Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên

“Ngôn ngữ là hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng, làm phương tiện để giao tiếp chung trong một cộng đồng” (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê, 2015, tr.1084). Với tư cách là phương tiện giao tiếp của con người nên ngôn ngữ không nằm ngoài quy luật vận động và phát triển, bởi theo Ăngghen (1994, tr.519) “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Sự biến đổi của ngôn ngữ bao gồm sự biến đổi của ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và thậm chí cả văn tự. Ngữ âm là vỏ âm thanh của ngôn ngữ, vì vậy nhắc đến sự biến đổi của ngôn ngữ, người ta thường nghĩ ngay đến sự biến đổi của ngữ âm.

Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng các tư liệu ngôn ngữ nói và tư liệu ngôn ngữ viết của

tiếng Việt, để bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm của vận nguyên. Bài viết sử dụng tổng hợp các

phương pháp nghiên cứu của các ngành ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học lịch sử, ngữ âm học thực nghiệm, Hán Nôm học, phương ngôn học,

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 1

Trang 1

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 2

Trang 2

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 3

Trang 3

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 4

Trang 4

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 5

Trang 5

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 6

Trang 6

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 7

Trang 7

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 8

Trang 8

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 9

Trang 9

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang Trúc Khang 08/01/2024 3860
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong Tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên
18 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
“Ngôn ngữ là hệ thống những âm, những từ 
và những quy tắc kết hợp chúng, làm phương tiện 
để giao tiếp chung trong một cộng đồng” (Từ điển 
Tiếng Việt, Hoàng Phê, 2015, tr.1084). Với tư cách 
là phương tiện giao tiếp của con người nên ngôn 
ngữ không nằm ngoài quy luật vận động và phát 
triển, bởi theo Ăngghen (1994, tr.519) “Vận động 
hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự 
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ 
sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Sự biến 
đổi của ngôn ngữ bao gồm sự biến đổi của ngữ âm, 
ngữ pháp, từ vựng và thậm chí cả văn tự. Ngữ âm 
là vỏ âm thanh của ngôn ngữ, vì vậy nhắc đến sự 
biến đổi của ngôn ngữ, người ta thường nghĩ ngay 
đến sự biến đổi của ngữ âm.
NGUYỄN ĐÌNH HIỀN *
*Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, hienac@yahoo.com
Ngày nhận bài: 05/7/2018; ngày sửa chữa: 26/7/2018; ngày duyệt đăng: 20/8/2018
BÀN VỀ MỘT SỐ MÔ HÌNH BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM 
TRONG TIẾNG VIỆT TRÊN CƠ SỞ NGỮ LIỆU ÂM 
HÁN VIỆT CỦA VẬN NGUYÊN
TÓM TẮT
Bài viết dựa trên ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên để tìm ra các mô hình biến đổi ngữ âm 
trong tiếng Việt như: 1. *[Puɑ-]→[Fɑ-]; 2. *[uɑ-]→*[uo-]→[o-]; 3. *[ɑ-]→[ɯɤ-]; 4. *[Puɑ-]→*[Fɑ-] 
→[Fɯɤ-]; 5. *[Huɑ-]→*[uɑ-]→*[vɑ-]→[vɯɤ-]; 6. *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-]; 7. *[uɑ-]→[uie-]. Kết quả 
nghiên cứu của bài viết có thể được sử dụng để giải thích hiện tượng một số từ có hai cách đọc, tìm và 
giải thích một số từ đồng nguyên và phục nguyên một số âm đọc cổ của tiếng Việt.
Từ khóa: âm Hán Việt, thanh mẫu, vận mẫu, âm chính, âm đệm, âm cuối
Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng các tư 
liệu ngôn ngữ nói và tư liệu ngôn ngữ viết của 
tiếng Việt, để bàn về một số mô hình biến đổi ngữ 
âm của vận nguyên. Bài viết sử dụng tổng hợp các 
phương pháp nghiên cứu của các ngành ngôn ngữ 
học xã hội, ngôn ngữ học lịch sử, ngữ âm học thực 
nghiệm, Hán Nôm học, phương ngôn học, 
Do ngữ liệu của vận dương và vận nghiêm 
tương đối ít nên rất khó để tìm ra quy luật biến 
đổi ngữ âm của 2 vận này. Song, vận dương và 
vận nghiêm có nguyên âm chính giống như vận 
nguyên. Theo lý thuyết của loại hình học, ngữ âm 
biến đổi luôn theo những quy luật nhất định và 
diễn ra đồng loạt chứ không riêng lẻ. Vì vậy sau 
khi tìm ra những mô hình biến đổi ngữ âm của vận 
nguyên, chúng tôi dựa vào kết quả nghiên cứu này 
kết hợp với những ngữ liệu của vận dương và vận 
19KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
nghiêm để bàn về những mô hình biến đổi ngữ âm 
của chúng. 
2. CÁCH ĐỌC CỦA VẬN NGUYÊN Ở ĐỊA 
HẠT TIẾNG HÁN CỔ
Âm Hán Việt là cách đọc chữ Hán của người 
Việt, cách đọc này bắt nguồn từ cách đọc của tiếng 
Hán cổ. Vì vậy, để làm sáng tỏ những biến đổi 
ngữ âm của vận nguyên trong tiếng Việt, trước tiên 
chúng ta cần phải tìm ra âm trị của nó ở tiếng Hán 
cổ (bao gồm tiếng Hán trung cổ và thượng cổ).
Các nhà Hán ngữ học thường căn cứ vào vận 
thư của các thời kỳ để nghiên cứu lịch sử ngữ âm 
tiếng Hán. Vận thư thực chất là một loại sách công 
cụ được xếp theo vận (韵), phục vụ cho việc tìm 
chữ hiệp vần trong sáng tác thơ ca. Các chữ cùng 
một vận có âm chính và âm cuối hoàn toàn giống 
nhau, chúng có thể khác nhau về âm đệm hoặc 
thanh mẫu.
Vận nguyên (元韵) là một vận tam đẳng có cả 
khai khẩu và hợp khẩu (âm trị hợp khẩu có thêm 
âm đệm [u]), theo nghĩa hẹp chỉ gồm vận nguyên 
(元bình thanh), nhưng theo nghĩa rộng nó gồm các 
vận: nguyên (元bình thanh), nguyễn (阮thượng 
thanh), nguyện (願khứ thanh), nguyệt (月nhập 
thanh). Trong bài viết này chúng tôi sử dụng thuật 
ngữ vận nguyên theo nghĩa rộng.
Do các vận thư đều được viết bằng chữ Hán, mà 
chữ Hán không phải là loại chữ phiên âm, tác dụng 
biểu thị âm đọc của chữ Hán rất hạn chế, chính 
vì vậy, việc phân tích các vận thư chỉ cho chúng 
ta biết được những loại cách đọc của các vận mà 
không biết được chính xác âm trị của chúng. Các 
nhà Hán ngữ học khi phục nguyên lại tiếng Hán 
ở các thời kỳ, mặc dù bằng nhiều phương pháp 
khác nhau và sử dụng nhiều tư liệu (tư liệu dịch 
đối âm, vận thư, vận đồ, phương ngôn, ngôn ngữ 
thân tộc, ), song kết quả phục nguyên của họ 
cũng không phải hoàn toàn giống nhau. Bảng 1 
dưới đây là kết quả phục nguyên âm đọc tiếng Hán 
trung cổ vận nguyên của một số học giả (theo Phan 
Ngộ Vân, 2000, tr.83-88).
Kết quả phục nguyên của các học giả không 
hoàn toàn giống nhau, sự khác nhau chủ yếu thể 
hiện ở âm chính ([ɒ], [ɐ] hoặc [ɑ]) và âm đệm ([i̯], 
[j], [i], [ĭ], [ɪ] hoặc [ɨ]). Xuất phát từ ngữ liệu âm 
Hán Việt chúng tôi chấp nhận cách phục nguyên 
[iɑn] của Châu Pháp Cao. Như vậy, ở tiếng Hán 
trung cổ vận nguyên có âm trị là [iɑn] ở khai khẩu 
và [uiɑn] ở hợp khẩu (sở dĩ [uiɑn] mà không phải 
[iuɑn] là vì chúng tôi theo quan điểm của Nguyễn 
Đình Hiền, 2011).
Pulleyblank là người đầu tiên đưa ra quan điểm 
cho rằng tam đẳng vốn không có âm đệm, sau này 
Bodman, Trịnh Trương Thượng Phương, Phan 
 ... đọc [ɯɤ-], 
[ie-] trong tiếng Việt hiện đại
bắt chước con hươu rượu ưu tiên
bắt chiếc con hiêu riệu yêu tiên
Khi giao tiếp, người miền Bắc thường phát âm 
thành những âm ở dòng 2, nếu có người nhắc họ, 
26 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
ngay lập tức họ ý thức được rằng mình đã nói sai 
và miễn cưỡng bắt buộc mình phát âm thành âm 
ở dòng 1. Điều này chứng tỏ tiếng Việt hiện đại 
đang diễn ra quá trình biến đổi ngữ âm từ âm đệm 
[ɯ] sang âm đệm [i], quá trình này vẫn đang diễn 
ra nên người ta vẫn ý thức được nói thế nào mới 
là chuẩn. Xét về mặt âm đệm [ɯɤ-] biến đổi thành 
[ie-] là phù hợp với quy luật này. Nếu chỉ để ý đến 
ba ví dụ đầu “bắt chước/bắt chiếc, con hươu/con 
hiêu, rượu/riệu”, thì quá trình biến đổi sẽ là [ɯɤk] 
biến đổi thành [iek] và [ɯɤu] biến đổi thành [ieu]. 
Nếu bỏ âm cuối đi, chúng ta sẽ có quá trình: [ɯɤ-] 
→[ie-], đây chính là quá trình chúng ta đang cần 
phải chứng minh.
Tư liệu chữ Nôm cũng giúp chúng ta chứng 
minh quá trình biến đổi ngữ âm này. Trong Quốc 
âm thi tập và Truyện Kiều có 12 mô hình [ɯɤn] 
([ien]) và 8 mô hình [ɯɤm] ([iem]), ví dụ xem 
trong bảng 10 dưới đây:
Bảng 10: Bảng một số mô hình [ɯɤ-] ([ie-]) 
trong chữ Nôm
Xuất xứ
Chữ 
Nôm
Âm 
đọc
Âm
Hán Việt
Quốc 
âm thi 
tập
bài 41, 
chữ 44
厭 ướm yếm
bài 75, 
chữ 26
斂 lượm liễm
bài 114, 
chữ 22
gươm kiêm
bài 124, 
chữ 37
trượt cự liệt
Truyện 
Kiều
dòng 964 劫 cướp kiếp
dòng 38 bướm biếm
dòng 290 切
thướt 
(tha)
thiết
dòng 
1147
lươn liên
dòng 
2707
lướt 
(mướt)
liệt
dòng 
2668
lượt liệt
[ɯɤ-] do hai nguyên âm dòng sau cấu tạo 
nên còn [ie-] do hai nguyên âm dòng trước cấu 
tạo nên. [ɯɤ-] và [ie-] khác xa nhau, giữa chúng 
không thể xảy ra hiện tượng mượn âm. Do vậy, 
các mô hình [ɯɤ-] ([ie-]) của chữ Nôm phản ánh 
sự biến đổi ngữ âm. Chúng tôi cho rằng, [ɯɤ-] đã 
biến đổi thành [ie-], bởi: 1) Trong tiếng Việt hiện 
nay đang xảy ra quá trình biến đổi ngữ âm từ âm 
đệm [ɯ] sang âm đệm [i] (xem phần trên); 2) Có 
hiện tượng cùng một chữ nhưng âm Hán Việt trung 
cổ của chúng là [ie-] còn âm Hán Việt thượng cổ 
của chúng lại là [ɯɤ-] (园vườn/viên, 越vượt/việt, 
猿vượn/viên, 幡phướn/phiên, 剑gươm/kiếm, 劫
cướp/kiếp); 3) Trên đây chúng tôi đã chỉ ra [ɯɤ] 
do [ɑ] biến đổi thành, [ɯɤ] rất khó có thể lại do 
[ie-] biến đổi thành; 4) Theo như nghiên cứu của 
các học giả Trung Quốc, âm đệm [i] của các vận 
khai khẩu tam đẳng là do âm đệm [ɯ] biến đổi 
thành; 5) Về mặt ngữ âm học, khó có thể giải thích 
được quy luật [ie-] biến đổi thành [ɯɤ-].
Khai khẩu của vận nguyên có quá trình biến 
đổi ngữ âm *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-] (mô hình 6), hợp 
khẩu của vận nguyên liệu có diễn ra quá trình song 
song *[uɑ-]→*[uɯɤ-]→[uie-]? Hiện chúng ta mới 
biết được điểm đầu [uɑ-] và điểm cuối [uie-], chúng 
ta không có âm đọc [uɯɤ-] trong tiếng Việt, vì vậy 
chúng tôi cho rằng, hợp khẩu của vận nguyên có 
quá trình biến đổi ngữ âm là: *[uɑ-]→[uie-] (mô 
hình 7).
Tóm lại ở vận nguyên của âm Hán Việt đã 
xảy ra các quá trình biến đổi: *[Puɑ-]→[Fɑ-] 
(mô hình 1); *[uɑ-]→*[uo-]→[o-] (mô hình 
2); *[ɑ-]→[ɯɤ-] (mô hình 3); *[Puɑ-]→*[Fɑ-] 
→[Fɯɤ-] (mô hình 4); *[Huɑ-]→*[uɑ-]→*[vɑ-] 
→[vɯɤ-] (mô hình 5); *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-] (mô 
hình 6); *[uɑ-]→[uie-] (mô hình 7). 7 mô hình này 
có thể gộp lại thành sơ đồ biến đổi ngữ âm như sơ 
đồ 1 sau:
27KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
6. MÔ HÌNH BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM CỦA VẬN DƯƠNG VÀ VẬN NGHIÊM
Vận dương và vận nghiêm ở tiếng Hán thượng cổ có âm chính giống như vận nguyên, đều là [ɑ-], 
chúng chỉ khác ở âm cuối (vận dương có âm cuối [-ŋ], [-k], vận nghiêm có âm cuối [-m], [-p]). Thông 
thường một quá trình biến đổi ngữ âm xảy ra, nó sẽ ảnh hưởng đến một loạt âm chứ không không chỉ ở 
một vài âm. Vậy vận dương và vận nghiêm có xảy ra các quá trình biến đổi ngữ âm giống vận nguyên 
không, và âm cuối của chúng có ảnh hưởng gì đến biến đổi ngữ âm? Đây là những vấn đề chúng ta cần 
giải quyết, trước tiên hãy xem âm đọc Hán Việt của vận dương và vận nghiêm:
Bảng 11: Bảng cách đọc âm Hán Việt của vận dương và vận nghiêm
Vận
Hán Việt trung cổ Hán Việt 
thượng cổKhai khẩu Hợp khẩu
Vận nghiêm
嚴nghiêm, 嚴nghiêm, 劍kiếm, 
劫kiếp, 怯khiếp, 欠khiếm
泛phiếm
劍gươm, 
劫cướp, 
腌ướp
帆buồm
凡帆phàm, 犯範phạm, 法pháp
Vận dương
常thường, 昌xương, 場trường, 
仗trượng, 疆cương, 姜khương, 
脚cước, 略lược
旺vượng, 王vương, 方肪
phương, 坊phường 兩lạng, 
娘nàng, 
长tràng
放buông,
房buồng, 
縛buộc
庄妝装trang, 创sáng, 床sàng, 
爽sảng, 状trạng; 恙炀漾樣
dạng, 奘tráng, 
往vãng, 鋩硭mang, 舫phảng
逛cuống, 狂cuồng, 筐khuông, 
況huống
放phóng, 防房phòng, 罔惘網
võng, 望妄vọng, 亡忘vong
Vận nghiêm của tiếng Hán trung cổ vốn thuộc vận bộ đàm (谈部) của tiếng Hán thượng cổ, có âm 
đọc là [ɑm]. Mặc dù các âm đọc của vận nghiêm không nhiều, song chúng ta vẫn có thể nhìn ra quá trình 
biến đổi ngữ âm giống như vận nguyên: 1. “凡帆phàm, 犯範phạm, 法pháp” là các thần âm đã biến đổi 
từ trọng thần sang khinh thần, như vậy đã diễn ra mô hình *[Puɑ-]→[Fɑ-] (mô hình 1); 2. “帆buồm” là 
minh chứng cho mô hình 2, *[uɑ-]→[uo-]; 3. “劍gươm, 劫cướp, 腌ướp” minh chứng cho mô hình 3, 
*[ɑ-]→[ɯɤ-]; 4. “泛phiếm” là minh chứng cho mô hình 4 và 6, *[Puɑ-]→*[Fɑ-]→*[Fɯɤ-] (mô hình 
4)→[Fie-] (mô hình 6); 5. “嚴nghiêm, 劍kiếm, 劫kiếp, 怯khiếp, 欠khiếm” minh chứng cho mô hình 6, 
*[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-].
Rất có thể do ảnh hưởng của âm cuối [-m]/ [-p], nên quá trình biến đổi ngữ âm của vận nghiêm diễn 
ra sớm hơn vận nguyên, vì vậy chúng ta không còn thấy mô hình 5 và mô hình 7 nữa.
Vận dương ở tiếng Hán thượng cổ vốn thuộc vận bộ dương (阳部), các nhà âm vận học Trung Quốc 
phục nguyên nguyên âm chính của vận bộ dương là [ɑ] hoặc [a]. Nhìn vào cách đọc của vận dương ở bảng 
trên đây, chúng ta có thể phát hiện ra một số mô hình biến đổi ngữ âm giống như vận nguyên: 1. Các âm 
đọc là [ɑ] ở khai khẩu của âm Hán Việt trung cổ và âm Hán Việt thượng cổ là những âm đọc cổ còn lưu 
lại; 2. “往vãng, 舫phảng” minh chứng cho mô hình 1, *[Puɑ-]→[Fɑ-]; 3. “逛cuống, 狂cuồng, 筐khuông, 
況huống, 放buông” là minh chứng cho mô hình 2, *[uɑ-] → [uo-]; 4. “常thường, 昌xương, 場trường, 仗
trượng” là minh chứng của mô hình 3, *[ɑ-] → [ɯɤ-]; 5. “方肪phương, 坊phường” là minh chứng cho mô 
28 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
hình 4, *[Puɑ-]→*[Fɑ-] →*[Fɯɤ-] (方phương, ở 
phương ngôn Trung bộ vẫn còn đọc là “phang”); 6. 
“旺vượng, 王vương” là minh chứng cho mô hình 
5, *[Huɑ-] →*[uɑ-] →*[vɑ-]→[vɯɤ-].
Vận dương khác vận nguyên ở 2 điểm: 1. 
Không có mô hình 6 và mô hình 7; 2. Ở thần âm 
có nhiều âm đọc [ɔ-] (放phóng, 防房phòng, 罔惘
網võng, 望妄vọng, 亡忘vong). 
Về điểm thứ nhất, vận dương chỉ biến đổi từ 
[ɑ-] sang [ɯɤ-], chứ chưa biến đổi tiếp từ [ɯɤ-] 
thành [ie-]. Sở dĩ như vậy là do có sự tác động 
của âm cuối, vận nguyên có âm cuối đầu lưỡi, lợi 
[-n], [-t], cặp âm cuối này làm cho các nguyên 
âm dòng sau [ɯɤ-] dễ dàng biến đổi thành [ie-], 
nhưng vận dương có âm cuối mặt lưỡi, ngạc mềm 
[-ŋ], [-k], nhóm âm cuối này ảnh hưởng làm cho 
các nguyên âm dòng sau [ɯɤ-] không biến đổi về 
phía trước được, [ɯɤ-] không biến đổi thành [ie-]. 
Cũng chính nhóm âm cuối này (có thể liên quan 
đến cả thanh mẫu nữa) làm cho vận dương còn lưu 
giữ được nhiều âm đọc cổ [ɑ-].
Về điểm thứ 2 (các âm đọc [ɔ-] ở thần âm) 
có thể được giải thích là: Sau khi mô hình 1 xảy 
ra *[Puɑ-] biến đổi thành [Fɑ-], [ɑ-] không phân 
tách thành [ɯɤ-] mà lại phát triển lên cao thành 
[ɔ-]. Theo Nguyễn Đình Hiền (2014), trong quá 
trình phát triển của mình, ở tiếng Việt đã xảy ra 
quá trình biến đổi: ﹡a[ɑ]→﹡o[ɔ]→ô[o]. Rất có 
thể các thần âm của vận dương biến đổi từ *[Puɑ-] 
sang [Fɑ-] xong thì vừa lúc gặp mô hình ﹡a[ɑ]→
﹡o[ɔ] nên đã biến đổi theo, suy cho cùng vẫn là 
do nhóm âm cuối [-ŋ], [-k] gây ra.
7. KẾT LUẬN
Theo quy luật vận động và phát triển, mọi sự 
vật và hiện tượng luôn biến đổi không ngừng, ngữ 
âm cũng không nằm ngoài quy luật này. Khi một 
quy luật biến đổi ngữ âm xảy ra thì nó ảnh hưởng 
đến một loạt âm chứ không phải một vài âm. Ngoài 
các vận nguyên, dương, nghiêm ra, những quy luật 
mà chúng tôi chỉ ra trong bài viết dường như cũng 
lác đác xảy ra với các vận khác, ví dụ: 安an/yên 
(vận hàn khai khẩu), 全toàn/tuyền (vận tiên hợp 
khẩu仙韵), 退thoái/thối (vận khôi hợp khẩu灰韵). 
Những quy luật này cũng ảnh hưởng đến âm đọc 
thuần Việt: [ɑ-] biến đổi thành [ɯɤ-] như trường 
hợp “nước, nướng, lưỡi, lửa, ngứa” trong tiếng Việt 
toàn dân vẫn được đọc là “nác, náng, lại, lả, ngá” 
ở phương ngôn Trung bộ; [ɯɤ-] biến đổi thành 
[ie-] như trường hợp “yếm (cái yếm), miếu” của 
tiếng Việt toàn dân vẫn được nói là “ướm, mưởu” 
ở phương ngôn Trung bộ, “gườm (hai người gườm 
nhau)” ở tiếng Việt toàn dân được nói là “ghiềm” 
ở phương ngôn Nam bộ (Phạm Văn Hảo, 2009). 
Kết quả nghiên cứu của bài viết có thể ứng dụng 
vào nhiều lĩnh vực, trong đó có việc tìm ra các từ 
đồng nguyên của nhau và phục nguyên lại những 
dạng âm đọc cổ của tiếng Việt. Dựa trên những quy 
luật biến đổi ngữ âm của bài viết, chúng tôi tìm 
ra một số cặp từ đồng nguyên như: 丸viên/hoàn/
hòn; 全toàn/tuyền; 安an/yên; 好háo/hiếu; 乱loạn/
lộn; 奔bươn/bôn; 染nhuộm/nhiễm; 说thốt/thuyết; 
兼gồm/kiêm; 卷cuốn/quyển; 劍gươm/kiếm; 房
buồng/phòng;  “全toàn” của tiếng Việt toàn dân, 
ở phương ngôn Bắc bộ có cách đọc là “tuyền”, ví 
dụ “canh tuyền nước” (Phạm Văn Hảo 2009, tr.426) 
và vì vậy “đen tuyền” chính là “đen hoàn toàn”. Do 
ảnh hưởng của quan hệ nghĩa và âm (các từ có cách 
đọc khác nhau thường khác nhau về nghĩa), nhiều 
người phân vân “gươm” và “kiếm” là cùng một loại 
vũ khí hay là 2 loại khác nhau. Thực chất “gươm” 
và “kiếm” là một, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê 
1998, tr.504) chú thích “kiếm
1
 d. gươm.” là hoàn 
toàn chính xác, cũng chính vì vậy “Hồ Gươm” còn 
có tên gọi khác là “Hồ Hoàn Kiếm”. “奔” có âm 
Hán Việt trung cổ là “bôn”, đây là chữ Hán hội ý, 
chữ này vốn được vẽ là người ở trên và ba chân 
ở dưới, biểu thị ý nghĩa “chạy nhanh, ba chân bốn 
cẳng”, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê 1998, tr.92) 
“bươn” được chú thích là “bươn đg. (ph). Đi vội, đi 
nhanh.”, “bươn” và “bôn” là cặp từ đồng nguyên, 
có thể âm đọc ban đầu của chúng là “*ban”.
Chúng tôi xin được nêu một vài ví dụ để nói 
về ứng dụng kết quả nghiên cứu của bài viết, trong 
việc phục nguyên những âm đọc cổ của tiếng Việt:
a. 劍 có âm Hán Việt là “gươm/kiếm”, song 
chúng tôi cho rằng cả “gươm” và “kiếm” đều 
không phải là âm đọc cổ của 劍. Chúng ta đã biết ở 
địa hạt thanh mẫu của tiếng Việt có quá trình biến 
đổi ngữ âm từ [k] sang g[ɣ] (phương ngôn Trung 
bộ còn giữ cách đọc “cươm, thanh cươm”). Căn cứ 
vào mô hình 6 *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-], thì âm đọc cổ 
29KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
của “gươm/ kiếm” phải phục nguyên lại là *[kɑm]. 
Chúng tôi cho rằng “găm” trong “dao găm” chính 
là từ đồng nguyên của “gươm” và “kiếm”. “Dao 
găm” chính là một dạng kiếm ngắn, trong Từ điển 
Việt - Bồ - La từ này được viết là “GAM, Dᴇ̆AO 
GAM”. Nếu vậy thì “GAM” chính là minh chứng 
cho vận mẫu [ɑm] mà chúng tôi phục nguyên. Một 
số ví dụ khác: 劫cắp/cướp/kiếp; 年năm/niên; 别
bặt/biệt (ví dụ “bặt tăm/biệt tăm”).
b. Có nhiều từ có thể không tìm được hoặc chí 
ít chưa tìm được minh chứng giống như “gươm/
kiếm”, ví dụ trường hợp “房buồng/phòng” phục 
nguyên là *[buɑŋ], hay “萬muôn/vạn/vàn” phục 
nguyên là *[muɑn] (Từ điển Việt - Bồ - La có các 
cách viết “vạn, uạn, muôn, man”). 
c. Việc phục nguyên cũng có thể chỉ là phục 
nguyên một âm đọc ở khâu trung gian trong quá 
trình biến đổi ngữ âm, ví dụ “安” có âm Hán 
Việt là “an/ yên”, theo quy luật biến đổi ngữ âm 
*[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-], chúng ta có thể phục nguyên 
âm đọc là “ươn[ɯɤn]” ở giữa “an” và “yên”. Trong 
Từ điển phương ngữ tiếng Việt (Phạm Văn Hảo 
chủ biên, 2009, tr.430), từ “ươn” được chú thích là 
“(B.; T.) t. 1. Lười nhác”, theo chúng tôi rất có thể 
đây là dạng trung gian mà chúng ta phục nguyên, 
bởi “安an” vốn có nghĩa là “yên, yên ổn, sống yên 
ổn”, “yên” là “ở trạng thái không động đậy, xê 
xích hoặc thay đổi vị trí, tư thế (đứng yên)”, và 
nếu cứ ở trạng thái như vậy có nghĩa là không làm 
gì, từ đó mà từ này có nghĩa “lười nhác”. Suy luận 
này càng có cơ sở vì từ “an nhàn安闲” có từ đồng 
nguyên là “ươn hèn”. “闲nhàn” thuộc vận sơn nhị 
đẳng, thanh mẫu hạp, nên thanh mẫu đọc là “h” 
và vận mẫu là “en” là hợp lý (âm Hán Việt có các 
cách đọc “茶trà, chè; 车xa, xe; 限hạn, hẹn; 察xát, 
xét; 斩trảm, chém; ”). Xét về mặt ý nghĩa “an 
nhàn” một cách thái quá sẽ trở thành “ươn hèn”./.
 Tài liệu tham khảo:
Alexandre de Rhodes (1991), Từ điển Annam - Lusitan 
- Latinh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội (nguyên 
tác 1651).
Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình 
thành cách đọc Hán Việt, NXB Khoa học xã hội, 
Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn (1997), Giáo trình lịch sử ngữ âm 
tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Du (Nguyễn Quảng Tuân phiên âm khảo dị và 
chú giải, 2004), Truyện Kiều (bản Nôm 1866), NXB 
Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
Phạm Văn Hảo chủ biên (2009), Từ điển phương ngữ 
tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Đình Hiền (2014), Nghiên cứu những mô hình 
biến đổi ngữ âm ở vần có âm chính là a, i, u của 
tiếng Việt, Đề tài cấp cơ sở Trường Đại học Ngoại 
ngữ - ĐHQG Hà Nội.
Mai Quốc Liên, Kiều Thu Hoạch, Vương Lộc, Nguyễn 
Khuê phiên âm và chú thích (2001), Nguyễn Trãi 
toàn tập tân biên, NXB Văn học, Trung tâm Nghiên 
cứu Quốc học, Hà Nội.
C. Mác, Ph. Ăngghen (1994), C. Mác và Ph. Ăngghen 
toàn tập (tập 20), NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 
Hà Nội.
Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 
Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
Hoàng Phê và nhóm tác giả (2015), Từ điển tiếng Việt, 
NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - 
Đà Nẵng.
何成等(1997), 越汉辞典, 商务印书馆,北京.
王力 (1982), 龙虫并雕斋文集,第二册,中华书
局,北京.
阮廷贤(2011), 论三等合口介音, 东方语言
学,10:14- 24.
阮廷贤, 储泰松(2012), 唇音分开合试证, 古汉语
研究, 03: 15-22+95.
阮廷贤(2012), 从汉越语研究看音变及其层次, 语言
研究集刊, 00: 84-96+ 354-355.
阮廷贤(2014), 汉越语音系与喃字研究, 河内国家大
学出版社,河内.
潘悟云(2000), 汉语历史音韵学, 上海教育出版社,
上海.
30 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
COMMENTS ON SEVERAL VARIATION MODES OF VIETNAMESE SPEECH SOUNDS 
BASED ON SINO - VIETNAMESE CORPUS OF YUANYUN
NGUYEN DINH HIEN
Abstract: This paper bases on Sino-Vietnamese corpus of Yuanyun (元韵) to find out some variation 
modes of Vietnamese speech sounds such as: 1. *[Puɑ-] → [Fɑ-]; 2. *[uɑ-] → *[uo-] → [o-]; 3. 
*[ɑ-] → [ɯɤ-]; 4. *[Puɑ-] → *[Fɑ-] → [Fɯɤ-]; 5. *[Huɑ-] → *[uɑ-] → *[vɑ-] → [vɯɤ-]; 6. *[ɑ-] 
→ *[ɯɤ-] → [ie-]; 7. *[uɑ-] → [uie-]. The research result may be applied to explain the fact that 
one Vietnamese word may have with two different ways of pronunciation, to find out and provide 
explaination on the words with the same or reviving pronunciation of the ancient Vietnamese words.
Keywords: Sino – Vietnamese, initial, rhyme, nuclear, prevocalie, final
Received: 05/7/2018; Revised: 26/7/2018; Accepted for publication: 20/8/2018

File đính kèm:

  • pdfban_ve_mot_so_mo_hinh_bien_doi_ngu_am_trong_tieng_viet_tren.pdf