Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI

Hải Phòng là thành phố biển, nằm ở vùng duyên hải

Bắc Bộ, là cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc. Với

vị trí thuận lợi và tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả vị

thế, cảnh quan, nên khu vực biển ven bờ Hải Phòng có

hoạt động kinh tế biển sôi động như: cảng biển, đánh

bắt và nuôi trồng thủy sản, du lịch và dịch vụ Tuy

nhiên, các hoạt động kinh tế đã và đang tác động mạnh

đến môi trường của địa phương gây ô nhiễm, thu hẹp

không gian bãi triều. Một trong những vấn đề đặt ra

hiện nay là cần có những nghiên cứu đánh giá tổng thể

với độ tin cậy cao về hiện trạng chất lượng nước vùng

biển ven bờ Hải Phòng, bởi các nghiên cứu này sẽ là cơ

sở để đề xuất các giải pháp BVMT và hướng tới mục

tiêu phát triển bền vững vùng biển Hải Phòng.

Theo cách đánh giá truyền thống về chất lượng

nước (giá trị của thông số quan trắc được đối sách với

tiêu chuẩn/quy chuẩn môi trường) thường tổng hợp

các giá trị của từng thông số trong một khu vực nào đó

và hình thức báo cáo này chỉ phục vụ cho các chuyên

gia am hiểu về lĩnh vực môi trường. Trong khi đó, các

nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách và cộng đồng

muốn biết một cách tổng thể chất lượng nước của một

vùng nào đó, thì thường gặp nhiều khó khăn, do đây

không phải là lĩnh vực chuyên sâu của họ.

Nghiên cứu tính toán WQI là cấp bách và thiết thực,

vì nó cho phép đánh giá và báo cáo các thông tin theo

một hình thức phù hợp cho tất cả các đối tượng quan

tâm (bao gồm cả những nhà quản lý, cộng đồng không

phải là chuyên gia môi trường nước) đến chất lượng

môi trường nước vùng cửa sông. Việc phân vùng chất

lượng nước theo WQI có hiệu quả cao về khoa học và

kinh tế vì giúp cơ quan quản lý môi trường đánh giá

về hiện trạng và diễn biến chất lượng nước trong toàn

vùng; giúp chính quyền lựa chọn để giải quyết vấn đề

ô nhiễm nước tại các khu vực trong vùng cửa sông bị ô

nhiễm ở mức cao; tiết kiệm kinh phí so với các phương

pháp đánh giá chất lượng nước truyền thống (phương

pháp đánh giá chất lượng nước truyền thống là cần

phải tiến hành quan trắc số lượng lớn với nhiều điểm,

thông số và tần suất quan trắc).

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI trang 1

Trang 1

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI trang 2

Trang 2

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI trang 3

Trang 3

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI trang 4

Trang 4

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI trang 5

Trang 5

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI trang 6

Trang 6

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 17420
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI

Bước đầu phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng bằng WQI
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202160
BƯỚC ĐẦU PHÂN VÙNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÙNG BIỂN 
VEN BỜ HẢI PHÒNG BẰNG WQI
Lê Văn Nam1,3 
Đặng Kim Chi 2 
Lê Xuân Sinh, Nguyễn Thị Thu Hà3
1. Mở đầu
Hải Phòng là thành phố biển, nằm ở vùng duyên hải 
Bắc Bộ, là cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc. Với 
vị trí thuận lợi và tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả vị 
thế, cảnh quan, nên khu vực biển ven bờ Hải Phòng có 
hoạt động kinh tế biển sôi động như: cảng biển, đánh 
bắt và nuôi trồng thủy sản, du lịch và dịch vụ Tuy 
nhiên, các hoạt động kinh tế đã và đang tác động mạnh 
đến môi trường của địa phương gây ô nhiễm, thu hẹp 
không gian bãi triều. Một trong những vấn đề đặt ra 
hiện nay là cần có những nghiên cứu đánh giá tổng thể 
với độ tin cậy cao về hiện trạng chất lượng nước vùng 
biển ven bờ Hải Phòng, bởi các nghiên cứu này sẽ là cơ 
sở để đề xuất các giải pháp BVMT và hướng tới mục 
tiêu phát triển bền vững vùng biển Hải Phòng. 
Theo cách đánh giá truyền thống về chất lượng 
nước (giá trị của thông số quan trắc được đối sách với 
tiêu chuẩn/quy chuẩn môi trường) thường tổng hợp 
các giá trị của từng thông số trong một khu vực nào đó 
và hình thức báo cáo này chỉ phục vụ cho các chuyên 
gia am hiểu về lĩnh vực môi trường. Trong khi đó, các 
nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách và cộng đồng 
muốn biết một cách tổng thể chất lượng nước của một 
vùng nào đó, thì thường gặp nhiều khó khăn, do đây 
không phải là lĩnh vực chuyên sâu của họ. 
Nghiên cứu tính toán WQI là cấp bách và thiết thực, 
vì nó cho phép đánh giá và báo cáo các thông tin theo 
một hình thức phù hợp cho tất cả các đối tượng quan 
tâm (bao gồm cả những nhà quản lý, cộng đồng không 
phải là chuyên gia môi trường nước) đến chất lượng 
môi trường nước vùng cửa sông. Việc phân vùng chất 
lượng nước theo WQI có hiệu quả cao về khoa học và 
kinh tế vì giúp cơ quan quản lý môi trường đánh giá 
về hiện trạng và diễn biến chất lượng nước trong toàn 
vùng; giúp chính quyền lựa chọn để giải quyết vấn đề 
ô nhiễm nước tại các khu vực trong vùng cửa sông bị ô 
nhiễm ở mức cao; tiết kiệm kinh phí so với các phương 
pháp đánh giá chất lượng nước truyền thống (phương 
pháp đánh giá chất lượng nước truyền thống là cần 
phải tiến hành quan trắc số lượng lớn với nhiều điểm, 
thông số và tần suất quan trắc).
Trên thế giới hiện nay tùy thuộc vào vị trí địa lý, 
điều kiện tự nhiên, hiện trạng chất lượng môi trường, 
hiện trạng quy định quản lý của mỗi vùng lãnh thổ, 
mỗi quốc gia mà có nhiều cách tiếp cận và xây dựng mô 
1 Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2 Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
3 Viện Tài nguyên và Môi trường biển - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
TÓM TẮT
Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước bằng chỉ số chất lượng nước (Water Quality Index - WQI) đã được 
thực hiện trong vùng biển ven bờ Hải Phòng vào mùa khô và mùa mưa năm 2019. Kết quả phân vùng cho 
thấy, chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng ở mức từ rất xấu cho đến rất tốt. Chất lượng nước biển 
mùa mưa thấp hơn mùa khô. Trong cả mùa khô và mùa mưa, các khu vực cửa sông Bạch Đằng, cửa sông Lạch 
Tray, cửa sông Văn Úc và cửa sông Thái Bình đều có chất lượng nước ở mức rất xấu lúc nước ròng (WQI từ 
19 đến 22) và mức xấu lúc nước lớn (WQI từ 43 đến 45). Vùng biển Cát Bà có chất lượng nước ở mức tốt và 
rất tốt (WQI từ 75 đến 99), tuy nhiên khu vực bến Bèo có chất lượng nước ở mức trung bình (WQI từ 62 đến 
73). Chất lượng nước tại khu vực vùng ngoài ở mức tốt và rất tốt (WQI từ 88 đến 99). 
Từ khóa: WQI, phân vùng, chất lượng nước, nước biển ven bờ.
Nhận bài: 25/2/2021; Sửa chữa: 19/3/2021; Duyệt đăng: 24/3/2021.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 61
hình WQI khác nhau, nhiều WQI đã được phát triển 
và áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới (Mỹ, Canađa, Bỉ, 
Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Thái Lan, Malaixia, Đài Loan). 
Một trong những bộ chỉ số nổi tiếng và được áp dụng 
rộng rãi trên thế giới là bộ chỉ số WQI-NSF (National 
Sanitation Foundation - Water Quality Index) của Quỹ 
vệ sinh Quốc gia Mỹ [1, 2, 3].
Tại Việt Nam, một số nhà khoa học đã đưa ra các 
dạng công thức tính WQI chủ yếu cho môi trường 
nước mặt. Đi đầu trong các công trình nghiên cứu này 
là Phạm Ngọc Hồ, Lê Trình và Tôn Thất Lãng[1]. Tổng 
cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban 
hành Sổ tay hướng dẫn tính toán WQI mặt lục địa theo 
Quyết định số 1460/QĐ-TCMT ngày 12/11/2019 [4]. 
Bên cạnh những nghiên cứu WQI áp dụng đánh giá 
chất lượng nước mặt, tại Việt Nam cũng đã có những 
nghiên cứu về WQI áp dụng cho đánh giá chất lượng 
nước đầm phá ven biển và vùng biển ven bờ, cụ thể 
có những nghiên cứu tiêu biểu sau: Phạm Ngọc Hồ 
(2011) đã xây dựng phương pháp đánh giá tổng hợp 
chất lượng nước (TWQI) có trọng số và quy chuẩn 
về một thông số, qua đó tác giả đã áp dụng phương 
pháp này để đánh giá chất lượng nước ven biển Thanh 
 ... u:
 3
4 3 4
0,440,22
0,09 0,09 0,08 0,08
.0,11 .0,11 .0,11 .0,11.0,10 .0,12W . . . . .
0, 22 0,44
CNH NO PODO COD
HP TSS dau Fe co
hlorophyll
liform
aq q q qq qQI q q q q
+ − − −+ + + + 
=        
Trong đó:
:DOq Chỉ số phụ của thông số DO
 :CODq Chỉ số phụ của thông số COD
4
:
NH
q  Chỉ số phụ của thông số NH4+
3
:
NO
q  Chỉ số phụ của thông số NO3-
 3
4
:
PO
q  Chỉ số phụ của thông số PO43-
 :Chlorophyll aq  Chỉ số phụ của thông số chlorophyll-a
 :TSSq Chỉ số phụ của thông số TSS
 :Dauq Chỉ số phụ của thông số dầu mỡ khoáng
 :Feq Chỉ số phụ của thông số Fe
 :Coliformq Chỉ số phụ của thông số coliform
Thang phân loại chất lượng nước theo WQI
Đánh giá chất lượng nước theo QCVN 10-MT:2015/
BTNMT (quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng 
nước biển) và thang phân loại chất lượng nước theo 
WQI. Thang phân cấp chất lượng nước biển (5 cấp) 
được trình bày trong bảng 3.
Bảng 3. Thang phân loại chất lượng nước biển ven bờ
TT WQI Chất lượng nước
1 99 - 100 Rất tốt
2 75 - 98 Tốt
3 50 - 74 Trung bình
4 25 - 49 Xấu
5 1 - 24 Rất xấu
biển không có sự biến động lớn và nằm trong giá trị 
giới hạn (GTGH) của quy chuẩn QCVN10-MT:2015/
BTNMT.
Giá trị COD trong nước biển ở vùng biển ven bờ 
Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ 1,2 đến 
9,5 mg/l, trung bình là 4,2 mg/l; vào mùa mưa, giá trị 
COD nằm trong khoảng từ 1,3 đến 13,3 mg/l, trung 
bình là 5,3 mg/l. 
Hàm lượng nitrat trong nước biển ở vùng biển ven 
bờ Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ 11,9 
đến 335,2 µg/l, trung bình là 139,1 µg/l; vào mùa mưa, 
hàm lượng nitrat nằm trong khoảng từ 20,6 đến 410,3 
µg/l, trung bình là 168,2 µg/l. 
Hàm lượng amoni trong nước biển ở vùng biển ven 
bờ Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ 19,9 
đến 170,1 µg/l, trung bình là 93,6 µg/l; vào mùa mưa, 
hàm lượng amoni trong nước biển ở vùng biển ven bờ 
Hải Phòng nằm trong khoảng từ 25,9 đến 253,9 µg/l, 
trung bình là 110,2 µg/l. 
Hàm lượng phosphat trong nước biển ở vùng biển 
ven bờ Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ 
5,02 đến 72,15 µg/l, trung bình là 29,11 µg/l; vào mùa 
mưa, hàm lượng phosphate nằm trong khoảng từ 7,12 
đến 102,37 µg/l, trung bình là 44,55 µg/l.
Hàm lượng chlorophyll-a trong nước biển ở vùng 
biển ven bờ Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng 
từ 0,5 đến 6,8 µg/l, trung bình là 3,4 µg/l; vào mùa mưa, 
hàm lượng chlorophyll-a nằm trong khoảng từ 0,8 đến 
11,3 µg/l, trung bình là 4,7 µg/l.
Hàm lượng dầu trong nước biển ở vùng biển ven bờ 
Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ "không 
phát hiện" đến 0,8 mg/l, trung bình là 0,2 mg/l; vào mùa 
mưa, hàm lượng dầu nằm trong khoảng từ "không phát 
hiện" đến 0,9 mg/l, trung bình là 0,2 mg/l.
Chỉ số coliform trong nước biển ở vùng biển ven bờ 
Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ 60 đến 
2830 CFU/100ml, trung bình là 765 CFU/100ml; vào 
mùa khô, chỉ số coliform nằm trong khoảng từ 130 đến 
3500 CFU/100ml, trung bình là 1087 CFU/100ml
Hàm lượng Fe trong nước biển ở vùng biển ven bờ 
Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ 0,24 
đến 0,75 mg/l, trung bình là 0,47 mg/l; vào mùa mưa, 
hàm lượng Fe nằm trong khoảng từ 0,26 đến 0,86 mg/l, 
trung bình là 0,56 mg/l.
Hàm lượng TSS trong nước biển ở vùng biển ven bờ 
Hải Phòng vào mùa khô nằm trong khoảng từ 7,3 đến 
129,4 mg/l, trung bình là 43,9 mg/l; vào mùa mưa, hàm 
lượng TSS nằm trong khoảng từ 9,7 đến 198,4 mg/l, 
trung bình là 64,0 mg/l.
Giá trị chất rắn lơ lửng, chất hữu cơ, chất dinh 
dưỡng, dầu mỡ khoáng, coliform, Fe trong nước khu 
vực Đông Bắc Đồ Sơn, Tây Nam Đồ Sơn và khu vực 
ven bờ huyện đảo Cát Hải (khu vực cảng cá, khu dân 
2.3. Phương pháp phân vùng chất lượng nước 
theo WQI
Vùng biển ven bờ Hải Phòng sẽ được phân ra thành 
các phân vùng chất lượng nước từ rất xấu đến rất tốt 
theo thang phân loại WQI cho vùng biển ven bờ Hải 
Phòng và được quy định bằng các màu khác nhau. 
Nghiên cứu sử dụng phần mềm Mapinfo Professional 
16 và phần mềm Arcgis để lập các bản đồ phân vùng 
chất lượng nước biển.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Chất lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng
Môi trường nước vùng biển ven bờ Hải Phòng có 
sự biến động chất lượng theo thời gian và theo không 
gian của từng thông số môi trường nước. Giá trị của các 
thông số hóa lý như nhiệt độ, pH, độ mặn và hàm lượng 
các kim loại nặng (Cu, Pb, Zn, Cd, As, Hg) trong nước 
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202164
cư và nơi có hoạt động tàu thuyền diễn ra mạnh) có 
xu hướng tăng lên, vượt quá GTGH theo quy chuẩn 
QCVN10-MT:2015/BTNMT và ảnh hưởng trực tiếp 
chất lượng nước các khu vực bảo tồn và nuôi trồng 
thủy sản. Do vậy, các vấn đề chất lượng nước cần quan 
tâm là ô nhiễm chất dinh dưỡng, chất hữu cơ, dầu mỡ, 
chất rắn lơ lửng, coliform, Fe. Giá trị của các thông số 
chất lượng nước trong mùa mưa thường cao hơn mùa 
khô do lượng mưa tăng cao trong thời gian này cuốn 
trôi nhiều chất thải đổ ra biển hơn mùa khô. Giá trị của 
các thông số chất lượng nước trong pha triều xuống 
(nước ròng) lớn hơn trong pha triều lên (nước lớn) do 
khu vực nghiên cứu chịu tác động của thủy triều với 
biên độ triều lớn nên trong pha triều xuống, dòng triều 
sẽ đưa nhiều chất ô nhiễm ven bờ ra biển.
3.2. Phân vùng chất lượng nước vùng biển ven bờ 
Hải Phòng
Kết quả tính toán WQIHP theo phương pháp trình bày 
ở trên được thống kê ở Bảng 4 và Bảng 5. Từ các giá trị 
WQI cho thấy, chất lượng nước toàn vùng biển ven bờ 
Hải Phòng dao động trong phạm vi rất rộng (ở mức từ 
rất xấu cho đến rất tốt). 
Kết quả phân vùng chất lượng nước cho thấy, chất 
lượng nước biển mùa mưa thấp hơn mùa khô. Trong mùa 
khô và mùa mưa, các khu vực cửa sông Bạch Đằng, cửa 
sông Lạch Tray, cửa sông Văn Úc và cửa sông Thái Bình 
đều có chất lượng nước ở mức rất xấu lúc nước ròng (WQI 
từ 19 đến 22) và mức xấu lúc nước lớn (WQI từ 43 đến 45). 
Vùng biển Cát Bà có chất lượng nước ở mức tốt và rất tốt 
(WQI từ 75 đến 99), tuy nhiên khu vực bến Bèo có chất 
lượng nước ở mức trung bình (WQI từ 62 đến 73). Chất 
lượng nước tại khu vực vùng ngoài ở mức tốt và rất tốt 
(WQI từ 88 đến 99). Về mùa mưa, vùng chất lượng nước 
rất xấu, xấu và trung bình có xu hướng mở rộng (vùng 
chất lượng nước tốt và rất tốt có xu hướng thu hẹp) so với 
mùa khô (từ hình 2 đến hình 5). Tác giả Nguyễn Thị Thế 
Nguyên (2014) đã phân vùng vịnh Hạ Long thành 5 phân 
khu chất lượng nước khác nhau (Các phân khu chất lượng 
nước tốt đến rất tốt (WQI = 92-100) chủ yếu nằm ở vùng 
lõi vịnh và phần đệm phía biển. Các phân khu chất lượng 
Bảng 4. Giá trị WQI tại các điểm khảo sát vùng biển ven bờ Hải Phòng trong mùa khô
Khu vực khảo sát Giá trị Nước ròng Nước lớn
WQI Chất lượng nước WQI Chất lượng nước
Đông Bắc Đồ Sơn 
(n=27)
Nhỏ nhất 22 Từ rất xấu đến tốt 44 Từ xấu đến tốt
Lớn nhất 88 92
Trung bình 57 79
Tây Nam Đồ Sơn 
(n= 12)
Nhỏ nhất 38 Từ xấu đến tốt 56 Từ trung bình đến 
tốtLớn nhất 86 92
Trung bình 63 78
Cát Bà (n=11) Nhỏ nhất 64 Từ trung bình đến 
tốt
65 Từ trung bình đến 
rất tốtLớn nhất 98 100
Trung bình 90 92
Vùng ngoài (n=7) Nhỏ nhất 90 Tốt 95 Từ tốt đến rất tốt
Lớn nhất 96 99
Trung bình 94 97
Bảng 5. Giá trị WQI tại các điểm khảo sát vùng biển ven bờ Hải Phòng trong mùa mưa
Khu vực khảo sát Giá trị Nước ròng Nước lớn
WQI Chất lượng nước WQI Chất lượng nước
Đông Bắc Đồ Sơn 
(n=27)
Nhỏ nhất 19 Từ rất xấu đến tốt 43 Từ xấu đến tốt
Lớn nhất 76 89
Trung bình 45 69
Tây Nam Đồ Sơn 
(n= 12)
Nhỏ nhất 21 Từ rất xấu đến 
trung bình
45 Từ xấu đến tốt
Lớn nhất 70 88
Trung bình 41 70
Cát Bà (n=11) Nhỏ nhất 62 Từ trung bình đến 
tốt
64 Từ trung bình đến 
rất tốtLớn nhất 98 99
Trung bình 89 90
Vùng ngoài (n=7) Nhỏ nhất 88 Tốt 94 Từ tốt đến rất tốt
Lớn nhất 97 99
Trung bình 93 97
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 65
nước trung bình, xấu và rất xấu (WQI = 27 - 91) nằm ở 
vùng phụ cận và vùng đệm phía đất liền) [1]. Chất lượng 
nước biển tại các khu vực nghiên cứu đều có xu thế tăng từ 
khu vực gần bờ ra đến ngoài phía biển. 
Ảnh hưởng của dao động mực nước đã làm tăng 
cường phát tán vật chất từ lục địa ra phía ngoài vùng ven 
biển Hải Phòng nhưng cũng làm hạn chế hay mang vật 
chất trở lại vùng cửa sông trong pha triều lên. Sự dịch 
chuyển của các khối nước về phía Nam - Tây Nam cho 
thấy sự di chuyển của các chất gây ô nhiễm về phía Nam 
vùng cửa sông ven biển Hải Phòng nhiều hơn về phía 
Bắc và Đông Bắc. Sự gia tăng của nguồn thải từ lục địa 
đã có tác động nhất định đến vùng cửa sông ven biển 
Hải Phòng. Những tác động đó mạnh hơn vào mùa mưa 
và tập trung nhiều ở gần các cửa Nam Triệu, Tây Nam 
Văn Úc và điểm nguồn thải ven bờ, còn khu vực ven biển 
phía Nam Cát Bà, Cát Hải và những khu vực khác bị ảnh 
hưởng ít (từ Hình 2 đến Hình 5).
Dựa vào kết quả phân vùng chất lượng nước vùng 
biển ven bờ Hải Phòng, có thể đề xuất mục đích sử dụng 
nước cho các phân vùng như sau: 
Vùng chất lượng nước rất tốt, khu vực này có thể sử 
dụng được cho tất cả mục đích sử dụng nước; hàm lượng 
các thông số môi trường nước biển đều thấp hơn giá trị 
giới hạn theo QCVN 10-MT:2015/BTNMT.
Vùng chất lượng nước tốt, khu vực này có thể sử 
dụng được cho tất cả mục đích sử dụng nước (ngoại 
trừ nuôi trồng một số loài hải sản yêu cầu chất lượng 
nước "rất tốt"). 
Vùng chất lượng nước trung bình, khu vực này có 
thể sử dụng cho hoạt động du lịch, giải trí, thể thao 
(không tiếp xúc trực tiếp với nước), hoạt động giao 
thông thủy và cảng biển. 
Vùng chất lượng nước xấu, khu vực này có thể sử 
dụng cho hoạt động giao thông thủy, cảng biển hay một 
số mục đích sử dụng nước khác (không yêu cầu cao về 
chất lượng nước). 
Vùng chất lượng nước rất xấu, khu vực này có thể sử 
dụng cho hoạt động giao thông thủy và cảng biển; vùng 
chất lượng nước này đã bị ô nhiễm bởi dầu, chất dinh 
dưỡng, COD, Chl-a, TSS, Fe và coliform ở mức cao. 
4. Kết luận 
Giá trị chất rắn lơ lửng, chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, 
dầu mỡ khoáng, coliform, Fe trong nước khu vực Đông 
Bắc Đồ Sơn, Tây Nam Đồ Sơn và khu vực ven bờ huyện 
đảo Cát Hải (khu vực cảng cá, khu dân cư và nơi có 
hoạt động tàu thuyền diễn ra mạnh) có xu hướng tăng 
lên, vượt quá giá trị giới hạn theo quy chuẩn QCVN10-
MT:2015/BTNMT và ảnh hưởng trực tiếp chất lượng 
nước các khu vực bảo tồn và nuôi trồng thủy sản. Kết 
quả WQI và phân vùng chất lượng nước cho thấy, chất 
lượng nước vùng biển ven bờ Hải Phòng ở mức từ rất 
xấu cho đến rất tốt. Chất lượng nước biển mùa mưa thấp 
hơn mùa khô. Trong mùa khô và mùa mưa, các khu vực 
cửa sông Bạch Đằng, cửa sông Lạch Tray, cửa sông Văn 
Úc và cửa sông Thái Bình đều có chất lượng nước ở mức 
rất xấu lúc nước ròng (WQI từ 19 đến 22) và mức xấu lúc 
nước lớn (WQI từ 43 đến 45). Vùng biển Cát Bà có chất 
lượng nước ở mức tốt và rất tốt (WQI từ 75 đến 99), tuy 
nhiên khu vực bến Bèo có chất lượng nước ở mức trung 
bình (WQI từ 62 đến 73). Chất lượng nước tại khu vực 
vùng ngoài ở mức tốt và rất tốt (WQI từ 88 đến 99). Về 
mùa mưa, vùng chất lượng nước rất xấu, xấu và trung 
bình có xu hướng mở rộng (vùng chất lượng nước tốt và 
rất tốt có xu hướng thu hẹp) so với mùa khô■
▲Hình 2. Kết quả phân vùng 
chất lượng nước vùng biển ven 
bờ Hải Phòng (mùa khô - nước 
ròng)
▲Hình 3. Kết quả phân 
vùng chất lượng nước vùng 
biển ven bờ Hải Phòng (mùa 
khô - nước lớn)
▲Hình 4. Kết quả phân vùng 
chất lượng nước vùng biển ven 
bờ Hải Phòng (mùa mưa - 
nước ròng)
▲Hình 5. Kết quả phân 
vùng chất lượng nước vùng 
biển ven bờ Hải Phòng (mùa 
mưa - nước lớn)
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202166
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thế Nguyên, 2014. Nghiên cứu phân vùng 
chất lượng nước vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và đề 
xuất giải pháp quản lý và sử dụng. Luận án tiến sĩ khoa 
học môi trường, trường Đại học Khoa học Tự nhiên - 
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
2. Nguyễn Lê Tú Quỳnh, 2015. Nghiên cứu xây dựng WQI 
(water quality index - WQI) trong phân vùng chất lượng 
nước các sông trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Luận án 
tiến sỹ khoa học môi trường. Trường đại học Khoa học 
Tự nhiên - Đại học Quốc Gia Hà Nội. 
3. Ram Pal Singh et al., 2008. Selection of Suitable 
Aggregation Function for Estimation of Aggregate 
Pollution Index for River Ganges in India. Journal of 
Environmental Engineering, Volume 134(8), pages 689–
701. 
4. Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường, 
2019. Quyết định Số: 1460/QĐ-TCMT ngày 12 tháng 11 
năm 2019, Về việc ban hành Hướng dẫn kỹ thuật tính 
toán và công bố WQI Việt Nam (VN_WQI), Hà Nội.
5. Phạm Ngọc Hồ, 2011. Phương pháp đánh giá tổng hợp 
chất lượng nước có trọng số và quy chuẩn về một thông 
số. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và 
Công nghệ 27, Số 5S (2011) 112-119. 
6. Phạm Hữu Tâm, 2016. Áp dụng WQI để đánh giá chất 
lượng môi trường tại các trạm quan trắc môi trường 
biển phía Nam Việt Nam trong 5 năm gần đây (2011-
2015). Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái 
đất và Môi trường, Tập 32, Số 4 (2016) 36-45. 
7. Trương Văn Đàn và nnk, 2018. Xây dựng WQI đầm 
phá Tam Giang - Cầu Hai phụ vụ hoạt động nuôi tôm. 
Tap chí Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (Bộ Nông 
nghiệp và Phát triển Nông thôn), số 15/2018, trang 94 - 
102. 
8. APHA (2017), Standard Methods for the examination of 
water and wastewater, 23th Edition.
9. Trần Thị Yên, Nguyễn Thị Thanh Thùy, 2019. Sử dụng 
WQI hiệu chỉnh để đánh giá chất lượng nước biển ven 
bờ tại biển Cửa Phú, Đồng Hới, Quảng Bình. Kỷ yếu Hội 
nghị Khoa học Địa lý toàn Quốc lần thứ XI năm 2019. 
Nhà xuất bản Thanh Niên, tháng 4 năm 2019. 
10. US Environmental Protection Agency, 1978. Water 
Quality Indices: A survey of indices used in the United 
States, U.S. Environmental Protection Agency, U.S.pp.
THE FIRST STEP OF WATER QUALITY ZONING IN HAI PHONG 
COASTAL AREA BY WATER QUALITY INDEX
Le Van Nam
 Graduate University of Sciences and Technology - Vietnam Academy of Science and Technology
Dang Kim Chi
Vietnam association for conservation of nature and environment
Le Xuan Sinh, Nguyen Thi Thu Ha
Institute of marine environment and resources - Vietnam Academy of Science and Technology
ABSTRACT
Research on water quality zoning by water quality index (WQI) was taken in coastal areas of Hai Phong in the 
dry and rainy seasons in 2019. The zoning results show that the water quality of the coastal waters of Hai Phong 
ranges from very poor to excellent. During the dry and wet seasons, the areas of Bach Dang estuary, Lach Tray 
estuary, Van Uc estuary and Thai Binh estuary all had very poor water quality during low water (WQI from 19 to 
22) and poor at high water (WQI from 43 to 45). The Cat Ba waters had good and very good water quality (WQI 
from 75 to 99), however the Ben Beo area had medium water quality (WQI from 62 to 73). The water quality in the 
outlying area was good and very good (WQI from 88 to 99).
Key words: WQI, zoning, water quality, coastal seawater.

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_phan_vung_chat_luong_nuoc_vung_bien_ven_bo_hai_phon.pdf