Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017

Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm của loạt ca bệnh nhi Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng

và bước đầu đánh giá kết quả điều trị Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng ở trẻ em tại Viện

Huyết học – Truyền máu Trung ương giai đoạn 2016-2017.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên 45 ca bệnh nhi xuất huyết

giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng.

Kết quả: Giới nam chiếm ưu thế, phần lớn nằm trong độ tuổi 1-6 tháng tuổi; vaccine Quinvaxem và vaccine

BCG là 2 tác nhân chủ yếu (44,5% và 31,1%).Thời điểm xuất hiện triệu chứng bệnh thay đổi theo loại vaccine, ở

nhóm tiêm Quinvaxem phần lớn triệu chứng bệnh xuất hiện sớm trước 7 ngày (45%), ở nhóm tiêm vaccine BCG

chủ yếu lại xuất hiện muộn sau 28 ngày (57,2%). Hầu hết bệnh nhi có biểu hiện xuất huyết dưới da và niêm mạc

(82%), không có trường hợp nào bị xuất huyết nội sọ. Số lượng tiểu cầu lúc nhập viện thấp, với số trung vị là

khoảng 10 G/L. Hai phương pháp điều trị chủ yếu là corticoid (64,4%) và IVIG (22,65%). Tỷ lệ đáp ứng khỏi

bệnh cao (93%).

Kết luận: Ghi nhận loạt ca bệnh nhi bị Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch có tiền sử tiêm phòng gần thời

điểm phát bệnh. Hầu hết diễn biên cấp tính và đáp ứng tốt với điều trị. Chúng tôi chưa có bằng chứng chứng

minh tình trạng Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở những bệnh nhi này là do tiêm phòng. Cần có các nghiên

cứu sâu hơn, rộng hơn về mối liên quan giữa tiêm phòng và Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017 trang 1

Trang 1

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017 trang 2

Trang 2

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017 trang 3

Trang 3

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017 trang 4

Trang 4

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017 trang 5

Trang 5

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017 trang 6

Trang 6

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017 trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 6880
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017

Báo cáo loạt ca bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng tại viện Huyết học truyền máu trung ương 2016 – 2017
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 223
BÁO CÁO LOẠT CA BỆNH NHI 
XUẤT HUYẾT GIẢM TIỂU CẦU MIỄN DỊCH SAU TIÊM PHÒNG 
TẠI VIỆN HUYẾT HỌC TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG 2016 – 2017 
Trần Thu Thủy*, Dương Thị Hưng*, Hoàng Thị Hồng**, Trần Quỳnh Mai*, Mai Lan*, Bạch Quốc Khánh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm của loạt ca bệnh nhi Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng 
và bước đầu đánh giá kết quả điều trị Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng ở trẻ em tại Viện 
Huyết học – Truyền máu Trung ương giai đoạn 2016-2017. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên 45 ca bệnh nhi xuất huyết 
giảm tiểu cầu miễn dịch sau tiêm phòng. 
Kết quả: Giới nam chiếm ưu thế, phần lớn nằm trong độ tuổi 1-6 tháng tuổi; vaccine Quinvaxem và vaccine 
BCG là 2 tác nhân chủ yếu (44,5% và 31,1%).Thời điểm xuất hiện triệu chứng bệnh thay đổi theo loại vaccine, ở 
nhóm tiêm Quinvaxem phần lớn triệu chứng bệnh xuất hiện sớm trước 7 ngày (45%), ở nhóm tiêm vaccine BCG 
chủ yếu lại xuất hiện muộn sau 28 ngày (57,2%). Hầu hết bệnh nhi có biểu hiện xuất huyết dưới da và niêm mạc 
(82%), không có trường hợp nào bị xuất huyết nội sọ. Số lượng tiểu cầu lúc nhập viện thấp, với số trung vị là 
khoảng 10 G/L. Hai phương pháp điều trị chủ yếu là corticoid (64,4%) và IVIG (22,65%). Tỷ lệ đáp ứng khỏi 
bệnh cao (93%). 
Kết luận: Ghi nhận loạt ca bệnh nhi bị Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch có tiền sử tiêm phòng gần thời 
điểm phát bệnh. Hầu hết diễn biên cấp tính và đáp ứng tốt với điều trị. Chúng tôi chưa có bằng chứng chứng 
minh tình trạng Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở những bệnh nhi này là do tiêm phòng. Cần có các nghiên 
cứu sâu hơn, rộng hơn về mối liên quan giữa tiêm phòng và Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em. 
Từ khóa: xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, tiêm phòng vaccine 
ABSTRACT 
CASE SERIES REPORT OF IMMUNE THROMBOCYTOPENIA PURPURA IN CHIDREN FOLLOWED 
VACCINATION IN NATIONAL INSTITUTE OF HEMATOLOGY AND BLOOD TRANSFUSION, 2016-2017 
Tran Thu Thuy, Duong Thi Hung, Hoang Thi Hong, Tran Quynh Mai, Mai Lan, Bach Quoc Khanh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 223 - 229 
Objectives: Describe some characteristics of the series of pediatric patient with ITP followed 
vaccination and initially assess the results of treatment at the National Institute of Hematology - Blood 
Transfusion period 2016-2017. 
Methods: The study describes a series of 45 pediatric patients with ITP followed vaccination. 
Results: Male gender predominates, mostly in the age of 1-6 months; Quinvaxem vaccine and BCG vaccine 
are two main agents (44.5% and 31.1%). At the time of the occurrence of disease, symptoms varying according to 
the type of vaccine, for Quinvaxem, ITP mostly appear before 7 days (45%); For BCG vaccine, it mainly occurs 
later than 28 days (57.2%). Most pediatric patients present with subcutaneous and mucosal hemorrhage (82%), 
with no cases of intracranial hemorrhage. The platelet count at admission is low, with a median number of about 
10 G/L. The two main methods are corticosteroids (64.4%) and IVIG (22.65%). The response rate is high (93%). 
*Viện Huyết học Truyền máu Trung Ương **Đại học Y Hà Nội 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Thu Thủy ĐT: 0902282824 Email: bsthuthuy@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 224
Conclusion: Record series of pediatric patients with ITP after a recent vaccination. Most are acute and 
respond well to treatment. We have no evidence to prove that ITP in these patients is due to vaccination. Further 
and more extensive research is necessary for clarify the relationship between vaccination and ITP. 
Key words: immune thrombocytopenic purpura, vaccination 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch 
(Immune thrombocytopenic purpura – ITP) là 
một trong những bệnh bất thường chảy máu 
phổ biến nhất ở trẻ em, với tỷ lệ khoảng 4/100 
000 trẻ/ năm(2,6). Theo tác giả Mai Lan và cộng 
sự, bên cạnh Lơ xê mi cấp, Xuất huyết giảm 
tiểu cầu miễn dịch là một trong hai bệnh chiếm 
tỷ lệ cao nhất trong mô hình bệnh tật và trong 
nhóm mới mắc tại khoa Bệnh máu trẻ em, Viện 
Huyết học–Truyền máu Trung ương (32,9%)(7). 
Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em 
thường có biểu hiện cấp tính, lành tính, đáp 
ứng hoàn toàn 80-90% sau 6 tháng dùng thuốc 
hay không điều trị, tuy nhiên trong giai đoạn 
cấp nếu có xuất huyết não – màng não bệnh 
nhân có thể tử vong(9). Xuất huyết giảm tiểu 
cầu miễn dịch ở trẻ em có thể xuất hiện sau 
nhiễm virus như EBV, CMV, thủy dậu, sởi, 
Rubella, các virus viêm gan (A, B, C), sau 
nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm dạ dày 
ruột... hoặc sau tiêm phòng(13), cho đến nay chỉ 
có duy nhất một loại vaccin được chứng minh 
có mối liên quan thực sự gây ra Giảm tiểu  ... hứ 1 đến ngày thứ 42 
sau tiêm phòng). 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Không mắc các tình trạng nhiễm trùng cấp 
tính (nhiễm trùng đường hô hấp, viêm dạ dày 
ruột, nhiễm EBV, CMV) tại thời điểm chẩn đoán, 
hoặc sau khi tiêm phòng đến lúc chẩn đoán. 
Sử dụng các thuốc có nguy cơ gây giảm 
tiểu cầu. 
Có các dị tật bẩm sinh (do không loại trừ bất 
thường đáp ứng miễn dịch hay các hội chứng 
bẩm sinh có giảm tiểu cầu). 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả loạt ca. 
Trong khoảng thời gian từ tháng 1/2016 đến 
tháng 12/2017, chúng tôi chọn được 45 trường 
hợp đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu 
chuẩn loại trừ. 
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Bệnh máu trẻ 
em, Viện Huyết học – Truyền máu trung ương. 
Quản lý và xử lý số liệu 
Số liệu được quản lý và xử lý bằng Excell và 
phần mềm SPSS 20.0. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 225
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Hình 1. Phân bố bệnh nhi theo lứa tuổi 
Độ tuổi trung bình là 4,21 tháng (n = 45), 
chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh nhi 1-3 tháng tuổi 
(Hình 1). 
Hình 2. Tỷ lệ bệnh nhi theo giới tính 
Tỷ lệ trẻ nam chiếm phần lớn trong các bệnh 
nhi nghiên cứu (83%) (Hình 2). 
Hình 3. Tỷ lệ giảm tiểu cầu theo nhóm vaccine tiêm 
phòng (n=45) 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ Xuất 
huyết giảm tiểu cầu sau tiêm phòng Quinvaxem 
và tiêm phòng lao chiếm tỷ lệ cao nhất (44,5%; 
31,1%) (Hình 3). 
Đặc điểm giảm tiểu cầu và đặc điểm xuất huyết 
ở bệnh nhi trong nghiên cứu 
Thời gian xuất hiện triệu chứng xuất huyết 
kể từ khi tiêm phòng không giống nhau, đối với 
vaccine BCG 57,2% xuất hiện sau 28 ngày, cũng 
có những trường hợp xuất hiện rất sớm dưới 7 
ngày (14.2%); vaccine Quinvaxem 20% xuất hiện 
muộn, còn 45% xuất hiện sớm. Theo thống kê 
của chúng tôi có 6 trường hợp xuất hiện chỉ sau 
tiêm phòng 2 ngày (Hình 4). 
Hình 4. Thời gian xuất hiện giảm tiểu cầu sau tiêm phòng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 226
Hình 5. Đặc điểm xuất huyết của BN lúc vào viện 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ em bị 
xuất huyết giảm tiểu cầu sau tiêm phòng vào 
viện chủ yếu với biểu hiện xuất huyết dưới da 
(82%), 12% có xuất huyết dưới da kèm theo xuất 
huyết niêm mạc miệng và 6% kèm đi ngoài phân 
có máu, không có trưởng hợp nào vào viện trong 
tình trạng bị xuất huyết sọ não (Hình 5). 
Bảng 1. Số lượng tiểu cầu của bệnh nhi lúc vào viện 
Số lượng tiểu cầu (G/L) 
Trung vị Thấp nhất Cao nhất 
BCG (n=14) 9 3 15 
Quinvaxem (n= 20) 11 5 65 
Pentaxim (n= 4) 6 3 77 
Infanrix Hexa (n=1) 6 
BH- HG- UV (n=1) 10 
Sởi (n=3) 11 3 13 
MMR (n=1) 5 
VNNB (n =1) 3 
Số lượng tiểu cầu tại thời điểm nhập viện 
của nhóm bệnh nhi nghiên cứu thấp nhất là 3G/l, 
cao nhất là 77 G/L (trường hợp nàyđã được điều 
trị tại bệnh viện tuyến dưới trước đó) (Bảng 1). 
Điều trị và kết quả điều trị 
Truyển khối tiểu cầu và điều trị corticoid là 
phương pháp điều trị phổ biến nhất (60%) 
(Hình 6). 
Số ngày điều trị trung bình để số lượng tiểu 
cầu trên 100 là 5,44 ngày. Giảm tiểu cầu sau tiêm 
phòng sởi có thời gian điều trị trung bình dài 
nhất (11 ngày) (Bảng 2). 
Bảng 2. Số ngày điều trị để đạt số lượng tiểu cầu 
>100 G/L 
 Trung bình Ngắn nhất Dài nhất 
BCG (n=14) 4,11 2 6 
Quinvaxem (n= 20) 7,62 1 20 
Pentaxim (n= 4) 3,50 2 6 
Infanrix Hexa (n=1) 7,0 
BH- HG- UV (n=1) 1,0 
Sởi (n=3) 11 4 18 
MMR (n=1) 5 
VNNB (n =1) 2 
Số lượng tiểu cầu trung bình sau một 
tháng khám lại đối với mỗi loại vaccine đều 
>100 G/L. Có 3 trường hợp bệnh nhi tiểu cầu 
vẫn thấp sau 1 tháng, 1 trường hợp TC chỉ 
được 13 G/L và phải nhập viện tiếp tục điều trị 
(Bảng 3). 
Bảng 3. Số lượng tiểu cầu sau 1 tháng khám lại 
Số lượng tiểu cầu (G/l) 
Trung bình Thấp nhất Cao nhất 
BCG (n=14) 425,57 310 532 
Quinvaxem (n= 20) 303,8 13 455 
Pentaxim(n= 4) 322.5 143 422 
Infanrix Hexa (n=1) 123 
BH- HG- UV (n=1) 554 
Sởi (n=3) 186 110 262 
MMR (n=1) 272 
VNNB (n =1) 356 
Hình 7. Tỷ lệ bệnh nhi đáp ứng điều trị sau một tháng 
Tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với điều trị cao 
(93%) (Hình 7). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 227
Hình 6. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị theo các phương pháp 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 4,21 tháng, thấp hơn các nghiên cứu khác, 
như nghiên cứu của Phan Thị Thu Trang và Lâm 
Thị Mỹ tại Bệnh viện Nhi đồng 2 (28,5 tháng)(12), 
nghiên cứu của Kuhne (5,7 tuổi)(5), nghiên cứu 
của Nguyễn Hồ Mai Anh là 50,8 tháng tuổi(10). 
Trẻ nhũ nhi trong nghiên cứu của chúng tôi 
chiếm tỷ lệ khá cao 84,45%, đặc biệt là độ tuổi 1-3 
tháng, là độ tuổi bệnh nhi bắt đầu được tiêm 
phòng các mũi như 5 trong 1, vaccine BCG. 
Theo nghiên cứu, chúng tôi thống kê được 
tới 83% bệnh nhi là trẻ nam. Kết quả này cao hơn 
nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa và Nguyễn Anh 
Tú(4), hay nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, 
tỷ lệ nam/ nữ lần lượt là 1,2 và 1,26; nghiên cứu 
của Kuhne T, Imbach P, Bolton-Maggs PHB 
cũng thấy tỷ lệ nam cao hơn nữ (2:1)(5). 
Chúng tôi thống kê được 8 loại vaccine có 
tiền sử được tiêm phòng trước khi trẻ bị xuất 
huyết giảm tiểu cầu phải nhập viện, trong đo cao 
nhất là vaccine 5 trong 1 theo chương trình tiêm 
chủng quốc gia (Quinvaxem, 44,5%), sau đó là 
vaccine BCG (31,1%), có 1 trường hợp sau tiêm 
MMR. Theo nhiều nghiên cứu đã ghi nhận 
XHGTC có thể xuất hiện sau tiêm1 số loại 
vaccine: Ở Mỹ từ 1990 đến 2008 báo cáo 478 ca 
XHGTC sau MMR đơn độc hoặc kết hợp, 32 ca 
sau tiêm phòng viêm gan A, 47 ca sau tiêm 
phòng Thủy đậu(11); ở Đài Loan: 5 ca sau Viêm 
gan B, 4 ca sau BH-HG-UV, 2 ca sau MMR, 1 ca 
sau tiêm phòng Thủy đậu. Tuy nhiên mới chỉ 
duy nhất vaccine MMR đã được chứng minh có 
sự liên quan trực tiếp với tình trạng xuất huyết 
giảm tiểu cầu ở trẻ em với tỷ lệ 1/ 30 000, người 
ta tìm thấy sự gia tăng nguy cơ gấp 6 lần xuất 
huyết giảm tiều cầu ở trẻ 13-24 tháng trong vòng 
6 tuần sau tiêm phòng MMR (sởi, quai bị, 
rubella) và 7/8 trường hợp xảy ra ở tuần thứ 2 và 
tuần thứ 4 sau khi tiêm phòng(1). 
Đặc điểm giảm tiểu cầu và đặc điểm xuất huyết 
Thời gian xuất hiện bệnh 
Trên các đối tượng bệnh nhi trong nghiên 
cứu. Qua Hình 4, thời gian xuất hiện triệu 
chứng xuất huyết kể từ khi tiêm phòng không 
giống nhau, đối với vaccine BCG 57,2% xuất 
hiện sau 28 ngày, cũng có những trường hợp 
xuất hiện rất sớm dưới 7 ngày (14.2%); vaccine 
Quinvaxem 20% xuất hiện muộn, còn 45% 
xuất hiện sớm.Theo E.J. Woo và cộng sự, phân 
chia các đối tượng thành 4 nhóm: nhóm 1-tiêm 
1 loại vaccine sống, nhóm 2-tiêm 1 loại vaccine 
bất hoạt, nhóm 3- tiêm nhiều hơn 1 loại trong 
đó có ít nhất 1 loại là vaccine sống, nhóm 4-
tiêm nhiều hơn 1 loại trong đó không có loại 
nào là vaccine sống; đồng thời phân thành các 
nhóm xuất hiện triệu chứng theo thời gian 
(dưới 7 ngày, 7 đến ≤14, 14 đến ≤28, ≥28 ngày); 
tác giả nhận thấy giữa các nhóm không có sự 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 228
khác biệt nhiều, triệu chứng xuất huyết có thể 
xuất hiện sớm (dưới 7 ngày) hoặc muộn (trên 
28 ngày), chỉ duy nhất trong nhóm 4 tỷ lệ xuất 
huyết sớm dưới 7 ngày cao hơn các khoảng 
thời gian khác(13). 
Đặc điểm xuất huyết của các bệnh nhi trong 
nghiên cứu 
Xuất huyết do giảm tiểu cầu thường chỉ xuất 
hiện khi tiểu cầu dưới 100 G/L, xuất huyết do 
giảm tiểu cầu ở trẻ em thường được chia thành 3 
mốc: xuất huyết dưới da, xuất huyết niêm mạc 
và xuất huyết nội sọ. Tại thời điểm nhập viện, số 
trung vị của số lượng tiểu cầu là trên dưới 10 G/l, 
thấp nhất là 3G/l – đây là mức tiểu cầu nguy 
hiểm, ngoài tình trạng xuất huyết dưới da, niêm 
mạc còn có thể gây xuất huyết nội sọ dẫn đến tử 
vong. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các 
bệnh nhi đều có biểu hiện xuất huyết dưới da, 
đa phần là dạng chấm, nốt, 12% kèm thêm xuất 
huyết niêm mạc miệng, 6% kèm đi ngoài có máu 
và chưa có trường hợp nào có biểu hiện xuất 
huyết nội sọ.Tuy nhiên, trên lâm sàng, do phần 
lớn các bệnh nhi ở độ tuổi rất nhỏ nên tình trạng 
xuất huyết cũng khá nặng, hầu hết là biểu hiện 
xuất huyết dưới da toàn thân với các chấm, nốt 
xuất huyết dày đặc. Theo nhiều nghiên cứu khác 
cũng cho thấy đa phần bệnh nhi có biểu hiện 
XHDD và niêm mạc, như nghiên cứu của Black 
C, Kaye JA, Jick H chủ yếu là XHDD,1 số đi 
ngoài phân đen, tiểu máu, 1 trường hợp xuất 
huyết não (tuy nhiên trường hợp này có liên 
quan đến chấn thương vùng đầu)(1). 
Thực tế phần lớn có tiểu cầu giảm ở ngưỡng 
rất nặng nhưng ít khi có xuất huyết nặng. Như 
vậy không thể chỉ dựa vào số lượng tiểu cầu để 
đánh giá bệnh nhân luôn có xuất huyết nặng 
kèm theo, nhưng cần thận trọng trước các 
trường hợp có xuất huyết nặng kèm theo tiểu 
cầu quá thấp. 
Số lượng tiểu cầu lúc vào viện 
Theo nghiên cứu, chúng tôi thấy có những 
bệnh nhi vào viện với tình trạng tiểu cầu giảm 
rất nặng, thấp nhất 3 G/L. Một số trường hợp 
tiểu cầu cao hơn (cao nhất là 65 G/L và 77 G/L), 
đây là các bệnh nhi đã được truyền Khối tiểu 
cầu cấp cứu và dùng corticoid ở bệnh viện 
tuyển dưới trước khi chuyển lên Viện chúng tôi. 
Điều trị và đáp ứng điều trị 
Có nhiều phương pháp để điểu trị Xuất 
huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, bao gồm phương 
pháp nội khoa và phẫu thuật cắt lách. Trong 
điều trị nội khoa, 2 thuốc thường được lựa chọn 
đầu tay là corticoid và IVIG (Itravenous 
immunous immunoglobulin). Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, phần lớn các bệnh nhi được điều 
trị bằng corticoid (64,44%); 22,65% dùng IVIG; 
đa phần được truyền Khối tiểu cầu kết hợp với 
thuốc nhằm mục đích nâng nhanh số lượng tiểu 
cầu khỏi mức nguy hiểm; 2% bệnh nhi có số 
lượng tiểu cầu >50G/l và không có triệu chứng 
xuất huyết mới nên được theo dõi số lượng tiểu 
cầu. Theo nghiên cứu khác của tác giả Neunert, 
tỷ lệ dùng corticoid đơn độc và IVIG đơn độc 
tương tự nhau, 24,44% vs 24%(8). 
Trung bình sau 5,44 ngày chúng tôi nâng 
được số lượng tiểu cầu >100G/l, có trường hợp 
chỉ cần 1 hoặc 2 ngày, số ngày điều trị dài nhất là 
20 ngày tiểu cầu mới lên được ngưỡng an toàn. 
Sau một tháng kiểm tra lại, số lượng tiểu cầu 
trung bình đạt 196,14G/l, tuy nhiên còn 7% bệnh 
nhi có tiểu cầu <100G/l. Nghiên cứu tại Bệnh 
viện Nhi đồng 2, đánh giá sau 28 ngày điều trị, 5 
trường hợp ngưng theo dõi, 3 trường hợp sử 
dụng lại IVIG lần 2, 2 BN chuyển sang dùng 
corticoid, Tỷ lệ đạt mức an toàn là 86,9%. Kết 
quả tại Bệnh viện Nhi đồng 2, tỷ lệ thất bại là 
13,1%, tương tự với nghiên cứu của Huỳnh 
Nghĩa, tỷ lệ đáp ứng là 80%, phù hợp với nghiên 
cứu của chúng tôi(4). Cũng theo nghiên cứu của 
France EK, Glanz J, Xu S, Hambidge S và cộng 
sự: trên 90% đáp ứng hoàn toàn, dưới 10% phát 
triển thành XHGTC mạn tính, trẻ từ 12- 23 
tháng tỷ lệ tiến triển thành XHGTC mạn tính 
tương tự nhau ở nhóm tiêm và không tiêm 
vaccine (7% so với 10%)(3). 
Như vậy nhóm Xuất huyết giảm tiểu cầu 
miễn dịch có tình trạng xuất huyết nhiều, nặng, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 229
số lượng tiểu cầu thấp, khi được chú ý can thiệp 
điều trị phối hợp sớm, tích cực, theo dõi sát vẫn 
có thể cho kết quả đáp ứng rất tốt (ngay cả 
trường hợp không thể dùng IVIG vì lý do chi phí 
cao). Nhóm không đáp ứng là những trường 
hợp tiểu cầu tăng chậm và dao động, đây là 
những trường hợp cần theo dõi sát để tìm ra lựa 
chọn điều trị phù hợp. 
KẾT LUẬN 
Chúng tôi ghi nhận loạt ca bệnh nhi bị Xuất 
huyết giảm tiểu cầu miễn dịch có tiền sử tiêm 
phòng trong vòng 42 ngày trước thời điểm phát 
bệnh. Hầu hết diễn biên cấp tính, chủ yếu chỉ có 
biểu hiên xuất huyết dưới da, và đa số đáp ứng 
tốt với điều trị. Chúng tôi chưa có bằng chứng 
chứng minh tình trạng Xuất huyết giảm tiểu cầu 
miễn dịch ở những bệnh nhi này là do tiêm 
phòng. Cần có các nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn 
về mối liên quan giữa tiêm phòng và xuất huyết 
giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Black C, Kaye JA, Jick H (2003). MMR vaccine and idiopathic 
thrombocytopaenic purpura. British Journal of Clinical 
Pharmacology, 55(1):107–111. 
2. Bolton-Maggs PHB (2000). Idiopathic thrombocytopenic 
purpura. Arch Dis Child, 83:220–222. 
3. France EK, Glanz J, Xu S, Hambidge S, Yamasaki K, Black SB, et 
al. (2008). Vaccine Safety Datalink Team. Risk of immune 
thrombocytopenic purpura after measles-mumps-rubella 
immunization in children. Pediatrics, 121:687-92. 
4. Huỳnh Nghĩa, Nguyễn Tú Anh (2011). Đánh giá hiệu quả của 
immunoglobulin truyền tĩnh mạch và prednisone trong điều trị 
xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch giai đoạn cấp ở trẻ em tại 
BV. Truyền máu Huyết học TP.HCM. Y học Thành phố Hồ Chí 
Minh, 15(4):121–126. 
5. Kühne T., Buchanan G.R., Zimmerman S., et al. (2003). A 
prospective comparative study of 2540 infants and children 
with newly diagnosed idiopathic thrombocytopenic purpura 
(ITP) from the intercontinental childhood ITP study group. 
Journal of Pediatrics, 143(5):605–608. 
6. Labarque V, Van Geet C. (2014). Clinical practice: immune 
thrombocytopenia in paediatrics. Eur J Pediatr, 173(2):163-72. 
7. Mai Lan, Hoàng Thị Hồng, Trần Thu Thủy và cộng sự (2018). 
Nghiên cứu mô hình bệnh tật tại khoa bệnh máu trẻ em, Viện 
Huyết học - Truyền máu Trung ương giai đoạn 2016-2017. Y học 
Việt Nam, 408(5):72–80. 
8. Neunert C.E., Buchanan G.R., Imbach P, et al. (2008). Severe 
hemorrhage in children with newly diagnosed immune 
thrombocytopenic purpura. Blood, 112(10):4003–4008. 
9. Nguyễn Công Khanh, Bùi Văn Viên (2009). Hội chứng xuất 
huyết ở trẻ em. - Bài giảng Nhi khoa, 102–117. Nhà xuất bản Y 
học Hà Nội, pp.102–117. 
10. Nguyễn Hoàng Mai Anh (2008). Đánh giá hiệu quả của phác đồ 
dùng prednisolone uống liều cao với methylprednisolone tĩnh 
mạch trong điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu cấp tính lần đầu 
mức độ nặng ở trẻ em. Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y 
dược TP Hồ Chí Minh. 
11. O’Leary ST, Glanz JM, McClure DL, Akhtar A, Daley MF, 
Nakasato C, et al. (2012). The risk of immune thrombocytopenic 
purpura after vaccination in children and adolescents. Pediatrics, 
129:248-55. 
12. Phan Thị Thu Trang, Lâm Thị Mỹ (2012). Khảo sát đáp ứng điều 
trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch cấp ở trẻ em có tiểu cầu 
dưới 20.000/ml tại Bệnh viện Nhi đồng 2 từ 15-03-2011 đến 15-
08-2011. Y học Việt Nam, 8(396):27–36. 
13. Woo Emily Jane Woo, Wise Robert P. Wise, Wise Robert P. 
Wise, ey et al. (2011). Thrombocytopenia after vaccination: Case 
reports to the US Vaccine Adverse Event Reporting System, 
1990–2008. Vaccine, 29:1319–1323. 
Ngày nhận bài báo: 25/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 04/09/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019 

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_loat_ca_benh_nhi_xuat_huyet_giam_tieu_cau_mien_dich.pdf