Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan

Hội chứng gan phổi (Hepatopulmonary syndromeHPS) là một biến chứng hiếm. Tỉ lệ xuất hiện từ 4%–

40% trên bệnh nhi xơ gan. Chẩn đoán xác định HPS

dựa vào bộ ba gồm bệnh gan mạn tính, giảm oxy máu

và bất thường mao mạch phổi. HPS được coi là tiên

lượng xấu đối với bệnh nhân xơ gan. Các biện pháp

điều trị hỗ trợ trong thời gian chờ ghép gan bao gồm

oxy liệu pháp, các thuốc có tác dụng giúp co mạch

phổi, một số thủ thuật như TIPS. Trong phạm vi bài

báo này, chúng tôi báo cáo một trường hợp một trẻ

nữ 15 tuổi xơ gan có biến chứng tăng áp lực tĩnh

mạch cửa kèm theo hội chứng HPS. Chẩn đoán xác

định bằng siêu âm tim cản âm, chụp xạ hình tưới máu

phổi giúp tiên lượng và lập kế hoạch điều trị

Từ khóa: Hội chứng gan phổi, xơ gan, siêu âm

tim cản âm

Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan trang 1

Trang 1

Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan trang 2

Trang 2

Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan trang 3

Trang 3

Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan trang 4

Trang 4

Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 16820
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan

Báo cáo ca bệnh: Hội chứng gan phổi ở trẻ xơ gan
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 498 - THÁNG 1 - SỐ 1 - 2021 
99 
BÁO CÁO CA BỆNH: HỘI CHỨNG GAN PHỔI Ở TRẺ XƠ GAN 
Nguyễn Phạm Anh Hoa*, Bùi Thị Hương Thùy*, Phạm Thị Hải Yến*, 
Cao Việt Tùng*, Vũ Thị Dinh*, Hoàng Văn Tám*, Đỗ Văn Đô*, 
Trịnh Thị Thủy*, Trần Thị Dự*, Nguyễn Đỗ Phương Thúy* 
TÓM TẮT26 
Hội chứng gan phổi (Hepatopulmonary syndrome- 
HPS) là một biến chứng hiếm. Tỉ lệ xuất hiện từ 4%– 
40% trên bệnh nhi xơ gan. Chẩn đoán xác định HPS 
dựa vào bộ ba gồm bệnh gan mạn tính, giảm oxy máu 
và bất thường mao mạch phổi. HPS được coi là tiên 
lượng xấu đối với bệnh nhân xơ gan. Các biện pháp 
điều trị hỗ trợ trong thời gian chờ ghép gan bao gồm 
oxy liệu pháp, các thuốc có tác dụng giúp co mạch 
phổi, một số thủ thuật như TIPS. Trong phạm vi bài 
báo này, chúng tôi báo cáo một trường hợp một trẻ 
nữ 15 tuổi xơ gan có biến chứng tăng áp lực tĩnh 
mạch cửa kèm theo hội chứng HPS. Chẩn đoán xác 
định bằng siêu âm tim cản âm, chụp xạ hình tưới máu 
phổi giúp tiên lượng và lập kế hoạch điều trị 
Từ khóa: Hội chứng gan phổi, xơ gan, siêu âm 
tim cản âm 
SUMMARY 
HEPATOPULMONARY SYNDROME IN 
CHILREN WITH CIRRHOSIS 
Hepatopulmonary syndrome (HPS) is a rare 
complication. The rate appears from 4% - 40% in 
patients with cirrhosis. HPS is charactezied by the triad 
of chronic liver disease, abnormal arterial oxygenation 
congenital portosysmic shunts. HPS is considered a 
poor prognosis in cirrhotic patients. Supportive 
treatments pending a liver transplant include oxygen 
therapy, medications that help with pulmonary 
vasoconstriction, and some procedures such as TIPS. 
For the purposes of this article, we report a case of a 
15-year-old female with cirrhosis of the liver with 
complications of portal hypertension with HPS 
syndrome. Diagnosis confirmed by transthoracic 
contrast echocardiography, contrast pulmonary 
angiography helps prognosis and reasonable 
treatment plan. 
Key words: Hepatopulmonary syndrome, 
cirrhosis, transthoracic contrast echocardiography 
II. BÁO CÁO CA BỆNH 
Bệnh nhân nữ 15 tuổi, nhập viện do có tình 
trạng lách to và chức năng gan bất thường trẻ 
tỉnh táo, thể trạng suy dinh dưỡng với BMI 16, 
chậm phát triển trí tuệ mức độ trung bình với 
test IQ (60 -65), phổi thông khí rõ, không có ran, 
bụng mềm, gan không sờ thấy dưới bờ sườn 
*Bệnh viện Nhi Trung Ương 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Phạm Anh Hoa 
Email: dranhhoa@gmail.com 
Ngày nhận bài: 20.10.2020 
Ngày phản biện khoa học: 24.11.2020 
Ngày duyệt bài: 11.12.2020 
phải, lách 4cm dưới bờ sườn mật độ chắc, không 
có móng tay khum, không có ngón tay dùi trống, 
hệ thống tim mạch bình thường. Tuy không có 
các bất thường về hô hấp và tim mạch trên thăm 
khám thông thường nhưng bệnh nhân luôn có 
tình trạng khó thở, tím môi và đầu chi. Đo SpO2 
ở tư thế nằm 60%, SpO2 tư thế ngồi 62%.Tình 
trạng thiếu oxy cải thiện tốt sau thở oxy mask 
5lít/phút song chỉ đạt tới 90 -92%. Khai thác tiền 
sử, bệnh nhân có tiền sử chẩn đoán và điều trị 
động kinh từ lúc 5 tuổi, kiểm soát cơn giật tốt, 
chậm phát triển trí tuệ từ nhỏ, mẹ ruột có HbsAg 
dương tính, trẻ chưa được thăm dò các xét 
nghiệm về chức năng gan trước đó. 
Các xét nghiệm cho thấy bạch cầu 5.32 G/L 
và tiểu cầu giảm 57G/L, tăng transaminase với 
GOT 96UI/L, GPT 34 UI/L, ure và creatinine 
trong giới hạn bình thường 3,6 mmol/lít và 40 
mmol/lít).Chức năng đông máu Prothrombin 
62%, INR 1,41, APTT 42,5s, Fibrinogen 2.04g/L, 
Albumin 32.5g/L, protid máu 61,7g/L. Các xét 
nghiệm vi sinh HBsAg dương tính, HBeAg dương 
tính và HBV DNA 44000 copies/ml. Phân tích trên 
khí máu động mạch cho thấy tình trạng suy hô 
hấp type 1 với PO2 là 39mmHg, AaDO2 (chênh 
áp lực riêng phần oxy phế nang – động mạch) = 
78,23. Siêu âm ổ bụng có hình ảnh lách to, chiều 
dài dọc lách 136 mm, gan nhu mô không đều, 
bờ gan không đều, teo hạ phân thùy IV. Thăm 
dò hình ảnh về hô hấp trên phim XQuang ngực 
thẳng không có hình ảnh viêm phổi chỉ thấy tăng 
đậm khoảng kẽ vùng đáy và mạch phổi. 
Tình trạng lâm sàng và xét nghiệm cơ bản 
cho thấy tình trạng tổn thương gan mạn tính. 
Bệnh nhân được tiếp cận chẩn đoán xác định các 
biến chứng của tình trạng bệnh gan mạn tính, 
tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch cửa và nguyên 
nhân thiếu oxy. 
Siêu âm Doppler mạch gan và tĩnh mạch cửa 
cho thấy các dấu hiệu gián tiếp của hội chứng 
tăng áp lực tĩnh mạch cửa với. Nghi ngờ này 
được khẳng định bằng kết quả nội soi dạ dày 
thực quản vớigiãn tĩnh mạch thực quản độ 2, 
kèm theo viêm toàn bộ niêm mạch dạ dày. Chụp 
cắt lớp vi tính lồng ngực độ phân giải cao không 
có hình ảnh bất thường, siêu âm tim cho thấy 
phân suất tống máu khoảng 59% với chức năng 
tâm thu thất trái bình thường giúp loại trừ các 
vietnam medical journal n01 - JANUARY - 2021 
100 
nguyên nhân thiếu oxy do bệnh lý phổi thông 
thường. Tình trạng suy hô hấp mạn tính có thích 
nghi ở bệnh nhân có tổn thương gan mạn tính, 
xơ gan, tăng áp lực tĩnh mạch hướn ... ăng 
áp lực tĩnh mạch cửa và là một trong những biến 
chứng nặng của xơ gan. Những thay đổi mạch 
máu ở phổi trong bệnh lí gan phổi là hậu quả 
của nhiều nguyên nhân như giãn mạch ở tiền 
mao mạch và tại mao mạch, sự thông thương 
trực tiếp giữa động mạch và tĩnh mạch. Hiện 
tượng tạo shunt phải – trái ở mạch máu dẫn đến 
sự rối loạn trao đổi khí. 
Triệu chứng lâm sàng của HPS khá đa dạng, 
bao gồm cả các triệu chứng của bệnh gan mạn 
tính và các triệu chứng của tình trạng thiếu oxy 
mạn như ngón tay, ngón chân dùi trống, xanh 
tím trung tâm và ngoại vi. Khó thở và xanh tím là 
các triệu chứng thường gặp nhất. Khó thở và 
ngón tay dùi trống là các triệu chứng đặc trưng 
và dễ nhận biết trên lâm sàng. Khó thở khi ở tư 
thế đứng hoặc ngồi và hết khi nằm (platypnea). 
Tình trạng thiếu oxy máu động mạch ở tư thế 
đứng hoặc ngồi và hết khi nằm (orthrodeoxia). 
Tình trạng này xuất hiện với tỷ lệ từ 5 – 88% ở 
bệnh nhân xơ gan nhưng thường thấy hơn ở 
những bệnh nhân có tình trạng thiếu oxy máu 
trầm trọng trong hội chứng gan phổi. Tuy vậy 
triệu chứng này không phải là triệu chứng đặc 
trưng của hội chứng gan phổi. Các triệu chứng 
khó thở và thiếu oxy ở tư thế đứng này được cải 
thiện sau khi ghép gan. Bệnh nhân có sao mạch 
dưới da có nguy cơ cao giãn mạch hệ thống và 
mạch phổi, hay có bất thường về trao đổi khí. Sự 
xuất hiện đồng thời tăng áp lực tĩnh mạch cửa, 
sao mạch ở da, ngón tay dùi trống và thiếu oxy 
máu trên lâm sàng có thể coi là các triệu chứng 
gợi ý hội chứng gan phổi. 
Giảm oxy máu là chỉ điểm quan trọng của hội 
chứng gan phổi. Giảm oxy máu nhẹ là đặc điểm 
phổ biến của bệnh gan mạn tính, nó xuất hiện ở 
1/3 số bệnh nhân. Ngược lại, giảm oxy máu 
nặng (PaO2 < 60 mmHg) ít gặp ở bệnh nhân xơ 
gan đơn thuần mà thường kết hợp với bệnh tim 
phổi, đặc biệt khi có tình trạng giảm oxy máu 
động mạch nặng. Naeije và cộng sự nghiên cứu 
ở 100 bệnh nhân xơ gan nặng thì 28% có PaO2 
< 70 mmHG nhưng chỉ 8% có PaO2 < 60 
mmHg, đối chiếu với siêu âm tim có tăng độ cản 
quang đều có shunt trong phổi. 
Việc đánh giá tình trạng oxy máu động mạch 
qua PaO2 và AaDO2 rất quan trọng trong việc 
phân chia giai đoạn của hội chứng gan phổi vàcó 
ý nghĩa tiên lượng, dự báo nguy cơ khi chỉ định 
ghép gan. PaO2 < 50 mmHg: Rất nặng. 50 
mmHg < PaO2 < 60 mmHg: Nặng. 60 mmHg ≤ 
PaO2 < 80 mmHg: Nhẹ, vừa. AaDO2 (chênh áp 
áp lực riêng phần oxy phế nang – động mạch): 
Nhạy hơn trong xác định sớm giảm oxy động mạch. 
AaDO2 = PAO2 – PaO2 
PAO2 = FiO2 x (PB- PH2O) – PACO2/k PB: áp 
suất khí quyển (760 mmHg). 
PH2O: áp suất hơi nước bão hòa (47 mmHg) 
PACO2 = PaCO2, k = 0,8 
Bình thường (lúc nghỉ ngơi và thở trong điều 
kiện khí phòng) AaDO2 < 15 mmHg, và < 20 
mmHg (ở người > 60 tuổi). Xét về PaO2, bệnh 
nhân trong ca bệnh này thuộc nhóm nặng và 
AaDO2 là 78,23, cao hơn gấp 3 lần so với giới 
hạn bình thường. 
Cơ chế gây giảm oxy máu động mạch ở bệnh 
nhân xơ gan và bệnh nhân hội chứng gan phổi 
đang còn nhiều tranh cãi. Có nhiều giả thiết như 
sự thay đổi ái tính của hemoglobin đối với oxy; 
shunt phải – trái: Sự thông thương trực tiếp giữa 
động mạch- tĩnh mạch, nếu nhiều sẽ gây thiếu 
oxy máu nặng, không hồi phục khi thở oxy 
100%, và giãn mạch máu trong phổi được coi là 
nguyên nhân chính. 
Giãn mạch máu trong phổi ở bệnh nhân xơ 
gan và hội chứng gan phổi gặp ở 13 – 47% bệnh 
nhân xơ gan giai đoạn cuối và 10% ở bệnh nhân 
không có giảm oxy máu ở giai đoạn sớm của xơ 
gan. Bình thường, đường kính mao mạch phổi 
khoảng 8 – 15micromet, khi thở ở không khí 
phòng, oxy từ các phế nang phân bố một cách 
nhanh chóng vào mao mạch, oxy hóa được cả 
những tế bào hồng cầu ở dòng chảy trung tâm. 
Trong hội chứng gan phổi, đường kính các mao 
mạch, giãn từ 15- 100 micromet, oxy từ phế 
nang không thể khuếch tán vào trung tâm của 
các mao mạch phổi để oxy hóa hemoglobin của tế 
bào hồng cầu ở dòng chảy trung tâm mao mạch. 
Mặc dù nguyên nhân của giãn mạch trong hội 
chứng gan phổi vẫn còn chưa được biết rõ, các 
giả thiết về cơ chế bệnh sinh như sự giảm giáng 
hóa các chất làm giãn động mạch phổi như 
prostagladin, calcitonin, glucogon, nitric ocide, 
substance P, yếu tố hoạt hóa tiểu cầu ở các bệnh 
nhân xơ gan, trong khi các chất như tyrosine, 
serotonin, endothelin 1 có tác dụng co mạch lại 
giảm sút. Sự giảm đáp ứng của mạch đối với 
angiotensin II cũng là triệu chứng hay gặp ở 
bệnh nhân xơ gan. NO là chất giãn mạch mạnh, 
không bền, khả năng tái hoạt động cao, khí có 
thể khuếch tán, được sản xuất bởi nhiều mô, đặc 
biệt là tế bào endorthelin lòng mạch và tế bào 
thần kinh là nguyên nhân chính gây giãn mạch 
trong xơ gan mất bù. Ở bệnh nhân có hội chứng 
vietnam medical journal n01 - JANUARY - 2021 
102 
gan phổi NO thường tăng. 
Để chẩn đoán hội chứng gan phổi, có thể tiếp 
cận ban đầu bằng các xét nghiêm: Khí máu động 
mạch ở tư thế nằm ngửa, bệnh nhân trong tình 
trạng ổn định và thở khí phòng. AaO2 > 20 
mmHg và hoặc pO2 < 70mmHg [3]. Một nghiên 
cứu tiến cứu với 98 bệnh nhân quan sát thấy tỷ 
lệ mắc HPS là 32% khi giá trị AaO2 cut off là ≥ 
15 mmHg, 31% khi AaO2 >20mmHg và 28% khi 
tính AaO2 theo tuổi. Nghiên cứu này cũng chỉ ra 
nếu sử dụng PaO2 thì độ nhạy kém hơn so với 
HPS [4]. 
- Test oxy: Nếu bệnh nhân đáp ứng với thở 
oxy và tăng PaO2 > 60mmHg, có thể loại trừ 
shunt. PaO2 ở mức 50 mmHg, nghi ngờ shunt. 
PaO2 ở mức 15 – 20mmHg, shunt gần như chắc 
chắc là cơ chế thiếu oxy máu động mạch. Nếu 
shunt là nguyên nhân của thiếu oxy máu thì tình 
trạng thiếu oxy máu sẽ không được cải thiện sau 
khi ghép gan 
- Siêu âm tim cản âm: Là test sàng lọc tốt 
nhất để chẩn đoán giãn mạch phổi. Đây được coi 
là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán HPS [5]. 
- Ghi hình bằng Tech 99m gắn albumin: Là 
phương pháp tốt để chẩn đoán giãn mạch phổi. 
Tiêm Tech 99mm gắn albumin vào tĩnh mạch 
ngoại vi. Albumin có kích thước từ 20 – 50 
microm, không qua được mao mạch phổi bình 
thường D= 8- 15 micromet, song có thể qua 
được mạch phổi giãn, tích tụ trong các cơ quan 
khác như não, thận, lá lách và tuyến giáp. Ngoài 
ra phương pháp này cho phép định lượng mức 
độ shunt trong phổi[6]. Độ nhạy của kĩ thuật này 
thay đổi từ 20% đến 96%, độ nhạy cao trong 
trường hợp nặng, thấp trong trường hợp trung 
bình nhẹ. Abrams GA và cộng sự sử dụng kĩ 
thuật này để thực hiện trên 25 bệnh nhân mắc 
HPS, 25 bệnh nhân xơ gan không có HPS và 15 
đối tượng thiếu oxy do bệnh phổi nội tại cho 
thấy kết quả dương tính ở 21 trong số 25 bệnh 
nhân mắc HPS và âm tính trong các trường hợp 
còn lại. Tất cả các bệnh nhân dương tính có giá 
trị trị PO2 < 60 mmHg [7]. 
- Chụp động mạch phổi là phương pháp chẩn 
đoán có giá trị trong giãn mạch máu phổi, nhưng 
là biện pháp thăm dò có xâm lấn nên ít được 
dùng. Tuy nhiên phương pháp này giúp chẩn 
đoán phân type và tiên lượng điều trị. Type 1 
loại khuếch tán đáp ứng với test oxy 100%, đạt 
PaO2 > 200mmHg sau test. Type 2 loại khu trú 
tương tự giống như dị tật thực sự, kém đáp ứng 
và biện pháp duy nhất để cải thiện là ghép gan. 
Các bệnh nhân có hội chứng gan phổi được 
theo dõi và điều trị tùy mức độ bệnh. Ở mức độ 
nhẹ đến trung bình: bệnh nhân cần được theo 
dõi tiến triển bệnh 6 đến 12 tháng một lần bằng 
phương pháp đo oxy qua khí máu, phân tích khí 
máu động mạch để xác định tình trạng xấu đi và 
đưa ra chiến lược điều trị tĩnh cực khác như 
ghép gan và/ hoặc bổ sung oxy. Việc bổ sung 
oxy chỉ cần thiết khi có tình trạng thiếu oxy do 
tập thể dục. Những bệnh nhân này sẽ được kiểm 
tra bằng nghiệm pháp đi bộ 6 phút định kì. Đối 
với bệnh nhân hội chứng gan phổi nặng hoặc rất 
nặng: Điều trị bằng bổ sung oxy dài hạn và lập 
kế hoạch ghép gan. Liệu pháp oxy chỉ cải thiện 
oxy khi mà có các bất thường liên quan đến 
shunt mạch máu trong phổi. Một số biện pháp 
can thiệp khác gồm TIPS, thuốc co mạch cũng 
được sử dụng nhưng chưa có nghiên cứu nào chỉ 
ra rõ ràng về hiệu quả. Liệu pháp ghép gan cho 
những bệnh nhân bị nặng hoặc rất nặng, được 
chứng minh là biện pháp điều trị hiệu quả duy 
nhất với HPS giúp cải thiện tỉ lệ sống sót [8]. 
Ghép gan giúp giảm shunt đáng kể ở một số 
bệnh nhân. Pascasio và cộng sự quan sát thấy rằ
ng tỉ lệ sống sót sau ghép gan là như nhau ở cả 
2 nhóm bệnh nhân có và không có HPS[9]. 
V. KẾT LUẬN 
Hội chứng gan phổi được đặc trưng bởi sự 
hiện diện của bộ ba: Bệnh gan mạn tính, giảm 
oxy máu, bất thường vi mao mạch phổi. Đây là 
một biến chứng nghiêm trọng của xơ gan làm 
xấu đi tiên lượng của bệnh nhân xơ gan. Các 
bệnh nhân có bệnh lý gan mạn tính cần được 
tiến hành các biện pháp chẩn đoán sớm ngay khi 
có các triệu chứng lâm sàng như khó thở, xanh 
tím... Siêu âm tim có chất cản quang và chụp xạ 
hình phổi là các xét nghiệm có giá trị cao trong 
chẩn đoán xác định. Bệnh nhân xơ gan có hội 
chứng gan phổi có thời gian sống ngắn hơn so 
với nhóm xơ gan không có hội chứng gan phổi 
và cần được theo dõi chặt chẽ và ưu tiên trong 
danh sách chờ ghép gan. Trong thời gian chờ 
tạng ghép hoặc các trường hợp chống chỉ định 
ghép tạng, các bệnh nhân HPS cần được điều trị 
bảo tồn thông qua oxy liệu pháp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dinh- Xuan A.T, Naeije R (2004). The 
hepatopulmonary syndrom: NO way out?. Eur 
Respir J, 23, 661–662. 
2. M.Bahtoei, M.D (2000). Hepatopulmonary 
syndrom. department of internal Medicin. 
3. Krowka M.J., Wiseman G.A., Burnett O.L. và 
cộng sự. (2000). Hepatopulmonary syndrome: a 
prospective study of relationships between severity 
of liver disease, PaO(2) response to 100% oxygen, 
and brain uptake after (99m)Tc MAA lung 
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 498 - THÁNG 1 - SỐ 1 - 2021 
103 
scanning. Chest, 118(3), 615–624. 
4. Schenk P., Schöniger-Hekele M., Fuhrmann 
V. và cộng sự. (2003). Prognostic significance of 
the hepatopulmonary syndrome in patients with 
cirrhosis. Gastroenterology, 125(4), 1042–1052. 
5. Rodriguez-Roisin R. và Roca J. (1997). 
Hepatopulmonary syndrome: the paradigm of liver-
induced hypoxaemia. Baillieres Clin Gastroenterol, 
11(2), 387–406. 
6. Rodríguez-Roisin R. và Krowka M.J. (2008). 
Hepatopulmonary syndrome--a liver-induced lung 
vascular disorder. N Engl J Med, 358(22), 2378–2387. 
7. Lasch H.M., Fried M.W., Zacks S.L. và cộng sự. 
(2001). Use of transjugular intrahepatic portosystemic 
shunt as a bridge to liver transplantation in a patient 
with severe hepatopulmonary syndrome. Liver Transpl, 
7(2), 147–149. 
8. Swanson K.L., Wiesner R.H., và Krowka M.J. 
(2005). Natural history of hepatopulmonary 
syndrome: Impact of liver transplantation. 
Hepatology, 41(5), 1122–1129. 
9. Pascasio J.M., Grilo I., López-Pardo F.J. và 
cộng sự. (2014). Prevalence and severity of 
hepatopulmonary syndrome and its influence on 
survival in cirrhotic patients evaluated for liver 
transplantation. Am J Transplant, 14(6), 1391–1399.
PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT MẪU NƯỚC TIỂU GIẢ ĐỊNH ỨNG DỤNG 
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGOẠI KIỂM TỔNG PHÂN TÍCH NƯỚC TIỂU 
Vũ Quang Huy1,2, Lê Văn Chương1,2, 
 Trần Nhật Nguyên2, Huỳnh Thị Diễm Phúc2 
TÓM TẮT27 
Mục tiêu: Đánh giá chất lượng mẫu nước tiểu giả 
định sử dụng trong chương trình ngoại kiểm tổng 
phân tích nước tiểu. Đánh giá tính đồng nhất và độ ổn 
định của bộ mẫu đã sản xuất thử nghiệm theo tiêu 
chuẩn ISO GUIDE 35:2017. Phương pháp: Mẫu nước 
tiểu bình thường được sản xuất và làm nền để sản 
xuất bộ mẫu nước tiểu bất thường với những thông số 
(tỷ trọng (Specific Gravity – SG), pH, glucose (GLU), 
protein (PRO), urobilinogen (URO), bilirubin (BIL), 
nitrite (NIT), leukocyte (LEU), keton (KET), blood 
(BLO)) đã định trước. Đánh giá tiền phân tích và đánh 
giá độ đồng nhất bộ mẫu trước khi chia thành 2 lô bảo 
quản ở 2 điều kiện nhiệt độ khác nhau là 2 – 8C và -
20C. Sau đó đánh giá độ ổn định dài hạn trong 3 
tháng tại 6 thời điểm là 1 tuần, 2 tuần, 4 tuần, 6 tuần, 
8 tuần và 12 tuần. Đánh giá độ ổn định ngắn hạn 
trong điều kiện vận chuyển sau 5 ngày, 8 ngày và 10 
ngày gửi mẫu đến các phòng xét nghiệm tham gia. 
Kết quả: Sản xuất được mẫu nước tiểu giả định bất 
thường nhằm ứng dụng vào chương trình ngoại kiểm 
tổng phân tích nước tiểu10 thông số. Bộ mẫu sau khi 
sản xuất đạt độ đồng nhất (giá trị p các thông số đều 
lớn hơn 0.05). Mẫu nước tiểu sản xuất ra đạt độ ổn 
định trong thời hạn 3 tháng ởđiều kiện nhiệt độ -20C 
(p>0.05). Riêng bộ mẫu giữ ở 2- 8C, có LEU ổn định 
chỉ trong 6 tuần, URO ổn định trong 8 tuần, các thông 
số SG, pH, GLU, PRO, NIT, KET, BLO ổn định trong 12 
tuần (p>0.05). Đối với độ ổn định ngắn hạn, các 
thông số leukocytes, bilirubin và urobilinogen đạt độ 
ổn định trong thời gian 8 ngày vận chuyển, các thông 
1Đại học y dược Tp.Hồ Chí Minh 
2Trung tâm Kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm Y học 
– Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
Chịu trách nhiệm chính: Vũ Quang Huy 
Email: drvuquanghuy@gmail.com 
Ngày nhận bài: 19.10.2020 
Ngày phản biện khoa học: 25.11.2020 
Ngày duyệt bài: 9.12.2020 
số còn lại đạt độ ổn định trong thời gian 10 ngày vận 
chuyển (p-value > 0.05). Kết luận: Xây dựng hoàn 
chỉnh quy trình sản xuất mẫu ngoại kiểm nước tiểu. 
Mẫu nước tiểu giả định đạt độ đồng nhất sau khi sản 
xuất. Đạt độ ổn định dài hạn trong vòng 3 tháng ở -
20C,6 tuần ở 2–8C, đạt độ ổn định ngắn hạn 8 ngày 
trong điều kiện vận chuyển mẫu sản xuất đủ điều kiện 
sử dụng cho chương trình ngoại kiểm tổng phân tích 
nước tiểu. 
Từ khóa: Tổng phân tích nước tiểu, ngoại kiểm, 
độ ổn định, độ đồng nhất. 
SUMMARY 
PRODUCTION METHOD OF SIMULATED 
URINE UTILIZED IN URINALYSIS 
EXTERNAL QUALITY ASSESSMENT SCHEME 
Objectives: To study methods of producing 
simulated urine samples used in external quality 
assessment (EQA) program. The homogeneity and 
stability of producing samples was evaluated 
according to ISO GUIDE 35:2017. Methods: Ten 
parameters (density (Specific Gravity-SG), pH, glucose 
(GLU), protein (PRO), urobilinogen (URO), bilirubin 
(BIL), nitrite (NIT), leukocyte (LEU), keton (KET), 
blood (BLO)) of normal urine sample were adjusted to 
produce abnormal urine sample with predetermined 
characteristics. The sets of producing samples were 
evaluated for pre-analysis and assessment of 
homogeneity then divided into 2 lots and stored at 
different temperature conditions (2 - 8C and -20C). 
The long-term stability is assessed for 3 months at 6 
periods of time comprising: 1, 2, 4, 6, 8 and 12 
weeks. Sort-term stability was evaluated in the 
shipping conditions after 5, 8 and 10 days deliver to 
participant laboratories. Results: Two batches of 
simulated urine samples have been produced and 
evaluated for homogeneity and stability. All sample 
lots were homogenous (p value >0.05). All parameters 
of simulated urine were stable in 3 months at -20ºC 
(p> 0.05). However, at 2-8ºC LEU and BIL were stable 
in 6 weeks, URO was stable in 8 weeks, the other 

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_ca_benh_hoi_chung_gan_phoi_o_tre_xo_gan.pdf