C.J. (2018). Spray-Coated multilayer cellulose nanocrystal-Chitin nanofiber films for barrier applications. ACS Sustainable chemistry and engineering. 6 : 10637-10644. Trần Thị Luyến & Lê Thanh Long (2007). Nghiên cứu bảo quản trứng gà tươi bằng màng bọc chitosan kết hợp phụ gia. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, Đại học Nha Trang. 01: 3-11 Vũ Đình Ngọ, Trần Thị Hằng & Vũ Đức Cường (2017). Sự ảnh hưởng của các yếu tố tới quá trình tách cellulose và lignin từ rơm rạ bằng phương pháp kiềm. Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh học. 22(1): 38-44. Wunna K., Nakasaki K & Joseph L. (2017). Effect of alkali pretreament on removal of lignin from sugarcane bagasse. Chemical Engineering Transactions. 56: 1831-1836 Xiao B., Sun X.F & Sun R. C. (2001). Chemical, structural, and thermal characterization of alkali- soluble lignins and hemicelluloses and cellulose from maize, stems, rye straw, and rice straw. Polymer Degradation and Stability. 74(2): 307-319.
File đính kèm:
- cac_dac_tinh_mang_chong_tham_sinh_hoc_chitosan_ket_hop_voi_l.pdf