Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng

Nước biển dâng (NBD) là một trong những hệ quả của quá trình biến đổi khí hậu toàn

cầu. Các dải đất thấp ven biển trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam sẽ chịu tác động của hiện

tượng NBD bao gồm gia tăng ngập lụt làm biến mất cơ hội định cư và sản xuất cho hàng chục

triệu người; Đường bờ biển vốn đang bị tác động xâm thực của sóng biển sẽ có nguy cơ bị biến

động mạnh mẽ hơn trong các thập niên sắp tới, đặc biệt các cửa sông ven biển Nam Trung Bộ

(NTB) có nguy cơ bị bồi lấp nghiêm trọng.

Dòng năng lượng sóng hướng bờ và dọc bờ vùng nước nông ven bờ biển NTB được tính toán với

các kịch bản NBD trình bày trong nghiên cứu này được sử dụng như một công cụ dự đoán nguy

cơ biến đổi đường bờ biển và vùng cửa sông Nam Trung Bộ dưới tác động của NBD.

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 1

Trang 1

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 2

Trang 2

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 3

Trang 3

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 4

Trang 4

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 5

Trang 5

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 6

Trang 6

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 7

Trang 7

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 8760
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng

Biến đổi hình thái cửa sông ven biển Nam Trung Bộ dưới tác động của nước biển dâng
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 1
BIẾN ĐỔI HÌNH THÁI CỬA SÔNG VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ 
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA NƯỚC BIỂN DÂNG 
Phạm Trung 
Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam 
Tóm tắt: Nước biển dâng (NBD) là một trong những hệ quả của quá trình biến đổi khí hậu toàn 
cầu. Các dải đất thấp ven biển trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam sẽ chịu tác động của hiện 
tượng NBD bao gồm gia tăng ngập lụt làm biến mất cơ hội định cư và sản xuất cho hàng chục 
triệu người; Đường bờ biển vốn đang bị tác động xâm thực của sóng biển sẽ có nguy cơ bị biến 
động mạnh mẽ hơn trong các thập niên sắp tới, đặc biệt các cửa sông ven biển Nam Trung Bộ 
(NTB) có nguy cơ bị bồi lấp nghiêm trọng. 
Dòng năng lượng sóng hướng bờ và dọc bờ vùng nước nông ven bờ biển NTB được tính toán với 
các kịch bản NBD trình bày trong nghiên cứu này được sử dụng như một công cụ dự đoán nguy 
cơ biến đổi đường bờ biển và vùng cửa sông Nam Trung Bộ dưới tác động của NBD. 
Từ khóa: Nam Trung Bộ, Nước biển dâng, Biến đổi đường bờ bờ biển, cửa sông 
Summary: Sea level rise (SLR) is one of the consequences of global climate change. Low-lying 
coastal lands around the world, including Vietnam, will be affected by the phenomenon of SLR, 
including rising floods that displace opportunities for settlement and production of millions of 
people; The coastline that is undergoing eroded due to sea waves is likely to be more seriously 
eroded in the coming decades, especially in the South Central Coast (NTB). 
Wave energy fluxs perpendicular to the coastline and parallel to the shoreline in shallow water 
along the South Central Coast with the NBD scenarios calculated and presented in this study are 
used as a predictor of the risk of evolutions of the coastline and estuaries of the South Central 
Coast under impact of SLR. 
1. MỞ ĐẦU* 
Mực nước biển toàn cầu dâng khoảng 120 m kể 
từ sau băng hà tức là gần 20.000 năm trước 
(Fairbanks 1989) và chậm lại vào khoảng 2.000 
đến 3.000 năm trước với tốc độ gia tăng mực 
nước biển chỉ còn khoảng từ 0,1 đến 0,2 
mm/năm (Lambeck và Bard 2000). Sự nóng lên 
toàn cầu trong suốt 100 năm qua đã dẫn đến sự 
giãn nở nhiệt của đại dương và dòng nước chảy 
từ các sông băng tan chảy. Các số liệu quan trắc 
chỉ ra rằng mực nước biển từ 1870 đến 2004 
tăng 195 mm với tốc độ tăng trung bình 1,7+/-
0,3 mm/năm và gia tốc 0,013+/-0,006 mm/năm 
(Church và White, 2006). Dựa trên 177 trạm 
Ngày nhận bài: 09/10/2018 
Ngày thông qua phản biện: 26/11/2018 
thuỷ triều trong giai đoạn 1948 đến 2002, 
Holgate và Woodworth (2004) ước tính tốc độ 
NBD 1,7+/-0,9 mm/năm. Các hồ sơ gần đây 
nhất về sự thay đổi mực nước biển bao gồm dữ 
liệu đo lường từ TOPEX/Poseidon và các vệ 
tinh Jason (Nerem và Mitchum, 2001). Trong 
khoảng thời gian 10 năm giữa dữ liệu đo độ cao 
vệ tinh 1993 và 2003 cho thấy tốc độ NBD là 
3,1+/-0,7 mm/năm (Cazenave và Nerem 2004, 
Leuliette et al. 2004) [2]. 
Các kịch bản NBD được xây dựng cho các tỉnh 
ven biển Việt Nam và được tổng hợp thành 9 
khu vực ven biển và hải đảo bao gồm: (i) 
Khu vực bờ biển từ Móng Cái đến Hòn Dáu; 
Ngày duyệt đăng: 05/12/2018 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 2
(ii) Khu vực bờ biển từ Hòn Dáu đến Đèo 
Ngang; (iii) Khu vực bờ biển từ Đèo Ngang đến 
Đèo Hải Vân; (iv) Khu vực bờ biển từ Đèo Hải 
Vân đến Mũi Đại Lãnh; (v) Khu vực bờ biển từ 
Mũi Đại Lãnh đến Mũi Kê Gà; (vi) Khu vực bờ 
biển từ Mũi Kê Gà đến Mũi Cà Mau; (vii) Khu 
vực bờ biển từ Mũi Cà Mau đến Kiên Giang; 
(viii) Khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt 
Nam; (ix) Khu vực quần đảo Trường Sa của 
Việt Nam. 
Hình 1. Nước biển dâng quan trắc 
và kịch bản 
Đến năm 2050, mực nước biển dâng trung bình 
cho toàn dải ven biển Việt Nam theo kịch bản 
RCP2.6 là 21cm (13cm÷32cm), theo RCP4.5 
là 22cm (14cm÷32cm), theo RCP6.0 là 22cm 
(14cm÷32cm) và theo RCP8.5 là 21cm 
(17cm÷35cm). Đến năm 2100, mực nước biển 
dâng trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam 
theo kịch bản RCP2.6 là 44cm (27cm÷66cm), 
theo RCP4.5 là 53cm (32cm÷76cm), theo 
RCP6.0 là 56cm (37cm÷81cm) và theo RCP8.5 
là 73cm (49cm÷103cm). 
Nước biển dâng cao có tác động đến quá trình 
biến đổi hình thái bờ biển Nam Trung Bộ như 
thế nào là câu hỏi chưa được nghiên cứu. Mối 
tương quan giữa NBD và biến đổi hình thái bờ 
biển bao gồm xói mòn và bồi tụ là vấn đề rất 
phức tạp phụ thuộc nhiều yếu tố như tác động 
của biển và các dòng sông, hình dạng, cấu trúc 
đường bờ biển và các hoạt động phát triển do 
con người trên dải đất ven biển (đê biển, khai 
thác rừng ngập mặn, ) và trên mặt nước biển 
(kè chắn sóng, cảng, các công trình chỉnh trị bờ 
biển, ..). 
Các chuyên gia nước ngoài đã cố gắng sử dụng 
mô hình hai chiều và ba chiều để xác định tác 
động của NBD lên sự thay đổi hình thái bờ biển. 
Các mô hình hai chiều đã sử dụng nguyên tắc 
ổn định của Bruun, 1962 hoặc các nghiên cứu 
bổ sung nguyên tắc Bruun bởi Dean & 
Maurmeyer 1983, Dubois 1992, Bray & Hooke 
1997, Davidson-Arnott 2005 [..]. Nguyên lý 
của Bruun được trình bày bởi biểu thức (1) dưới 
đây : 
R =


S = 


 
Trong đó: 
L là khoảng cách ngang bờ đến độ sâu tới hạn 
xói h (Depth of closure) 
B là chiều cao của đụn cát ven bờ bị xói lở 
tan (B+h)/L: Độ dốc trung bình bờ biển theo 
phương ngang bờ L. 
Hình 2. Minh họa nguyên lý biển lùi của 
Bruun (theo Cooper & Pilkey 2004) 
Nghiên cứu theo hướng này chỉ thể hiện hình 
dạng hình học của mặt cắt ngang bờ biển. 
Một số nghiên cứu sử dụng mô hình toán [10], 
[7] để mô phỏng phổ dòng chảy, vận chuyển 
bùn cát để giải thích cơ chế xói mòn và bồi tụ 
các cửa sông đồng thời mô phỏng quá trình thay 
đổi hình thái trong thời đoạn dài (ví dụ 50 năm) 
bằng cách sử dụng MORFACS. 
Các nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước 
[2], [3], [4] đã cố gắng giải thích các nguyên 
nhân xói bồi các đoạn bờ biển duyên hải Nam 
Trung Bộ. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu còn khá 
hạn chế và thường tập trung vào các trường hợp 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 3
cụ thể như Nguyễn Quang Tuấn, Hoàng Công 
Tín và nnk đã phân tích ảnh vệ tinh (ALOS-
AVNR2 và LANDSAT 50 năm để phân tích 
quá trình biến đổi đường bờ biển khu vực Cửa 
Đại (Quảng Nam) [6]. Kết quả cho thấy trong 
50 năm qua, sự thay đổi bờ biển diễn ra mạnh 
mẽ từ năm 1964 đến 1980. Xu hướng xói lở và 
bồi tụ tại cửa sông Cửa Đại cho thấy cửa sông 
di chuyển về phía Nam do sự xói lở bờ biển ở 
phía Bắc và bờ sông phía Nam cửa sông Cửa 
Đại. 
2. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Cách tiếp cận 
Thông lượng năng lượng sóng trung bình  cho 
một đơn vị đỉnh sóng, truyền qua một mặt 
phẳng thẳng đứng cố định vuông góc với 
phương truyền sóng được tính theo: 
 = (


) =  (1) 
Trong đó : 
 là năng lượng sóng trung bình trên một đơn 
vị diện tích bề mặt biển còn gọi là mật độ năng 
lượng sóng (J/m2) ; 
Cg là vận tốc nhóm sóng 
C =


1 +

 ()
 (2) 
Với k là số sóng, d là chiều sâu nước 
Sh là hàm sin hyperbol theo định nghĩa 
shx = 


( − ) 
Véc tơ thông lượng sóng P có thể phân tích 
thành hai thành phần: vuông góc với đường bờ 
biển, gọi là "Dòng năng lượng sóng hướng bờ" 
(Pn) và thành phần song song với đường bờ 
biển, gọi là "Dòng năng lượng sóng dọc bờ" 
(Pt). Tích phân giá trị dòng năng lượng sóng 
hướng bờ và dọc bờ trong khoảng thời gian nhất 
định (tuần, tháng hay mùa) chúng ta có thể xác 
định được "Tổng dòng năng lượng sóng hướng 
bờ" và "Tổng dòng năng lượng sóng dọc bờ" 
trong thời đoạn xác định. Giá trị tổng năng 
lượng sóng hướng bờ càng lớn cho thấy nguy 
cơ tác động của sóng biển lên đoạn đường bờ 
đó càng nghiêm trọng ; giá trị tổng năng lượng 
sóng dọc bờ càng lớn cho thấy năng lượng vận 
chuyển bùn cát dọc bờ càng cao, giá trị dương 
hoặc âm của Pt còn cho biết hướng vận chuyển 
bùn cát theo mùa dưới tác động của sóng do gió 
mùa. 
Quá trình nước biển dâng sẽ làm cho chiều sâu 
nước ven biển tăng lên. Tuy nhiên, ngoài vùng 
sóng vỡ năng lượng sóng hầu như không bị ảnh 
hưởng bởi ma sát đáy nên không phụ thuộc 
chiều sâu nước biển. Khi sóng truyền vào vùng 
nước nông, do ánh hưởng của địa hình đáy biển 
nên sóng bị biến dạng, đặc biệt khi vào tới chiều 
sâu nước giới hạn thì bắt đầu bị vỡ, năng lượng 
sóng được giải phóng. Nước biển dâng sẽ làm 
dịch chuyển vùng sóng vỡ vào gần bờ là nguyên 
nhân khiến cho vùng ven bờ bị tác động mạnh 
mẽ hơn. 
2.2. Phương pháp 
Như đã trình bày trong phần tiếp cận, NBD 
không làm gia tăng đáng kể năng lượng sóng đến 
trước khi sóng vỡ nhưng vùng sóng vỡ sẽ bị đẩy 
vào gần bờ hơn. Trong vùng nước nông, chiều 
sâu mực nước có ý nghĩa đối với quá trình biến 
dạng và tiêu tán năng lượng của sóng. 
Mô hình MIKE 21/3 Couple FM Model đã 
được xây dựng cho vùng ven biển Nam Trung 
Bộ sau đó chi tiết cho khu vực Phan Rí Cửa 
(Bình Thuận) với kịch bản mô phỏng hiện trạng 
(chưa xét yếu tố NBD) và các kịch bản NBD 
theo tài liệu công bố của Bộ TNMT, 2016 [1]. 
Trong nghiên cứu đã sử dụng đồng thời các 
module: Thủy động lực (HD) để xác định 
trường dòng chảy và trường độ sâu cột nước; 
Phổ sóng (MIKE21/3 SW) để xác định trường 
sóng và Vận chuyển cát (MIKE21/3 ST) để xác 
định vận chuyển thành phần cát và xói bồi do 
vận chuyển cát các vùng chi tiết khu vực Phan 
Rí Cửa. Giữa 3 module này có sự tương tác qua 
lại lẫn nhau trong quá trình tính toán. Có sự 
tương tác giữa sóng và dòng chảy với địa hình 
đáy, và sự thay đổi địa hình đáy lại tác động trở 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 4
lại đối với sóng và dòng chảy. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Mô hình Nam Trung Bộ 
Mô hình được sử dụng để mô phỏng chế độ thủy 
động lực khu vực ven biển Nam Trung Bộ và phụ 
cận. Trong khuôn khổ nghiên cứu, nhằm giảm 
thiểu tác động tới các vùng nghiên cứu chi tiết hơn 
cũng như tối ưu hóa về thời gian mô phỏng, phạm 
vi mô hình Nam Trung Bộ bao trùm từ Đà Nẵng 
đến Bà Rịa-Vũng Tàu có chiều dài khoảng 
940Km, khoảng cách từ bờ tới các vị trí biên mở 
ngoài biển từ 70÷80 km (hình 3). Kích thước ô 
lưới nhỏ nhất vùng sát bờ có giá trị khoảng 100m. 
Các thông số trên biên hở về mực nước được trích 
xuất từ mô hình dự báo triều còn sóng và điều 
kiện biên khí tượng sử dụng số liệu của 
NCEP/NOAA. 
Hình 3. Lưới và địa hình tính toán của mô 
hình Nam Trung Bộ 
Bộ thông số của mô hình Nam Trung Bộ được 
hiệu chỉnh và kiểm định bằng chuỗi số liệu mực 
nước thực đo và sóng quan trắc tại một số trạm 
hải văn ngoài đảo và ven bờ trình bày như hình 
4. 
Hình 4. Các vị trí hiệu chỉnh mô hình 
Thời gian hiệu chỉnh mô hình gồm 2 giai đoạn: 
giai đoạn 1 từ tháng 7/2009÷9/2009 (mùa gió 
Tây Nam) và giai đoạn 2 từ tháng 10÷12/2009 
(mùa gió Đông Bắc). 
Hình 5. Hệ số tương quan giữa mực nước tính 
toán và kết quả thực đo tại các trạm 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 5
Hình 6. So sánh chiều cao sóng tính toán bằng 
mô hình (MIKE, nét đứt) với kết quả mô hình 
WaveWatch-III (WW3) tại các vị trí 
So sánh kết quả tính toán mực nước triều và 
sóng với số liệu thực đo và kết quả mô hình 
WaveWatch-III cho thấy phù hợp khá tốt với 
nhau, điều đó chứng tỏ: Kết quả tính toán trên 
mô hình tích hợp MIKE 21/3 Coupled FM 
Model có độ tin cậy chấp nhận được có thể phục 
vụ cho công tác tính toán năng lượng sóng và 
diễn biến hình thái bờ biển. 
3.2. Mô hình Phan Rí Cửa 
Hình 7. Lưới và địa hình tính toán mô hình 
Phan Rí Cửa 
Khu vực tính toán trong nghiên cứu được giới hạn 
trong vùng cửa sông Phan Rí Cửa, có kích thước 
chiều dài theo đường bờ biển khoảng 5 km, chiều 
rộng tính từ bờ ra khoảng 3,5 km. Lưới tính toán 
là lưới phi cấu trúc với 7.540 ô lưới (Xem tại Hình 
7). 
Số liệu mực nước và sóng tại 3 biên biển được 
trích xuất từ mô hình Nam Trung Bộ. Điều kiện 
biên trong sông về lưu lượng nước và bùn cát 
sử dụng kết quả mô phỏng hệ thống thủy lực 
một chiều sông Lũy [5]. 
3.3. Kết quả tính toán “Tổng dòng năng 
lượng sóng hướng bờ” và “Tổng dòng năng 
lượng dọc bờ” cho cửa sông Phan Rí Cửa 
theo các kịch bản NBD 
Trên cơ sở các tài liệu do Bộ Tài nguyên và Môi 
trường công bố năm 2016 [1], tác giả đã tiến 
hành lựa chọn kịch bản mực nước biển dâng 
trung bình cho vùng nghiên cứu Nam Trung Bộ 
để xem xét ảnh hưởng đến quá trình diễn biến 
hình thái cho khu vực này như sau: 
- Kịch bản hiện trạng (KB0) 
- Đến năm 2030 (KB1): Mực nước biển dâng 
trung bình cho toàn dải ven biển Nam Trung Bộ 
là 12cm. 
- Đến năm 2050 (KB2): Mực nước biển dâng 
trung bình cho toàn dải ven biển Nam Trung Bộ 
là 25cm. 
- Đến năm 2100 (KB3): Mực nước biển dâng 
trung bình cho toàn dải ven biển Nam Trung Bộ 
là 50cm. 
Hình 8. Các vị trí xem xét biến đổi dòng 
năng lượng sóng ở Phan Rí Cửa 
Như vậy, trong tất cả các tính toán, chỉ xét đến sự 
thay đổi mực nước biển trung bình do BĐKH, mà 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 6
không xét đến ảnh hưởng của các yếu tố khác 
gây nên sự dâng cao mực nước biển như: nước 
dâng do bão, nước dâng do gió mùa, quá trình 
nâng/hạ địa chất và các quá trình khác. 
Đồng thời, trong nghiên cứu cũng chỉ tiến hành 
xem xét sự thay đổi mực nước biển trung bình 
sẽ có ảnh hưởng như thế nào đối với phạm vi 
các vùng sóng vỡ ven bờ (hình 8). 
Kết quả tính toán thay đổi các dòng năng lượng 
sóng tại các điểm trong vùng sóng vỡ sát bờ 
thuộc mô hình chi tiết khu vực Phan Rí Cửa ứng 
với kịch bản mực nước biển dâng thêm 12cm, 
25cm và 50cm được thể hiện trong các Hình 
dưới đây 
Hình 9. Biến đổi dòng năng lượng sóng dọc 
bờ theo các kịch bản trong mùa Tây Nam 
Hình 10. Biến đổi dòng năng lượng sóng dọc 
bờ theo các kịch bản trong mùa Đông Bắc 
Hình 11. Biến đổi dòng năng lượng sóng 
hướng bờ theo các kịch bản mùa gió Tây Nam 
Hình 12. Biến đổi dòng năng lượng sóng sóng 
hướng bờ theo các kịch bản mùa gió Đông Bắc 
3.4. Kết quả tính toán tổng lượng xói mòn và 
bồi tụ khu vực Phan Rí Cửa theo các kịch 
bản NBD 
Theo ảnh vệ tinh 2 giai đoạn (chụp cùng thời 
điểm kết thúc mùa gió Đông Bắc năm 2017 và 
2018), sự khác biệt lớn về đường bờ diễn ra chủ 
yếu ở khu vực kè phía Bắc, vị trí gần mũi kè bị 
bồi kín trong khi khu vực bờ phía Nam xói lở 
nhẹ tại vùng sát cửa. 
Hình 13. Ảnh chụp KV Phan Rí Cửa 2017 
. 
Hình 14. Ảnh chụp KV Phan Rí Cửa 2018 
Hình 15. Biến đổi địa hình đáy khu vực 
 Phan Rí Cửa sau hai mùa gió (KB0) 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 7
Hình 16. Biến đổi địa hình đáy khu vực 
Phan Rí Cửa sau hai mùa gió (KB1) 
Hình 17. Biến đổi địa hình đáy khu vực 
Phan Rí Cửa sau hai mùa gió (KB2) 
Hình 18. Biến đổi địa hình đáy khu vực 
Phan Rí Cửa sau hai mùa gió (KB3) 
Hình 19. Dịch chuyển bãi bồi trước khu vực 
Phan Rí Cửa theo các kịch bản NBD 
3.5. Thảo luận 
Dòng năng lượng sóng Pt dọc bờ (kW/m) ứng 
với 3 kịch bản trên tăng tương ứng thêm từ 5% 
(KB1), 11% (KB2), 21% (KB3) trong 3 tháng 
mùa Tây Nam (từ tháng 7 đến hết tháng 9). Đặc 
biệt giá trị Pt sẽ thay đổi rất lớn trong mùa gió 
Đông Bắc (từ tháng 10 đến hết tháng 12) với 
mức tăng từ 9% (KB1), 21% (KB2), 44% 
(KB3). 
Đối với dòng năng lượng sóng Pn hướng bờ, 
theo các kịch bản NBD, mức tăng tương ứng 
giống nhau từ 5% (KB1), 10% (KB2), 20% 
(KB3) trong cả 3 tháng mùa Tây Nam và 3 
tháng mùa gió Đông Bắc. 
Như vậy, với kết quả dòng năng lượng sóng Pt 
dọc bờ (có ý nghĩa lớn đối với dòng chảy ven 
bờ và dòng bùn cát) thay đổi đáng kể trong mùa 
Đông Bắc tới gần 50% (Giai đoạn 2100) sẽ tác 
động rất lớn đến quá trình diễn biến hình thái 
cho khu vực Phan Rí Cửa nói riêng và dải ven 
biển Nam Trung Bộ nói chung. 
Cho dù đã có một số công trình bảo vệ kiên cố 
đã được xây dựng để tạo thuận lợi cho tàu 
thuyền ra vào và giữ ổn định luồng lạch, tuy 
nhiên khu vực giữa hai kè mỏ hàn ở Phan Rí 
Cửa cửa luôn bị bồi lấp. Phạm vi vùng bồi lấp 
trước cửa có xu hướng dịch dần vào bên trong 
vùng cửa sông (Hình 19). Trong trường hợp 
này, hệ thống kè mỏ hàn phía bờ Bắc đã ngăn 
chặn dòng bùn cát (chịu ảnh hưởng của dòng 
năng lượng sóng Pt dọc bờ) di chuyển xuống 
phía Nam và rõ ràng chỉ có tác dụng ban đầu 
(chống bồi lấp sát ngay tại khu vực cửa). Vì thế 
cần xem xét giá trị dòng năng lượng sóng dọc 
bờ Pt để bố trí hệ thống kè mỏ hàn (đập đinh..) 
phù hợp, tiến đến giới hạn vận chuyển bùn cát 
thì bùn cát các bãi biển có xu thế được giữ lại 
mỗi bên bờ biển, khu vực gốc các kè mỏ hàn. 
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 52 - 2019 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ TNMT (2016), Kịch bản BĐKH và NBD cho Việt nam. Nhà xuất bản Tài nguyên Môi 
trường và bản đồ Việt Nam, Hà Nội. 
[2] Nguyễn Kim Đan (2017), Nghiên cứu về quá trình xói lở bờ biển Hội An và biện pháp bảo 
vệ. Báo cáo Kỹ thuật tổng hợp, Dự án Hội An. 
[3] Võ Công Hoang, Hitoshi Tanaka và nnk (2016), Phân tích diễn biến hình thái cửa sông Đà 
Rằng, Phú Yên bằng ảnh vệ tinh. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường, Trường 
Đại học Thủy lợi, Số 55, Hà Nội. 
[4] Phạm Huy Tiến (2005) , Dự báo hiện tượng xói lở-bồi tụ bờ biển, cửa sông và các giải pháp 
phòng tránh. Đề tài khoa học cấp Nhà nước KC.09.05, Hà Nội . 
[5] Tăng Đức Thắng và nnk (2017), Tư vấn kỹ thuật xây dựng mô hình thủy lực - thủy văn sông 
Lũy trong mối liên hệ với BĐKH tại tỉnh Bình Thuận. Chương trình Hợp tác Định hướng 
(ICP) giai đoạn 2011-2015. 
[6] Nguyen Quang Tuan, Hoang Cong Tin và nnk (2017), Historical Monitoring of Shoreline 
Changes in the Cua Dai Estuary, Central Vietnam Using Multi-Temporal Remote Sensing 
Data. Geoscience. 
[7] Duncan Fitzgerald, Michael S. Fenster, Brittina A. Argow, Ilya V. Buynevich (2008), 
Coastal Impacts Due to Sea-level Rise, Annual Review of Earth and Planetary Sciences, pp. 
1-60. 
[8] Nicoletta Leonardi, Neil K. Ganju and Sergio Fagherazzi (2015), A linear relationship 
between wave power and erosion determines salt-marsh resilience to violent storms and 
hurricane, PNAS. 
[9] Prasertsak Ekphisutsuntorn, Prungchan Wongwises, Chaiyuth Chinnarasri, Usa Humphries 
and Suphat Vongvisessomjai (2010), A Study of the Relation of Wave Height and Erosion at 
Bangkhuntien Shoreline, Thailand, World Academy of Science, Engineering and 
Technology International Journal of Environmental and Ecological Engineering, Vol:4, 
No:8. 
[10] D.M.P.K.Dissanayake, R.Ranasinghe và nnk, Effect of Sea level rise in Tidal inlet Evolution: 
a Numerical modelling approach, Journal of coastal research, SI 56, trang 942-946, 2009; 
[11] Marcel J.F.Stive, Effect of sea level rise on coastal evolution, 6th International IAEG 
congress, 1990; 
[12] Pushpa Dissanayake, Harshinie Karunarathna và nnk, Numerical modelling of the impact of sea level 
rise on large tidal inlet/basin systems, E-proceedings of the 36th IAHR World Congress, The Hague, 
the Netherlands, 2015; 

File đính kèm:

  • pdfbien_doi_hinh_thai_cua_song_ven_bien_nam_trung_bo_duoi_tac_d.pdf