Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng

Một số nghiên cứu cho thấy folate receptor alpha (FRA) biểu hiện cao ở các khối u buồng trứng ác tính có

nguồn gốc biểu mô. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài với 2 mục tiêu chính là xác định nồng độ của folate

receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng và khảo sát mối liên quan, tương

quan giữa nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh, phân loại mô bệnh

học và giai đoạn bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang khảo sát 26 bệnh nhân ung

thư biểu mô buồng trứng và 56 bệnh nhân có khối u buồng trứng lành tính. Các đối tượng này được tiến

hành đo nồng độ folate receptor alpha huyết thanh, nồng độ CA125 huyết thanh, kết hợp với các thông tin

lâm sàng, cận lâm sàng. Kết quả: Trung vị nồng độ FRA huyết thanh của nhóm bệnh nhân ung thư biểu mô

buồng trứng cao hơn rất nhiều so với nhóm có u buồng trứng không phải ung thư rất có ý nghĩa thống kê

(1683,0 so với 6,1, p < 0,001) Với điểm cắt > 209,8pg/mL, xét nghiệm folate receptor alpha huyết thanh có

giá trị chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng với độ nhạy Se = 84,6%, độ đặc hiệu Sp = 98,2%, giá trị chẩn

đoán dương tính PPV = 95,65%, giá trị chẩn đoán âm tính NPV = 93,22%, AUC = 0,978. Có sự liên quan, tương

quan giữa nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh, phân độ mô học và

giai đoạn bệnh. Kết luận: Folate receptor alpha huyết thanh là một chỉ điểm sinh học mới tiềm năng để gợi ý

giúp chẩn đoán ung thư buồng trứng.

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 1

Trang 1

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 2

Trang 2

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 3

Trang 3

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 4

Trang 4

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 5

Trang 5

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 6

Trang 6

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 7

Trang 7

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 10400
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng

Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng
24
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở 
bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng
Dương Thị Bích Thuận1, Hoàng Thị Lan2, Hoàng Anh Dũng1, Nguyễn Đông Hải1
(1) Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam
Tóm tắt
Một số nghiên cứu cho thấy folate receptor alpha (FRA) biểu hiện cao ở các khối u buồng trứng ác tính có 
nguồn gốc biểu mô. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài với 2 mục tiêu chính là xác định nồng độ của folate 
receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng và khảo sát mối liên quan, tương 
quan giữa nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh, phân loại mô bệnh 
học và giai đoạn bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang khảo sát 26 bệnh nhân ung 
thư biểu mô buồng trứng và 56 bệnh nhân có khối u buồng trứng lành tính. Các đối tượng này được tiến 
hành đo nồng độ folate receptor alpha huyết thanh, nồng độ CA125 huyết thanh, kết hợp với các thông tin 
lâm sàng, cận lâm sàng. Kết quả: Trung vị nồng độ FRA huyết thanh của nhóm bệnh nhân ung thư biểu mô 
buồng trứng cao hơn rất nhiều so với nhóm có u buồng trứng không phải ung thư rất có ý nghĩa thống kê 
(1683,0 so với 6,1, p 209,8pg/mL, xét nghiệm folate receptor alpha huyết thanh có 
giá trị chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng với độ nhạy Se = 84,6%, độ đặc hiệu Sp = 98,2%, giá trị chẩn 
đoán dương tính PPV = 95,65%, giá trị chẩn đoán âm tính NPV = 93,22%, AUC = 0,978. Có sự liên quan, tương 
quan giữa nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh, phân độ mô học và 
giai đoạn bệnh. Kết luận: Folate receptor alpha huyết thanh là một chỉ điểm sinh học mới tiềm năng để gợi ý 
giúp chẩn đoán ung thư buồng trứng.
Từ khóa: folate receptor alpha huyết thanh, ung thư biểu mô buồng trứng.
Abstract
Serum folate receptor alpha levels in patients of epithelial ovarian 
carcinoma
Duong Thi Bich Thuan1, Hoang Thi Lan2, Hoang Anh Dung1, Nguyen Dong Hai1
(1) Hue Univeristy of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Quang Nam Central General Hospital
High expression of FRA is observed in malignant epithelial ovarian tumors. This study is aimed to 
determine of serum folate receptor alpha levels in patients of epithelial ovarian carcinoma and to investigate 
the relationship between serum folate receptor alpha levels and serum CA125 levels and histopathological 
characteristics in patients of epithelial ovarian carcinoma. Materials and methods: Cross-sectional study was 
conducted on 26 patients with epithelial ovarian carcinoma and 56 patients with benign ovarian tumors. 
The subjects’ blood was collected to measure serum folate receptor alpha levels and serum CA125 levels. 
Information of clinical and subclinical characteristics were collected. Results: Median of serum folate receptor 
alpha levels in patients of epithelial ovarian carcinoma is higher than those with benign ovarian tumors 
(1683,0 compared with) 6.1, p 209.8 pg/mL, serum folate receptor alpha 
test has the diagnostic value of epithelial ovarian carcinoma with Se = 84.6%, Sp = 98.2%, PPV = 95, 65%, 
NPV = 93.22%, AUC = 0.978. Levels of serum alpha folate receptor were highly correlated to levels of serum 
CA125, tumor grade, and clinical stage of the disease. Conclusions: We suggest that serum alpha folate 
receptor is a highly promising biomarker for epithelial ovarian carcinoma. 
Key words: serum folate receptor alpha, epithelial ovarian carcinoma.
Địa chỉ liên hệ: Dương Thị Bích Thuận, email: duongthuan@huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2020.5.4
Ngày nhận bài: 11/9/2020; Ngày đồng ý đăng: 29/10/2020
25
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư buồng trứng là một trong các bệnh lý ác 
tính phổ biến trong các bệnh ung thư phụ khoa với 
tỷ lệ tử vong cao vì các triệu chứng không dễ dàng 
phát hiện ở giai đoạn sớm [3], [8]. Kháng nguyên 
ung thư 125 (CA125) là chỉ điểm ung thư phổ biến 
và kinh điển nhất để phát hiện và theo dõi ung thư 
buồng trứng. Tuy nhiên, một trong những hạn chế 
của CA125 là độ nhạy thấp ở giai đoạn I của ung 
thư biểu mô buồng trứng nên không giúp ích trong 
việc phát hiện sớm [6]. Chất chỉ điểm này cũng tăng 
trong các loại ung thư khác và các bệnh lý lành tính 
của buồng trứng. Giá trị tiên đoán dương tính của 
CA125 chỉ khoảng 10% trong giai đoạn đầu của bệnh 
[2]. Vì vậy, việc tìm ra một chỉ điểm sinh học mới hiệu 
quả hơn trong việc chẩn đoán sớm và giúp phân biệt 
trường hợp dương tính giả khác là cần thiết. Folate 
receptor alpha là những protein màng liên kết với 
glycosyl-phosphatidylinositol có trọng lượng phân 
tử 38-40 kDa. Một số nghiên cứu cho thấy biểu hiện 
folate receptor alpha cao được quan sát thấy ở các 
khối u ác tính có nguồn gốc biểu mô, bao gồm cả ung 
thư buồng trứng nhưng lại biểu hiện rất hạn chế ở 
các tế bào bìn ...  93,22 (83,06 – 96,11)
Ghi chú: AUC: diện tích dưới đường cong ROC; KTC 95%: khoảng tin cậy 95%
Điểm cắt: > 209,8 (pg/mL)
AUC = 0,978
27
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
Với điểm cắt tối ưu của FRA huyết thanh > 209,8 pg/mLcho độ nhạy và độ đặc hiệu tối ưu (84,6% và 98,2%) và 
diện tích dưới đường cong là AUC = 0,978, p < 0,001. Giá trị tiên đoán dương 95,65%, giá trị tiên đoán âm 93,22%.
3.1.4. Khảo sát giá trị của nồng độ FRA huyết thanh và nồng độ CA125 huyết thanh trong chẩn đoán ung thư 
biểu mô buồng trứng
Biểu đồ 2. Đường cong ROC tương ứng với xét nghiệm FRA huyết thanh và CA125 huyết thanh
 trong chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng.
Bảng 3. So sánh giá trị diện tích dưới đường cong ROC của FRA huyết thanh và CA125 huyết thanh trong 
chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng 
Xét nghiệm chẩn đoán AUC Giá trị p KTC 95%
FRA 0,978 p < 0,001 0,953 - 1,000
CA125 0,956 p < 0,001 0,902 - 1,000
FRA huyết thanh có diện tích dưới đường cong ROC (AUC = 0,978) cao hơn CA125 huyết thanh (AUC = 0,956)
3.2. Tương quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh ở nhóm ung thư biểu 
mô buồng trứng
r
s: 
Hệ số tương quan spearman
Biểu đồ 3. Tương quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh (n = 26)
Có sự tương quan thuận khá chặt chẽ giữa nồng độ FRA huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh (r
s
= 0,665; p < 0,001)
28
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
3.3. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân loại mô bệnh học
Bảng 4. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân loại mô bệnh học
Phân loại
mô bệnh học
FRA huyết thanh (pg/mL)
Trung vị< 209,8 ≥ 209,8
n % n %
Ung thư biểu mô 4 6,9 22 91,6 1683,0
U nang thanh dịch 16 27,6 0 0,0 3,55
U nang nhầy 1 1,7 0 0,0 -
U nang bì 24 41,4 1 4,2 5,90
U buồng trứng lành tính 13 22,4 1 4,2 12,15
Tổng 58 100,0 24 100,0 22,4
Giá trị p p < 0,001 K-W X2 = 50,978
p < 0,001*
*Giá trị p được tính sau khi loại bỏ trường hợp U nang nhầy.
Trong nhóm ung thư biểu mô, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ FRA huyết thanh ≥ 209,8 pg/mL cao hơn bệnh 
nhân có nồng độ FRA huyết thanh < 209,8 pg/mL.
Trung vị của nhóm ung thư biểu mô cao hơn nhiều so với các nhóm khác, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê. Do vậy có sự liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân loại mô bệnh học.
3.4. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân độ của FIGO
Bảng 5. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân độ của FIGO
FIGO
FRA huyết thanh (pg/mL)
Trung vị
(pg/mL)< 209,8 ≥ 209,8
n % n %
Giai đoạn II 1 25,0 3 13,6 296,0
Giai đoạn III 2 50,0 12 54,6 2715,0
Giai đoạn IV 1 25,0 7 31,8 1683,0
Tổng 4 100,0 22 100,0 1683,0
Kiểm định
p = 0,563* K-W X2 = 6,961
p = 0,041
* Fisher’s exact test; K-W X2: Kruskal Wallis Chisquare
Không có trường hợp ung thư nào ở giai đoạn I
UTBMBT giai đoạn III có giá trị trung vị FRA cao nhất 2715pg/mL, cao hơn so với giai đoạn II, IV. Sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Bệnh nhân giai đoạn IV có giá trị trung vị FRA là 1683pg/mL, cao hơn so với giai 
đoạn II là 296 pg/mL. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nhóm bệnh nhân có nồng độ FRA ≥ 209,8 pg/
mL chiếm tỷ lệ cao thuộc giai đoạn III, IV.
4. BÀN LUẬN
4.1. Nồng độ FRA huyết thanh, xác định điểm 
cắt, đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu của FRA huyết 
thanh tương ứng với điểm cắt
Dựa vào phần mềm xử lý đường cong ROC và 
tính diện tích đường cong AUC, chúng tôi chọn điểm 
cắt của FRA huyết thanh. Biểu đồ 1 cho thấy đường 
cong ROC mô tả giá trị FRA huyết thanh xác định ung 
thư biểu mô buồng trứng có AUC = 0,978. Với điểm 
cắt FRA huyết thanh > 209,8 pg/mL cho độ nhạy và 
độ đặc hiệu (so với nhóm so sánh) là tối ưu (84,6% 
và 98,2%). Điều này chứng tỏ FRA huyết thanh là 
một chất chỉ điểm rất tốt trong chẩn đoán ung thư 
biểu mô buồng trứng. 
Dựa vào kết quả nghiên cứu ở bảng 1, nồng độ 
FRA huyết thanh lớn nhất là 11100 pg/mL trong 
nhóm ung thư biểu mô buồng trứng, cao hơn nhiều 
so với nhóm so sánh là 286 pg/mL.
Giá trị trung vị của FRA huyết thanh của nhóm 
ung thư biểu mô buồng trứng là 1683 pg/mL, cao 
29
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm so sánh với giá 
trị trung vị FRA huyết thanh là 6,1 pg/mL (p < 0,001).
Trong nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự, 
nồng độ FRA huyết thanh trung bình của bệnh nhân 
ung thư biểu mô buồng trứng ở nhóm độ tuổi dưới 
60 là (4504,2 ± 7663,9) pg/mL, ở nhóm ≥ 60 tuổi là 
(5316,1 ± 7869,1) pg/mL đều cao hơn so với nghiên 
cứu của chúng tôi với giá trị trung vị 1886 pg/mL (do 
nghiên cứu của chúng tôi nồng độ FRA là phân phối 
không chuẩn nên dùng giá trị trung vị thay cho giá 
trị trung bình) [2]
Như vậy có thể thấy giá trị điểm cắt, giá trị trung 
vị nồng độ FRA huyết thanh ở bệnh nhân ung thư 
biểu mô buồng trứng theo nghiên cứu của chúng tôi 
thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Akira Kurosaki 
và cộng sự. Nguyên nhân khách quan có thể do 
nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự thực hiện 
trên người nước ngoài nên hằng số sinh học sẽ thay 
đổi so với người Việt Nam. Cỡ mẫu nghiên cứu của 
chúng tôi nhỏ hơn rất nhiều lần (n = 26), nồng độ 
FRA huyết thanh phân phối không chuẩn, cũng là 
nguyên nhân khiến cho kết quả của chúng tôi khác 
với nghiên cứu của Akira Kurosaki với cỡ mẫu lên tới 
231 bệnh.
Tuy nhiên, nhận thấy rằng trong cả hai nghiên 
cứu đều cho kết quả diện tích dưới đường cong 
AUC khá cao (0,978 và 0,79), độ nhạy, độ đặc hiệu, 
giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm đều 
cao, điều này gợi ý rằng FRA huyết thanh rất có giá 
trị trong chẩn đoán và tầm soát ung thư biểu mô 
buồng trứng.
Theo nghiên cứu của tác giả Daniel J O’Shannessy 
và cộng sự (2013) trên 258 phụ nữ bị ung thư biểu 
mô buồng trứng và 60 phụ nữ bình thường cùng lứa 
tuổi làm nhóm chứng, tất cả bệnh nhân đều được 
lấy mẫu máu trước mổ và tiến hành đo nồng độ 
FRA huyết thanh, nồng độ trung bình của FRA huyết 
thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng 
là (1680 ± 5870) pg/mL cao hơn nhiều so với nhóm 
chứng là (341 ± 122) pg/mL. Qua phân tích đường 
cong ROC cho kết quả diện tích dưới đường cong 
AUC = 0,80 (p < 0,0001), điều này cũng gợi ý rằng 
FRA có tiềm năng đáng kể như là một dấu ấn sinh 
học cho ung thư biểu mô buồng trứng [7].
Theo nghiên cứu của tác giả F. Leung và cộng 
sự (2013) trên 100 phụ nữ bị ung thư buồng trứng, 
100 phụ nữ có u lành buồng trứng, 100 phụ nữ 
khỏe mạnh, qua phân tích đường cong ROC cho 
kết quả diện tích dưới đường cong AUC = 0,87 (so 
sánh 100 phụ nữ khỏe mạnh với 100 phụ nữ bị ung 
thư buồng trứng) và AUC = 0,85 (so sánh 100 phụ 
nữ bị u lành buồng trứng với 100 phụ nữ bị ung 
thư buồng trứng), điều này mở ra một triển vọng 
FRA là một dấu ấn sinh học mới cho ung thư buồng 
trứng [5].
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi và một số 
tác giả ngoài nước đã cho thấy rằng FRA là chỉ điểm 
sinh học mới, rất có giá trị trong chẩn đoán và tầm 
soát ung thư biểu mô buồng trứng. Tuy nhiên, hiện 
nay vẫn còn ít nghiên cứu để có thể khẳng định chắc 
chắn giá trị của FRA huyết thanh trong chẩn đoán và 
tầm soát bệnh UTBMBT tốt hơn so với CA125 huyết 
thanh. Trong tương lai cần có nhiều nghiên cứu hơn 
nữa đi sâu hơn vào vấn đề này.
4.2. Khảo sát giá trị của nồng độ FRA huyết 
thanh và nồng độ CA125 huyết thanh trong chẩn 
đoán ung thư biểu mô buồng trứng
Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3, FRA huyết 
thanh có giá trị rất tốt (AUC > 0,9) giúp chẩn đoán 
phân biệt ung thư biểu mô buồng trứng và khối u 
buồng trứng lành tính, trong đó FRA huyết thanh 
có diện tích dưới đường cong AUC = 0,978 cao hơn 
so với CA125 huyết thanh với AUC = 0,956 nên giá 
trị chẩn đoán của FRA huyết thanh cao hơn CA125 
huyết thanh.
Nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự (2016) 
cũng cho kết quả tương tự, phân tích đường cong 
ROC thể hiện giá trị AUC của FRA huyết thanh (0,79) 
cao hơn so với giá trị AUC của CA125 huyết thanh 
(0,78). Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương 
tính, giá trị tiên đoán âm tính của FRA huyết thanh 
tương ứng là 59,4%, 97,9%, 97,4%, 63,6% đều cao 
hơn CA125 huyết thanh với các giá trị tương ứng là 
58,6%, 89,3%, 88,2%, 61% [2].
4.3. Tương quan giữa nồng độ FRA huyết thanh 
với nồng độ CA125 huyết thanh ở nhóm ung thư 
biểu mô buồng trứng.
Chất chỉ điểm sinh học CA125 huyết thanh được 
phát hiện vào năm 1981 và trở thành cột mốc quan 
trọng trong lộ trình phát triển phương pháp tiếp cận 
không xâm lấn và sinh hóa để chẩn đoán UTBMBT. 
Trong thực tế, đo CA125 có một số hạn chế lâm 
sàng, bởi vì nồng độ CA125 huyết thanh tăng cao 
chỉ được quan sát thấy trong ít hơn một nửa số 
bệnh nhân UTBMBT giai đoạn sớm và khoảng 80% 
bệnh nhân UTBMBT. Ngoài ra, nồng độ CA125 trong 
huyết thanh có thể bị ảnh hưởng bởi các rối loạn 
phụ khoa lành tính thông thường như bệnh u xơ tử 
cung, lạc nội mạc tử cung và bệnh viêm vùng chậu, 
phổ biến hơn ở phụ nữ tiền mãn kinh. Do đó, đã có 
một nhu cầu cấp bách cho sự phát triển của một 
chất chỉ điểm sinh học mới với độ chính xác cao hơn 
[4]. Theo nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự 
(2016), phân tích đường cong ROC thể hiện giá trị 
AUC của FRA huyết thanh (0,79) cao hơn so với giá 
trị AUC của CA125 huyết thanh (0,78). Độ nhạy, độ 
30
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương tính, giá trị tiên 
đoán âm tính của FRA huyết thanh tương ứng là 
59,4%, 97,9%, 97,4%, 63,6% đều cao hơn CA125 
huyết thanh với các giá trị tương ứng là 58,6%, 
89,3%, 88,2%, 61% [2]. Theo nghiên cứu của chúng 
tôi, dựa vào biểu đồ 2 nhận thấy có sự tương quan 
thuận khá chặt chẽ giữa nồng độ FRA huyết thanh 
với nồng độ CA125 huyết thanh thanh (r
s
 = 0,665; p 
< 0,001), chứng tỏ xét nghiệm FRA huyết thanh cũng 
có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi ung thư biểu 
mô buồng trứng. Điều này gợi ý trên lâm sàng nếu 
gặp bệnh nhân có khối u buồng trứng thì có thể chỉ 
định đồng thời hai xét nghiệm này để làm tăng giá 
trị chẩn đoán.
4.4. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết 
thanh với phân loại mô bệnh học.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, ở bảng 3, trong 
nhóm ung thư biểu mô, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ 
FRA huyết thanh > 209,8 pg/mL cao hơn bệnh nhân 
có nồng độ FRA huyết thanh < 209,8 pg/mL. 
Theo nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự, 
ung thư buồng trứng không phải biểu mô cho nồng 
độ FRA huyết thanh ở mức rất thấp so với ung thư 
biểu mô [2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm 
bệnh chỉ có ung thư biểu mô buồng trứng, giá trị 
trung vị FRA huyết thanh của nhóm ung thư biểu mô 
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các khối u khác (p 
< 0,001). Do vậy, có sự liên quan giữa nồng độ FRA 
huyết thanh với phân loại mô bệnh học. Tuy nhiên, để 
khẳng định vấn đề này là đúng thì cần những nghiên 
cứu sâu hơn với cỡ mẫu lớn hơn.
4.5. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh 
với phân độ của FIGO.
Ở bảng 4, bệnh nhân ung thư biểu mô buồng 
trứng giai đoạn III, IV có giá trị trung vị FRA lần lượt 
là 2715 pg/mL, 1683 pg/mL cao hơn so với giai đoạn 
II là 296,0 pg/mL. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,05). Nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh 
nhân UTBMBT giai đoạn I vì vậy chưa thể khảo sát 
được giá trị chẩn đoán sớm ở bệnh nhân UTBMBT 
giai đoạn này.
Kết quả của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên 
cứu của Akira Kurosaki và Daniel J O’Shannessy.
Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ 
FRA huyết thanh tăng ở giai đoạn III và IV cao hơn 
nhiều so với giai đoạn III. Điều đó phần nào chứng 
tỏ nồng độ FRA huyết thanh có mối liên quan với giai 
đoạn bệnh: bệnh nhân thuộc giai đoạn càng muộn 
nồng độ FRA huyết thanh càng cao. 
Tuy nhiên, vì hạn chế của đề tài là số lượng mẫu 
nghiên cứu nhỏ (n = 26) nên kết quả có thể chưa phản 
ánh một cách toàn diện và cần có những nghiên cứu 
với cỡ mẫu lớn hơn để khẳng định thêm về giá trị của 
xét nghiệm folate receptor alpha trong chẩn đoán, 
tiên lượng, và theo dõi bệnh. 
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 82 bệnh nhân, trong đó 26 bệnh 
nhân ung thư biểu mô buồng trứng và 56 bệnh nhân 
có khối u buồng trứng lành tính, chúng tôi rút ra 
được một số kết luận sau:
- Giá trị trung vị của folate receptor alpha huyết 
thanh nhóm ung thư biểu mô buồng trứng là 1683 
pg/mL cao hơn nhiều so với nhóm bệnh nhân u lành 
buồng trứng là 6,1 pg/mL.
- Với điểm cắt folate receptor alpha huyết thanh 
>209,8 pg/mL, xét nghiệm folate receptor alpha 
huyết thanh có giá trị chẩn đoán ung thư biểu mô 
buồng trứng với độ nhạy, độ đặc hiệu rất cao, tương 
ứng là 84,6%, 98,2%, giá trị tiên đoán dương 95,65%, 
giá trị tiên đoán âm 93,22 % và diện tích dưới đường 
cong là AUC = 0,978.
- Có sự tương quan thuận khá chặt chẽ giữa 
nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng 
độ CA125 huyết thanh (r
s
 = 0,665; p < 0,001).
- Có sự liên quan giữa nồng độ folate receptor 
alpha huyết thanh với phân loại mô bệnh học và giai 
đoạn bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Văn Đức (2011), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng 
và một số giá trị xét nghiệm trong chẩn đoán và theo 
dõi điều trị ung thư buồng trứng, Luận án Tiến sĩ Y học, 
Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Akira Kurosaki, Hasegawa Kosei, Kato Tomomi et al 
(2016), “Serum folate receptor alpha as a biomarker for 
ovarian cancer: Implications for diagnosis, prognosis and 
predicting its local tumor expression”, International Jour-
nal of Cancer. 138(8), pp.1994-2002.
3. Dong X, X Men, W Zhang et al (2014), “Advances 
in tumor markers of ovarian cancer for early diagnosis”, 
Indian journal of cancer. 51(7), pp.72.
4. Kim Yun Hwan, Seung Cheol Kim (2011), “Recent 
advances in the biomarkers for epithelial ovarian cancer”, 
Journal of gynecologic oncology. 22(4), pp.219-221.
5. Leung F, A Dimitromanolakis, Hiroshi Kobayashi et 
al (2013), “Folate-receptor 1 (FOLR1) protein is elevated in 
the serum of ovarian cancer patients”, Clinical biochemis-
31
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020
try. 46(15), pp.1462-1468.
6. Moss EL, J HollingworthandTM Reynolds (2005), 
“The role of CA125 in clinical practice”, Journal of clinical 
pathology. 58(3), pp.308-312.
7. O’Shannessy Daniel J, Elizabeth B Somers, Leslie M 
Palmer et al (2013), “Serum folate receptor alpha, meso-
thelin and megakaryocyte potentiating factor in ovarian 
cancer: association to disease stage and grade and com-
parison to CA125 and HE4”, Journal of Ovarian Research. 
6(1), pp.29.
8. Van Calster Ben, Kirsten Van Hoorde, Lil Valentin 
et al (2014), “Evaluating the risk of ovarian cancer before 
surgery using the ADNEX model to differentiate between 
benign, borderline, early and advanced stage invasive, 
and secondary metastatic tumours: prospective multi-
centre diagnostic study”, BMJ. 349, pp.2-4.

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_nghien_cuu_nong_do_folate_receptor_alpha_huyet_than.pdf