Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018

Mục tiêu: Trẻ nhỏ so với tuổi thai (SGA) được định nghĩa là trẻ sinh ra có cân nặng và hoặc chiều dài nhỏ

hơn 2 độ lệch chuẩn (2sd) so với cân nặng và hoặc chiều cao trung bình theo tuổi và giới. Một phần nhỏ trẻ SGA

sẽ không bắt kịp đà tăng trưởng và có chiều cao thấp lùn khi trưởng thành. Hormone tăng trưởng (GH) được

chứng minh an toàn và có hiệu quả trong việc cải thiện chiều cao ở những trẻ này và kết quả cuối cùng là cải

thiện chiều cao lúc trưởng thành.

Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo 3 ca.

Kết quả: Chúng tôi theo dõi và điều trị 3 trường hợp trẻ SGA với GH liều thấp (35mcg/kg/ngày) trong

vòng 6 tháng đến 3 năm. Tuổi bắt đầu điều trị khá sớm từ 2,3 đến 4,5 tuổi. Cả 3 trường hợp đều có sds cân nặng

lúc sanh < -2 và sds chiều cao lúc bắt đầu điều trị < -3. Sau điều trị, chiều cao cải thiện rõ rệt ở cả 3 trường hợp,

với ∆sd chiều cao = 0.94 (0.34-1.43). Báo cáo cũng cho thấy chiều cao trung bình ba mẹ và tuổi bắt đầu điều trị

cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị.

Kết luận: GH liều thấp bước đầu cho thấy hiệu quả và an toàn trên bệnh nhân SGA được điều trị sớm. Liều

GH khởi đầu nên dựa trên tiên lượng đáp ứng điều trị của từng cá nhân cụ thể. Bên cạnh đó, việc sử dụng GH

cần cân nhắc giữa hiệu quả và chi phí điều trị.

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018 trang 1

Trang 1

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018 trang 2

Trang 2

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018 trang 3

Trang 3

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018 trang 4

Trang 4

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018 trang 5

Trang 5

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018 trang 6

Trang 6

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018 trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 12900
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng Growth hormon tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2017-2018
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 190
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SGA 
BẰNG GROWTH HORMON TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 2017-2018: 
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP 
Nguyễn Hiếu Trung*, Trần Thị Bích Huyền* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Trẻ nhỏ so với tuổi thai (SGA) được định nghĩa là trẻ sinh ra có cân nặng và hoặc chiều dài nhỏ 
hơn 2 độ lệch chuẩn (2sd) so với cân nặng và hoặc chiều cao trung bình theo tuổi và giới. Một phần nhỏ trẻ SGA 
sẽ không bắt kịp đà tăng trưởng và có chiều cao thấp lùn khi trưởng thành. Hormone tăng trưởng (GH) được 
chứng minh an toàn và có hiệu quả trong việc cải thiện chiều cao ở những trẻ này và kết quả cuối cùng là cải 
thiện chiều cao lúc trưởng thành. 
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo 3 ca. 
Kết quả: Chúng tôi theo dõi và điều trị 3 trường hợp trẻ SGA với GH liều thấp (35mcg/kg/ngày) trong 
vòng 6 tháng đến 3 năm. Tuổi bắt đầu điều trị khá sớm từ 2,3 đến 4,5 tuổi. Cả 3 trường hợp đều có sds cân nặng 
lúc sanh < -2 và sds chiều cao lúc bắt đầu điều trị < -3. Sau điều trị, chiều cao cải thiện rõ rệt ở cả 3 trường hợp, 
với ∆sd chiều cao = 0.94 (0.34-1.43). Báo cáo cũng cho thấy chiều cao trung bình ba mẹ và tuổi bắt đầu điều trị 
cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. 
Kết luận: GH liều thấp bước đầu cho thấy hiệu quả và an toàn trên bệnh nhân SGA được điều trị sớm. Liều 
GH khởi đầu nên dựa trên tiên lượng đáp ứng điều trị của từng cá nhân cụ thể. Bên cạnh đó, việc sử dụng GH 
cần cân nhắc giữa hiệu quả và chi phí điều trị. 
Từ khóa: hormone tăng trưởng, trẻ nhỏ so với tuổi thai 
ABSTRACT 
INITIAL ASSESSMENT OF THE EFFECTIVENESS OF SGA TREATMENT WITH GROWTH 
HORMONE AT CHILDREN HOSPITAL 1 FROM 2017-2018: CASE REPORT 
Nguyen Hieu Trung, Tran Thi Bich Huyen 
 * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 190 – 196 
Objective: Small for gestation age (SGA) is defined as birth weight and/or birth length two or more 
standard deviation scores below the mean for gender and gestation (-2sds). A small part of SGA children will not 
catch up with growth and have a low height in adulthood. Growth hormone (GH) is demonstrated benefits and 
safety in treatment these children to get a normal adult height. 
Methods: 3 cases report 
Results: We present 3 cases of SGA treated with low dose GH (35mcg/kg/day) for 6 months to 3 years. Age 
of onset treatment is relatively early, from 2.3 to 4.5 years old. All 3 cases have birth weight sds below -2 and 
height sds at beginning of treatment below -3. After treatment, height improved significantly in all 3 cases, with 
∆sd height = 0.94 (0.34-1.43). Besides, midparental height and age of onset treatment affect the treatment result. 
Conclusion: Low dose GH is effective and safe enough to treat SGA children at early age. Midparental 
height may contribute to the effect of GH in treatment of SGA, so dose of GH can be individualized. Besides, 
treatment should be based on the balance between benefit and cost. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 191
Key words: growth hormone, SGA 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trẻ em nhỏ so với tuổi thai (SGA) là tình 
trạng trẻ có cân nặng và hoặc chiều dài lúc sinh 
<-2 độ lệch chuẩn (-2sd) so với tuổi thai và 
giới(13). Nguyên nhân gây nên tình trạng này là 
do nhiều yếu tố như: dinh dưỡng, bệnh lý của 
mẹ trong thai kỳ, các bất thường về mạch máu 
nhau thai, di truyền hoặc không có nguyên nhân. 
Trẻ SGA không chỉ bị ảnh hưởng đến chiều 
cao mà còn có những nguy cơ tiềm ẩn về sức 
khỏe như: béo phì, rối loạn chuyển hóa và bệnh 
lý tim mạch trong cuộc sống sau này. Nhưng 
những nguy cơ này thực sự không cao và rõ rệt 
bằng ảnh hưởng lên chiều cao lúc trưởng thành. 
Khoảng 85-90% các trẻ SGA có thể tăng trưởng 
nhanh bù trừ và bắt kịp chiều cao trong vài năm 
đầu, tuy nhiên 10-15% còn lại sẽ không đạt được 
chiều cao ở mức bình thường lúc 2 tuổi(15). Nhóm 
trẻ SGA có chiều cao dưới -2sd lúc 2 tuổi thường 
có xu hướng thấp lùn lúc trưởng thành. 
Do đó vấn đề quan trọng là cần theo dõi sát 
và can thiệp kịp thời để trẻ SGA có thể bắt kịp 
tốc độ tăng trưởng và đạt được chiều cao bình 
thường lúc trưởng thành. Thế giới đã có nhiều 
nghiên cứu chứng minh growth hormone (GH) 
giúp cải thiện chiều cao đáng kể ở trẻ SGA(23). 
Bên cạnh đó GH còn giúp tăng khối cơ và giảm 
tỉ lệ mỡ cơ thể, một kiểu hình thường thấy ở trẻ 
SGA lúc trưởng thành(14). Ngoài ra, cải thiện thể 
chất còn góp phần tích cực vào sự phát triển tâm 
lý trẻ(16). Việc điều trị trẻ nhỏ so với tuổi thai 
bằng GH có lịch sử gần 50 năm(20). Và đến năm 
2001 đã được chỉ định một cách chính thức bởi 
FDA Hoa Kỳ, sau đó được cơ quan đánh giá 
dược phẩm Châu Âu chấp thuận từ năm 2003(7). 
Điều trị GH được chỉ định cho những trẻ SGA 
lúc 2 - 4 tuổi và có chiều cao thấp hơn hoặc bằng 
-2sd theo tuổi và giới. 
Tại Việt Nam, mặc dù ... 
xương đùi, tăng trưởng tuyến vú ở nam, tăng 
đường huyết. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Xquang xương dài để loại trừ các bệnh lý bất 
thường về xương. 
Nhiễm sắc thể đồ (karyotype) thực hiện 
thường qui ở nữ để loại trừ hội chứng Turner. 
MRI não để loại trừ bệnh lý thần kinh 
trung ương. 
Một số xét nghiệm để loại trừ các bệnh mạn 
tính khác như: các hormone khác của tuyến yên, 
chức năng tuyến giáp, chức năng thận. 
KẾT QUẢ 
Cả 3 bệnh nhi nhập viện trong tình trạng 
chiều cao rất thấp ≤ -3sd so với chiều cao trung 
bình theo tuổi và giới (Bảng 1, 2). 
Các xét nghiệm về chức năng gan, thận, 
đường huyết, điện giải trong giới hạn bình 
thường (Bảng 3). 
Cả 3 trường hợp đều cải thiện chiều cao 
đáng kể với ∆ sd chiều cao = 0,94 (0,34-1,43) 
(Bảng 4). 
Không ghi nhận các tác dụng phụ của GH 
như: tăng áp lực nội sọ lành tính, đau nhức 
khớp, trượt chỏm xương đùi, tăng đường huyết 
(Hình 1). 
Bảng 1. Chiều cao và cân nặng lúc nhập viện 
Ca bệnh Giới Tuổi (năm) Chiều cao (cm) Chiều cao Z-Score Cân nặng (Kg) Cân nặng Z-Score 
Cân nặng/chiều 
cao Z-score 
1 Nữ 4,3 86 -4,35 10 -3,89 -1,76 
2 Nữ 2,3 80 -3,16 8,5 -3,00 -2 
3 Nữ 2,3 73 -4,68 6,5 -5,03 -3,6 
Bảng 2. Tiền sử lúc sanh 
Ca bệnh Giới Tuổi thai Chiều cao (cm) Chiều cao Z-Score Cân nặng (gr) Cân nặng Z-Score 
Cân nặng/ chiều 
cao Z-score 
1 Nữ 39 48 - 0,66 1800 -3,68 < -3 
2 Nữ 40 42 - 3,71 2500 -2,07 Không xác định 
3 Nữ 38 44 -1,89) 2000 -2,58 < -3 
Bảng 3. Cận lâm sàng 
Cận lâm sàng Ca bệnh 1 Ca bệnh 2 Ca bệnh 3 Giá trị bình thường 
Tuổi xương 3,5 tuổi 2 tuổi 1 tuổi 
IGF1 30,6 61 31,7 20 - 250 (ng/ml) 
TSH 1,75 2,04 2,1 0,32 – 5 (mUI/ml) 
FT4 0,99 1,02 1,31 0,71 – 1,85 (ng/ml) 
Cotisol 12,36 7,8 8,32 6,2-19,4(mcg/dl) 
Karyotype 46XX 46XX 46XX 
MRI não Bình thường Bình thường Bình thường 
Bảng 4. Đáp ứng điều trị 
Ca 
bệnh 
Liều GH 
(mg/Kg/ngày) 
Thời gian 
điều trị 
(Tháng) 
CC 
trước (cm) 
Z-Score 
trước 
CC 
Sau (cm) 
Z-Score 
sau 
CÂN NẶNG 
trước (Kg) 
Z-Score 
Cân nặng 
sau (Kg) 
Z-Score 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 193
1 0,03-0,05 35 86 -4,35 109 -2,43 10 -3,89 17 -2,12 
2 0,03-0,04 11 80 -3,16 91 -1,73 8.5 -3,00 11 -2,27 
3 0,03-0,04 05 73 -4,68 77 -4,34 6.5 -5,03 8.4 -3,84 
Bệnh nhi 1 Bệnh nhi 2 
Bệnh nhi 3 
Hình 1. Biểu đồ tăng trưởng trong khi điều trị với GH của 3 bệnh nhi SGA 
BÀN LUẬN 
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị 
của GH trong năm đầu tiên gồm: liều điều trị 
GH, tuổi bắt đầu điều trị, chiều cao ba mẹ(17). 
Liều điều trị GH cao, tuổi điều trị nhỏ và chiều 
cao trung bình ba mẹ cao cho hiệu quả điều trị 
càng lớn. Trong đó liều GH là yếu tố quan trọng 
nhất(1,10,17). 
Liều điều trị GH ở bệnh nhân SGA cao hơn 
so với bệnh nhân thiếu hormone tăng trưởng 
khác vì cơ chế bệnh sinh của trẻ SGA không phải 
do thiếu GH mà vì tình trạng đề kháng một 
phần GH hoặc bất thường trục GH-IGF1(2,5). Tuy 
nhiên có khoảng 50-60% trẻ SGA không bắt kịp 
chiều cao có kèm bất thường tiết GH(11). Hiện nay 
chưa có một sự đồng thuận nào giữa các hiệp 
hội nội tiết về liều điều trị GH cụ thể cho bệnh 
nhân SGA. Khoảng liều đang được chấp nhận 
khá rộng từ 35-70 mcg/kg/ngày(7). Theo hội nội 
tiết tại Mỹ, khởi đầu điều trị GH với liều cao khi 
đạt đươc tốc độ tăng chiều cao tốt sẽ giảm liều 
dần. Bên cạnh đó, các tác giả cũng cho rằng 
khoảng thời gian 2 năm kể từ lúc sanh là đủ để 
đánh giá trẻ có thể bắt kịp chiều cao hay không, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 194
và điều này được chứng minh bằng nhiều 
nghiên cứu(12,15), do đó các tác giả cho rằng điều 
trị càng sớm thì khả năng để tối ưu hóa chiều 
cao trưởng thành càng lớn. Ngược lai, hiệp hội 
nội tiết tại Châu Âu lại cho rằng có thể chờ đến 4 
tuổi vì có khoảng 5-10% trẻ SGA sẽ bắt kịp dần 
chiều cao; và liều GH điều trị ban đầu thấp, có 
thể tăng dần nếu tốc độ tăng chiều cao không 
đáp ứng tốt. Nhiều nghiên cứu cho thấy liều GH 
cao có ưu thế cải thiện chiều cao trong 1-2 năm 
đầu so với liều thấp nhưng về lâu dài thì chiều 
cao lúc trưởng thành không có sự khác biệt giữa 
liều cao và liều thấp(9,19,23). Mặt khác liều cao có 
thể tăng nguy cơ đề kháng insulin ở một số trẻ(8), 
đồng thời chi phí điều trị có thể tăng gần gấp 
đôi. Theo khuyến cáo của hội nội tiết thế giới, 
khởi đầu điều trị GH cho trẻ SGA trong khoảng 
2-4 tuổi khi chiều cao của trẻ thấp hơn -2sd so 
vơi tuổi và giới, liều khởi đầu tùy theo tưng cá 
thể. Ở ba trường hợp nêu trên, chúng tôi đều 
khởi đầu GH liều thấp là 35 mcg/kg/ngày và 
hiệu quả trong năm đầu là cải thiện chiều cao 
đáng kể với ∆sd chiều cao = 1,14(0,81-1,56). Kết 
quả ban đầu của nghiên cứu của chúng tương 
đồng với một số nghiên cứu khác với mức ∆sd 
chiều cao từ 1,05-1,2(11,22). Măc dù liều điều trị GH 
của chúng tôi là bắt đầu với liều thấp và tăng 
dần, tuy nhiên tốc độ tăng chiều các của các trẻ 
là khá tốt trên +1sd. Bên cạnh đó với liều điều trị 
GH liều thấp và tăng dần sẽ giúp cân bằng giữa 
chi phí và hiệu quả điều trị, phù hợp với tình 
hình kinh tế của bệnh nhân ở nước ta, điều này 
cũng đã được một số tác giả đề nghị(6,22). 
Tuổi bắt đầu điều trị GH cho bệnh nhân 
SGA vẫn chưa có sự thống nhất giữa các hiệp 
hội nội tiết như Mỹ bắt đầu trị từ 2 tuổi, Châu 
Âu 4 tuổi, Nhật 3 tuổi(7,22). Nhiều tác giả cho rằng 
tuổi càng nhỏ thì mức độ thiếu hụt về chiều cao 
càng ít(3) nên điều trị sẽ càng hiệu quả. Ngược lại 
một số tác giả lại cho rằng nên trì hoãn điều trị vì 
một số bé có thể tự động bắt kịp chiều cao về sau 
nhưng điều này chỉ đặc biệt đúng với trẻ sanh 
non SGA(7). Ba trẻ SGA trên đều là trẻ đủ tháng 
nên chúng tôi quyết định điều trị sớm ngay khi 
phát hiện với bé nhỏ nhất là 2 tuổi 3 tháng. Điều 
này đã được lý giải ở trên là nhằm tối ưu hóa 
chiều cao lúc trưởng thành, đồng thời tránh tình 
trạng mất theo dõi do bỏ tái khám. 
Ca 2 và 3 có cùng tuổi bắt đầu điều trị, với 
cùng liều GH nhưng ca 2 có ∆sd chiều cao lớn 
hơn (1,56 so với 0,81). Điều này có thể lý giải 
bằng chiều cao trung bình của ba mẹ tương ứng 
157cm so với 148,5 cm. Chiều cao trung bình ba 
mẹ là một trong ba yếu tố ảnh hưởng đến hiệu 
quả điều trị GH(17). Trong 3 yếu tố liều GH, tuổi 
bắt đầu điều trị, chiều cao ba mẹ thì yếu tố chiều 
cao ba mẹ và tuổi bắt đầu điều trị là không thể 
can thiệp được, chỉ còn liều GH là có thể điều 
chỉnh. Theo định nghĩa trong đồng thuận về 
SGA và hướng dẫn điều trị SGA của Nhật thì 
thất bại điều trị là độ lệch chuẩn chiều cao không 
tăng được ít nhất 0,5 trong năm đầu tiên(7,22). Với 
những trẻ có chiều cao ba mẹ thấp, tuổi bắt đầu 
điều trị trễ thì chúng tôi cân nhắc tăng liều GH 
sớm nếu chiều cao trẻ đáp ứng kém, hoặc sử 
dụng GH liều cao ngay từ đầu. 
Đa phần trẻ SGA có tuổi xương thấp hơn 
tuổi thật vì các vấn đề liên quan đến GH như đã 
nói ở trên. Sau thời gian điều trị với GH thì 
xương tăng tốc độ cốt hóa(4,18). Có nghiên cứu cho 
rằng liều GH không ảnh hưởng đến mức độ cốt 
hóa xương(18), nhưng tác giả khác chứng minh 
rằng liều GH càng lớn thì mức độ cốt hóa xương 
càng mạnh(10). Sau thời gian điều trị 5 năm thì 
50% trường hợp có tuổi xương lớn hơn tuổi 
thật(10). Đây cũng là một trong những lý do mà 
hiệu quả GH liều cao trên chiều cao trưởng 
thành không thực sự khác biệt so với GH liều 
thấp vì mức độ cốt hóa xương mạnh hơn dẫn 
đến chiều cao trưởng thành dừng lại sớm hơn. 
Ba trẻ SGA trên đều có tuổi xương thấp so với 
tuổi thật. Vì thời gian điều trị và theo dõi ngắn 
nên chỉ duy nhất ca 1 được chụp tuổi xương 
theo dõi. Sau 2 năm điều trị thì tuổi xương tăng 
1,5 tuổi với ∆ tuổi xương/ ∆ tuổi thật = 0,75 < 1. 
Như vậy với liều điều trị GH thấp, tốc độ tăng 
trưởng chiều cao tốt cũng không làm cốt hóa 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 195
xương sớm dẫn đến tiên lượng hiệu quả điều trị 
lâu dài tốt. 
Nồng độ IGF1 ở cả 3 trẻ nằm trong ngưỡng 
cho phép, tuy nhiên thấp hơn mức trung bình 
theo tuổi. Điều này được giải thích vì thiếu hụt 
GH một phần hay đề kháng GH ở những trẻ 
SGA(2,5). Sau khi điều trị thì IGF1 tăng, tương ứng 
với chiều cao được cải thiện. Việc kiểm soát liều 
GH, đặc biệt là GH liều cao dựa trên nồng độ 
IGF1 được khuyến cáo trong đồng thuận điều trị 
SGA nhằm tránh các tác dụng phụ ngoại ý(7). Và 
cho đến nay, song song với việc kiểm tra nồng 
độ IGF1 định kỳ, chúng tôi vẫn chưa ghi nhận 
tác dụng phụ nào của GH trên ba trẻ SGA này. 
Tuy nhiên quá trình điều trị trẻ SGA có thể lên 
đến hơn 10 năm nên việc theo dõi hiệu quả và 
tác dụng phụ cần được tiếp tục trong một thời 
gian dài. 
KẾT LUẬN 
Điều trị GH trên bệnh nhân SGA bước đầu 
cho thấy an toàn và hiệu quả đáng kể trong việc 
cải thiện chiều cao, cho dù ở liều thấp. Điều trị 
hormone GH cho bệnh nhân SGA là điều trị cá 
thể hóa. Dựa trên từng trường hợp cụ thể, tiên 
lượng hiệu quả của việc cải thiện chiều cao mà 
quyết định liều GH phù hợp, bên cạnh đó còn 
phải cân nhắc giữa hiệu quả và chi phí điều trị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Boguszewski M, Albertsson-Wikland K, Aronsson S, et al 
(1998). “Growth hormone treatment of short children born 
small-for-gestational-age: the Nordic Multicentre Trial”. Acta 
Paediatr, 87(3):257-263. 
2. Boguszewski M, Rosberg S, Albertsson-Wikland K (1995). 
“Spontaneous 24-hour growth hormone profiles in prepubertal 
small for gestational age children”. J Clin Endocrinol Metab, 
80(9):2599-2606. 
3. Chatelain P, Carrascosa A, Bona G, Ferrandez-Longas A, Sippell 
W (2007). “Growth hormone therapy for short children born 
small for gestational age”. Horm Res, 68(6):300-309. 
4. Chatelain P, Job JC, Blanchard J, Ducret JP, Oliver M, Sagnard L, 
Vanderschueren-Lodeweyckx M (1994). “Dose-dependent 
catch-up growth after 2 years of growth hormone treatment in 
intrauterine growth-retarded children. Belgian and French 
Pediatric Clinics and Sanofi-Choay (France)”. J Clin Endocrinol 
Metab, 78(6):1454-1460. 
5. Chatelain PG, Nicolino M, Claris O, Salle B, Chaussain J (1998). 
“Multiple hormone resistance in short children born with 
intrauterine growth retardation?”. Horm Res, 49(2):20-22. 
6. Chernausek SD (2005). “Treatment of short children born small 
for gestational age: US perspective, 2005”. Horm Res, 64(2):63-66. 
7. Clayton PE, Cianfarani S, Czernichow P, Johannsson G, 
Rapaport R, Rogol A (2007). “Management of the child born 
small for gestational age through to adulthood: a consensus 
statement of the International Societies of Pediatric 
Endocrinology and the Growth Hormone Research Society”. J 
Clin Endocrinol Metab, 92(3):804-810. 
8. Hofman PL, Cutfield WS, Robinson EM, Bergman RN, Menon 
RK, Sperling MA, và Gluckman PD (1997). “Insulin resistance in 
short children with intrauterine growth retardation”. J Clin 
Endocrinol Metab, 82(2):402-406. 
9. Hokken-Koelega AC, De Waal WJ, Sas TC, Pareren YV, Arends 
NJ (2004). “Small for gestational age (SGA): endocrine and 
metabolic consequences and effects of growth hormone 
treatment”. J Pediatr Endocrinol Metab, 17(3):463-469. 
10. Horikawa R, Tanaka T, Nishinaga H, Ogawa Y, Yokoya S 
(2017). “Evaluation of growth hormone treatment efficacy in 
short Japanese children born small for gestational age: Five-year 
treatment outcome and impact on puberty”. Clin Pediatr 
Endocrinol, 26(2):63-72. 
11. Hwang IT (2014). “Efficacy and safety of growth hormone 
treatment for children born small for gestational age”. Korean J 
Pediatr, 57(9):379-383. 
12. Karlberg J và Albertsson-Wikland K (1995). “Growth in full-
term small-for-gestational-age infants: from birth to final 
height”. Pediatr Res, 38(5):733-739. 
13. Lee PA, Chernausek SD, Hokken-Koelega AC, Czernichow P 
(2003). “International Small for Gestational Age Advisory Board 
consensus development conference statement: management of 
short children born small for gestational age, April 24-October, 
2001”. Pediatrics, 111(6Pt1):1253-1261. 
14. Leger J, Carel C, Legrand I, Paulsen A, Hassan M, Czernichow P 
(1994). “Magnetic resonance imaging evaluation of adipose 
tissue and muscle tissue mass in children with growth hormone 
(GH) deficiency, Turner's syndrome, and intrauterine growth 
retardation during the first year of treatment with GH”. J Clin 
Endocrinol Metab, 78(4):904-909. 
15. Luo ZC, Albertsson-Wikland K, Karlberg J (1998). “Length and 
body mass index at birth and target height influences on 
patterns of postnatal growth in children born small for 
gestational age”. Pediatrics, 102(6):E72. 
16. Pareren YKV, Duivenvoorden HJ, Slijper FS, Koot HM, 
Hokken-Koelega AC (2004). “Intelligence and psychosocial 
functioning during long-term growth hormone therapy in 
children born small for gestational age”. J Clin Endocrinol Metab, 
89(11):5295-5302. 
17. Ranke MB, Lindberg A, Cowell CT, Wikland KA, Reiter EO, 
Wilton P, Price DA (2003). “Prediction of response to growth 
hormone treatment in short children born small for gestational 
age: analysis of data from KIGS (Pharmacia International 
Growth Database)”. J Clin Endocrinol Metab, 88(1):125-131. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 196
18. Sas T, de Waal W, Mulder P, Houdijk M, Jansen M, Reeser M, 
Hokken-Koelega A (1999). “Growth hormone treatment in 
children with short stature born small for gestational age: 5-year 
results of a randomized, double-blind, dose-response trial”. J 
Clin Endocrinol Metab, 84(9):3064-3070. 
19. Tanaka T, Yokoya S, Hoshino Y, Hiro S, Ohki N (2018). “Long-
term safety and efficacy of daily recombinant human growth 
hormone treatment in Japanese short children born small for 
gestational age: final report from an open and multi-center 
study”. Clin Pediatr Endocrinol, 27(3):145-157. 
20. Tanner JM và Ham TJ (1969). “Low birthweight dwarfism with 
asymmetry (Silver's syndrome): treatment with human growth 
hormone”. Arch Dis Child, 44(234):231-243. 
21. WHO Multicentre Growth Reference Study Group. (2006). 
“WHO Child Growth Standards based on length/height, weight 
and age”. Acta Paediatr Suppl, 450:76-85. 
22. Yokoya S, Tanaka T, Itabashi K, Osada H, Hirai H, Seino Y 
(2018). “Efficacy and safety of growth hormone treatment in 
Japanese children with small-for-gestational-age short stature in 
accordance with Japanese guidelines”. Clin Pediatr Endocrinol, 
27(4):225-234 
23. Zegher FD và Hokken-Koelega A (2005). “Growth hormone 
therapy for children born small for gestational age: height gain 
is less dose dependent over the long term than over the short 
term”. Pediatrics, 115(4):e458-62. 
Ngày nhận bài báo: 20/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019 
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_danh_gia_hieu_qua_dieu_tri_sga_bang_growth_hormon_t.pdf