Bản tin Khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo - Tháng 7 năm 2019
Ngày 24/7/2019 tại New Delhi (Ấn
Độ), Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
(WIPO) kết hợp với Trường Đại học
Cornell (Mỹ) và Học viện Kinh doanh
INSEAD (Pháp) và các đối tác đã công bố
Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST)
toàn cầu năm 2019 (Global Innovation
Index 2019, gọi tắt là GII 2019). Chỉ số
cung cấp các số liệu chi tiết về hiệu suất
ĐMST của 129 quốc gia và nền kinh tế
trên toàn thế giới. Với 80 tiểu chỉ số/tiêu
chí, GII 2019 cho thấy một tầm nhìn rộng
về ĐMST, bao gồm: môi trường chính trị,
giáo dục, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển
kinh doanh. từ các phép đo truyền thống
như đầu tư nghiên cứu và phát triển
(R&D), công bố bằng sáng chế và thương
hiệu quốc tế đến các chỉ số mới hơn như
tạo ứng dụng cho điện thoại di động và
xuất khẩu công nghệ cao.
Theo đó, Việt Nam đã tăng 3 bậc, từ
vị trí 45 lên vị trí 42 trên tổng số 129 nền
kinh tế được xếp hạng. Đây là năm thứ ba
liên tiếp Việt Nam tăng hạng và vị trí 42
cũng là vị trí cao nhất mà Việt Nam từng
đạt được từ trước đến nay. Thứ hạng năm
nay của Việt Nam đã được cải thiện 17
bậc so với thứ hạng năm 2016 và đưa Việt
Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm
26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và
đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapo và
Malaixia.
Bảng xếp hạng về ĐMST toàn cầu,
thể hiện kết quả và năng lực đổi mới sáng
tạo của các nên kinh tế. Đây là lần thứ 12
liên tiếp, Báo cáo Chỉ số GII được công
bố. Mục đích của Chỉ số GII là đưa ra các
đánh giá về trình độ ĐMST của mỗi quốc
gia một cách toàn diện nhất, là tài liệu
tham khảo hàng đầu về năng lực ĐMST
hiện nay của các nước. GII được coi là là
một công cụ định lượng chi tiết giúp các
nhà ra quyết định toàn cầu hiểu rõ hơn về
cách kích thích hoạt động ĐMST để tạo
động lực cho phát triển kinh tế và con
người.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản tin Khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo - Tháng 7 năm 2019
Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 1 BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỤC THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA Mục lục TIN QUỐC TẾ TRONG THÁNG 1. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2019: Việt Nam tăng 3 bậc 2 2. Kế hoạch phát triển trí tuệ nhân tạo của Ôxtrâylia 5 3. Đức: năng lượng tái tạo chiếm 44% tổng sản lượng điện trong 6 tháng đầu năm 2019 6 4. Hàn Quốc: Chiến lược đi đầu về tiêu chuẩn quốc tế trong Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 7 TIN TRONG NƯỚC TRONG THÁNG 5. Tháng 1/2020 sẽ khởi công Trung tâm R&D của Samsung tại Hà Nội 8 6. Cuộc thi “Đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao” 9 7. Tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp” 10 8. Aus4Innovation mở khóa đào tạo về thương mại hóa kết quả nghiên cứu 11 GƯƠNG ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN VỀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI 9. Hai học sinh giành Huy chương vàng Olympic phát minh và sáng chế thế giới 12 10. Gương mặt nhà khoa học hàng đầu châu Á 2019: Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp 12 NGHIÊN CỨU, NHẬN ĐỊNH 11. Nghiên cứu của Oxford Economics: robot và tự động hóa công nghiệp chiếm 20 triệu việc làm vào năm 2030 14 Tháng 7 năm 2019 Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 2 Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2019: Việt Nam tăng 3 bậc Lễ công bố GII 2019 ở New Delhi, Ấn Độ Ngày 24/7/2019 tại New Delhi (Ấn Độ), Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) kết hợp với Trường Đại học Cornell (Mỹ) và Học viện Kinh doanh INSEAD (Pháp) và các đối tác đã công bố Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) toàn cầu năm 2019 (Global Innovation Index 2019, gọi tắt là GII 2019). Chỉ số cung cấp các số liệu chi tiết về hiệu suất ĐMST của 129 quốc gia và nền kinh tế trên toàn thế giới. Với 80 tiểu chỉ số/tiêu chí, GII 2019 cho thấy một tầm nhìn rộng về ĐMST, bao gồm: môi trường chính trị, giáo dục, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển kinh doanh... từ các phép đo truyền thống như đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D), công bố bằng sáng chế và thương hiệu quốc tế đến các chỉ số mới hơn như tạo ứng dụng cho điện thoại di động và xuất khẩu công nghệ cao. Theo đó, Việt Nam đã tăng 3 bậc, từ vị trí 45 lên vị trí 42 trên tổng số 129 nền kinh tế được xếp hạng. Đây là năm thứ ba liên tiếp Việt Nam tăng hạng và vị trí 42 cũng là vị trí cao nhất mà Việt Nam từng đạt được từ trước đến nay. Thứ hạng năm nay của Việt Nam đã được cải thiện 17 bậc so với thứ hạng năm 2016 và đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapo và Malaixia. Bảng xếp hạng về ĐMST toàn cầu, thể hiện kết quả và năng lực đổi mới sáng tạo của các nên kinh tế. Đây là lần thứ 12 liên tiếp, Báo cáo Chỉ số GII được công bố. Mục đích của Chỉ số GII là đưa ra các đánh giá về trình độ ĐMST của mỗi quốc gia một cách toàn diện nhất, là tài liệu tham khảo hàng đầu về năng lực ĐMST hiện nay của các nước. GII được coi là là một công cụ định lượng chi tiết giúp các nhà ra quyết định toàn cầu hiểu rõ hơn về cách kích thích hoạt động ĐMST để tạo động lực cho phát triển kinh tế và con người. Về thứ hạng ĐMST năm nay, theo Chỉ số GII 2019, Thụy Sĩ là quốc gia ĐMST nhất thế giới, tiếp theo là Thụy Điển, Mỹ, Hà Lan và Vương quốc Anh. GII 2019 cũng xác định nền kinh tế đứng đầu về ĐMST trong khu vực, như Ấn Độ, Nam Phi, Chile, Israel và Singapo; và đứng đầu về ĐMST trong cùng nhóm thu TIN QUỐC TẾ TRONG THÁNG Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 3 nhập với Trung Quốc, Việt Nam và Rwanda. Năm nay, 4 nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á nằm trong top 20 là Singapo (8), Hàn Quốc (11), Nhật Bản (15) và Trung Quốc (14). Về chỉ số ĐMST 2019 của Việt Nam Trong GII 2019, Việt Nam đứng thứ 42/129 nước và vùng lãnh thổ được xếp hạng, tăng 3 bậc so với năm 2018. Đây là năm thứ ba liên tiếp Việt Nam tăng hạng và vị trí 42 cũng là vị trí cao nhất mà Việt Nam từng đạt được từ trước đến nay. Phân tích Bảng 2, chúng ta có thể thấy: Sở dĩ năm 2019, Việt Nam có sự tăng bậc về chỉ số ĐMST so với năm 2018 là do có sự tăng bậc cả ở Nhóm chỉ số đầu vào (tăng 2 bậc, từ vị trí 65 năm ngoái lên 63 năm nay), và Nhóm chỉ số đầu ra (tăng 4 bậc, từ vị trí 41 lên 37). Nhóm chỉ số đầu vào, gồm 5 trụ cột, tăng bậc do trụ cột “Nguồn nhân lực và nghiên cứu” tăng 5 bậc (từ 66 lên 61) nhờ nhóm chỉ số “Nghiên cứu và phát triển” tăng 14 bậc, trong đó tiểu chỉ số “Tổng chi cho nghiên cứu và phát triển” tăng 5 bậc; và trụ cột “Trình độ phát triển của thị trường” tăng 4 bậc, trong đó chỉ số “Tín dụng” tăng 4 bậc. Nhóm chỉ số đầu ra tăng, do trụ cột “Sản phẩm tri thức và công nghệ” tăng 8 bậc, trong đó các tiểu chỉ số như “Đơn đăng ký sáng chế” (tăng 2 bậc), “Số công bố bài báo khoa học và kỹ thuật” (tăng 5 bậc), “Tốc độ tăng năng suất lao động” tăng 3 bậc, “Số ... 10 triệu đồng. NASATI Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 10 Tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp” Thực hiện Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng “Hỗ trợ phát triển hội nhập khoa học và công nghệ”, ngày 02/07/2019 tại Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hội nhập KH&CN quốc tế (VISTIP) tổ chức Tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp”. Trong bối cảnh hiện nay, phát triển công nghệ là chìa khóa thành công của doanh nghiệp. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang đối mặt với khó khăn về đổi mới công nghệ. Các diễn giả cùng đại biểu tham gia Tọa đàm đã cùng nhau thảo luận, phân tích thực trạng đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp, đồng thời đề xuất một vài các giải pháp có tính khả thi. Kết quả điều tra thử nghiệm về đổi mới sáng tạo của 8.000 doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo giai đoạn 2014- 2016 do Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia thực hiện cho thấy, số lượng doanh nghiệp Việt Nam có đổi mới sáng tạo chiếm khoảng 61,63%. Tuy nhiên mức độ đổi mới sản phẩm phần lớn vẫn nằm ở mức mới ở quy mô doanh nghiệp, rất ít sản phẩm được tạo ra đạt mức mới với thị trường. Phương thức thực hiện đổi mới quy trình của doanh nghiệp cũng mới chỉ dừng lại ở hoạt động đầu tư vào mua sắm máy móc thiết bị phần mềm. Điều quan trọng hơn là hoạt động đổi mới của doanh nghiệp được thực hiện khép kín với tỷ lệ nguồn vốn đầu tư cho đổi mới từ vốn tự có là khá cao, trong khi mức độ hợp tác với các tổ chức nghiên cứu phát triển thấp. Thực trạng này ở Việt Nam khác hẳn với Pháp, nơi mà hoạt động đổi mới được thực hiện thông qua hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và Viện, trường. Doanh nghiệp không nhất thiết phải có bộ phận nghiên cứu và triển khai (R&D) nội bộ nhưng lại đạt tỷ lệ đổi mới công nghệ cao. Bức tranh này ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn ảm đạm hơn. Kết quả điều tra của Bộ Công Thương cho thấy có đến 79% Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) chưa chuẩn bị cho cuộc CMCN 4.0, 55% DNNVV đang tìm hiểu, nghiên cứu, 19% đã xây dựng kế hoạch, và chỉ có 12% đang triển khai các biện pháp ứng phó. Về giải pháp, Tọa đàm cũng đã đề xuất một số giải pháp về thể chế, chính sách và môi trường kinh doanh, giải pháp về hạ tầng số và kinh tế số, giải pháp về phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng và chất lượng cao, giải pháp về hợp tác và Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 11 hội nhập quốc tế trong hợp tác đổi mới, cải tiến, chuyển giao công nghệ, trong đó nhấn mạnh giải pháp về thể chế, chính sách kiến nghị xóa bỏ các rào cản và thực thi chính sách có hiệu quả đóng vai trò tiên quyết đối với đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp. Nguồn: CESTC Aus4Innovation mở khóa đào tạo về thương mại hóa kết quả nghiên cứu Vừa qua, sáng kiến Aus4Innovation đã khởi động chương trình thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm nâng cao năng lực, kĩ năng kết nối và chuyển giao công nghệ của các tổ chức nghiên cứu công lập và các cơ quan nhà nước liên quan. Tham gia chương trình này có Cục phát triển Thị trường và Doanh nghiệp KH&CN, Bộ KH&CN (NATEC), Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam (VAST), trường ĐH Cần Thơ (CTU) và Học viện Nông nghiệp Việt Nam (VNUA). Chương trình này là một khóa huấn luyện chuyên sâu diễn ra trong vòng 18 tháng dưới sự điều hành của các chuyên gia người Úc và ưu tiên cho các lĩnh vực đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm Dự kiến, kết thúc khóa học, mỗi đơn vị sẽ phải có ít nhất hai đề xuất dự án về thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Các chuyên gia người Úc sẽ đánh giá các đề xuất này dựa trên một số tiêu chí: Tính mới, tính hiệu quả; Tính khả thi về thương mại, khả năng sinh lợi nhuận của mô hình kinh doanh; Ưu tiên đối tượng hưởng lợi của dự án là nữ, mang lại lợi ích cho người nghèo và có tác động tích cực tới môi trường. Một đại diện lãnh đạo của các trường, cục và viện nghiên cứu và một học viên tham gia sẽ được lựa chọn để tham gia một khóa học trải nghiệm thực tế tại Úc một tuần. Aus4Innovation là một trong sáu sáng kiến mà chính phủ Úc tài trợ cho Việt Nam trị giá 10 triệu đô la Úc, thông qua đối tác là Bộ KH&CN. H.L (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 12 Hai học sinh giành Huy chương vàng Olympic phát minh và sáng chế thế giới Tại Olympic phát minh và sáng chế thế giới (WICO) năm 2019 diễn ra từ ngày 25 đến 27-7 ở tại Seoul, Hàn Quốc, 2 sáng chế của học sinh Việt Nam đều xuất sắc giành huy chương vàng. WICO là cuộc thi thường niên được thành lập và tổ chức bởi Hiệp hội Phát minh Sáng chế các trường Đại học Hàn Quốc và được Quốc hội Hàn Quốc bảo trợ. WICO là cuộc thi về những phát minh và sáng chế có tính mới, sáng tạo và thiết thực. Cuộc thi được chấm bởi Ban giám khảo quốc tế, theo các tiêu chí chặt chẽ được xác định bởi các nhà khoa học hàng đầu có uy tín. Kỳ thi dành cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 trên toàn thế giới. Năm 2019, cuộc thi WICO được tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc, có 22 nước trên thế giới tham dự với 345 sáng chế ở tất cả các lĩnh vực khoa học. Việt Nam có 2 phát minh, sáng chế thuộc lĩnh vực Sinh - Hóa và Vật lí của 2 nhóm nghiên cứu Khoa học liên trường gồm 6 học sinh Trường THCS Giảng Võ (Ba Đình, Hà Nội), 2 học sinh Trường THCS Cầu Giấy (Cầu Giấy, Hà Nội) và 1 học sinh Trường THPT Chu Văn An (Tây Hồ, Hà Nội) đạt được kết quả hết sức ấn tượng. Cụ thể: Sáng chế “Chế phẩm xử lý ô nhiễm dầu từ nấm men tạo màng sinh học trên than sinh học có nguồn gốc từ Trấu”; và Sáng chế “Ứng dụng nano bạc để nâng cao hiệu suất của thiết bị chưng cất nước ngọt sử dụng năng lượng mặt trời” đều được đánh giá cao bởi tính mới, sáng tạo và thiết thực. Cùng đạt huy chương vàng, 2 sáng chế trên còn giành 2 giải đặc biệt cho các sáng chế tốt nhất của Đại học Chulalongkorn Thái Lan (Nhóm Sinh - Hoá) và của Hiệp hội Khoa học trẻ Indonesia (Nhóm Vật lí). Gương mặt nhà khoa học hàng đầu châu Á 2019: Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp Với mong muốn tạo ra sản phẩm phục vụ cộng đồng, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp (sinh năm 1981, Trưởng Bộ môn Kỹ thuật Y Sinh, Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) kiên trì theo đuổi đam mê nghiên cứu khoa học lĩnh vực kỹ thuật y sinh, dù con đường này đã và đang còn nhiều chông gai. Với nhiều thành tựu khoa học nổi bật, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp là một trong hai nhà khoa học Việt Nam có tên trong danh sách 100 nhà khoa học hàng đầu châu Á năm 2019 do Tạp chí khoa học Asian Scientist (Singapore) vừa bình chọn. GƯƠNG ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN VỀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠOVÀ ĐMST Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 13 Trong hơn 10 năm nghiên cứu khoa học, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp đã có bảng thành tích đồ sộ với 107 công trình khoa học, trong đó 2 chương sách chuyên khảo, 56 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế uy tín, hơn 30 bài trong kỷ yếu hội nghị quốc tế, 10 bài trên các tạp chí trong nước và 4 sáng chế. Các công trình của chị theo hướng nghiên cứu về vật liệu ứng dụng trong y học, đặc biệt là vật liệu trong nước với giá thành rẻ cho người dân. Trong đó, chị tập trung nghiên cứu về vật liệu điều trị cho da, vật liệu kháng khuẩn để điều trị từ xa, vừa tiện lợi, giảm đau cho bệnh nhân vừa tránh nhiễm trùng chéo khi phải đến bệnh viện điều trị. Trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp liên tục được vinh danh tại các giải thưởng khoa học trong nước cũng như quốc tế. Năm 2016, chị giành giải thưởng Nhà nghiên cứu khoa học trẻ tài năng (L’Oreal National Fellowship). Năm 2017, chị nhận giải thưởng Nhà khoa học nữ trẻ ASEAN-US; năm 2018, nhận Giải thưởng Nhà khoa học tài năng trẻ thế giới do Quỹ L'Oréal - UNESCO trao tặng... Mới đây nhất, tháng 6/2019, với công trình Keo thông minh trong điều trị lành thương, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp đã giành giải Nhất Giải thưởng sáng tạo TP Hồ Chí Minh năm 2019 ở lĩnh vực khoa học cơ bản. Đây là một loại keo dùng để cầm máu, diệt khuẩn và đẩy nhanh quá trình tái tạo mô, làm lành vết thương trong thời gian ngắn. Giải pháp này giúp những người dân ở xa bệnh viện có thể tự sơ cứu, điều trị vết thương nhanh chóng. Keo đã được thử nghiệm trên tế bào động vật; đánh giá có tính ứng dụng rộng rãi và thương mại hóa cao. Không dừng lại ở đó, từ khả năng hỗ trợ lành vết thương, tái tạo tế bào tốt, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp đang tiếp tục nghiên cứu phát triển keo thông minh này theo nhiều hướng ứng dụng khác nhau để điều trị các bệnh khác. Nhắn nhủ với các bạn trẻ đang lựa chọn nghiên cứu khoa học, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hiệp cho rằng con đường này không dễ dàng, để nghiên cứu khoa học thành công không chỉ cần có đam mê mà phải quyết tâm, luôn cố gắng vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Nguồn: TTXVN Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 14 Nghiên cứu của Oxford Economics: robot và tự động hóa công nghiệp chiếm 20 triệu việc làm vào năm 2030 Ngày 25/6/2019, Công ty dự báo và phân tích định lượng toàn cầu Oxford Economics đã công bố báo cáo “How Robots Change The World” (Robot thay đổi thế giới như thế nào?) cho thấy, công nghệ robot liên quan sẽ đáp ứng khoảng 20 triệu việc làm sản xuất trên toàn thế giới trong thập kỷ tới. Điều đó có nghĩa là khoảng 8,5% lực lượng lao động sản xuất toàn cầu có thể bị thay thế bởi robot vào năm 2030. Tự động hóa không phải là một xu hướng mới trong sản xuất, khi ngành công nghiệp ô tô đã sử dụng 43% số robot trên thế giới kể từ năm 2016. Tuy nhiên, chi phí cho robot đang trở nên rẻ hơn so với nhân công của con người, một phần là do giá thành máy móc giảm. Đơn giá trung bình cho mỗi robot đã giảm 11% trong giai đoạn 2011 - 2016. Thêm vào đó, trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng có khả năng hoạt động trong các quy trình phức tạp và bối cảnh đa dạng hơn, trong khi nhu cầu đối với hàng hóa sản xuất cũng tăng lên. AI sẽ thúc đẩy năng suất và tăng trưởng kinh tế, cũng như thúc đẩy các ngành công nghiệp thậm chí chưa tồn tại, nhưng Oxford Economics cũng cảnh báo rằng cuộc cách mạng robot có thể dẫn đến bất bình đẳng thu nhập trầm trọng. Ảnh hưởng của xu hướng tự động hóa nhanh, mạnh này đến sản lượng kinh tế là rất lớn. Oxford Economics ước tính, việc tăng sử dụng AI và công nghệ robot liên quan ở mức 30% sẽ dẫn đến sự tăng 5,3% GDP toàn cầu, tương đương 4,9 nghìn tỷ USD, so với các dự báo hiện tại đối với năm 2030. Tuy nhiên, lợi ích lớn này sẽ không được phân phối đồng đều trên toàn thế giới hay chính trong mỗi quốc gia. Điều này được lý giải một phần là bởi những công nhân có kiến thức và tư duy đổi mới trong sản xuất có xu hướng tập trung ở các thành phố lớn hơn hay quốc NGHIÊN CỨU, NHẬN ĐỊNH Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 15 gia phát triển hơn, khiến những kỹ năng đó khó để tự động hóa hơn. Đó cũng là lý do tại sao các khu vực đô thị sẽ đối phó tốt hơn với sự tự động hóa gia tăng. Báo cáo của Oxford Economics nhận định các nước Mỹ, Đức, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc dễ bị tổn thương nhất do mất việc làm do sự lan rộng của tự động hóa trong công nghiệp. Sự phụ thuộc vào việc làm sản xuất, cường độ sử dụng robot hiện nay trong sản xuất và năng suất của lực lượng lao động sản xuất là những chỉ số chính để xác định khả năng mất việc làm của người lao động. Những người lạc quan vẫn cho rằng AI và robot sẽ tạo ra số lượng công việc mới tương đương với số công việc sẽ được robot đảm nhận và chúng ta không nên lo lắng quá nhiều. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), AI và công nghệ robot liên quan cũng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và do đó tạo ra nhiều cơ hội việc làm bổ sung, giống như các làn sóng đổi mới công nghệ khác trong quá khứ đã thực hiện, từ động cơ hơi nước đến máy tính. Đặc biệt, các hệ thống AI và robot sẽ giúp tăng năng suất, giảm chi phí và cải thiện chất lượng và phạm vi sản phẩm mà các công ty có thể sản xuất. Trung Quốc sẽ dẫn đầu trong việc sản xuất các sản phẩm được tăng cường AI (robot, xe không người lái, máy bay không người lái, v.v.) trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này. Tuy nhiên, những công việc mới hay những ngành công nghiệp mới đó sẽ tập trung vào một số khu vực nhất định của những nước phát triển và các nước đang phát triển sẽ không đón bắt được các cơ hội đó. Nhìn chung, việc sử dụng robot và AI ngày càng tăng có thể sẽ tạo ra việc làm mới với tốc độ tương đương với số công việc sẽ bị mất, nhưng các khu vực nghèo hơn sẽ không được hưởng lợi như nhau từ việc tạo công việc mới này do khoảng cách về kỹ năng. Điều đó sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng thu nhập gia tăng giữa các thành phố và khu vực nông thôn, cũng như giữa các khu vực trên thế giới. Guy Ryder, Tổng giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), nhấn mạnh khía cạnh chính trị của chủ nghĩa bảo hộ sẽ đẩy nhanh quá trình phát triển của AI và robot cùng các công nghiệp hỗ trợ. Nhu cầu đưa quá trình sản xuất trở lại các nước tiên tiến đang ở mức cao chưa từng thấy, mặc dù thực tế không phải số lượng việc làm mà chính là AI và các quy trình robot đang được đưa trở lại các nước đang phát triển. Ngoài ra, sự bất bình đẳng có thể ngày càng tăng. Khi công nghệ ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế toàn cầu, khu vực nào thúc đẩy sự phát triển công nghệ sẽ ngày càng củng cố vị trí quyết định. Khi xu hướng này lan rộng trên toàn cầu, bất bình đẳng sẽ trở nên tồi tệ hơn. Do tính chất khó đo lường và xuyên biên giới của nền kinh tế kỹ thuật số, các khoản thu thuế của chính phủ bị thiệt hại nặng nề, làm giảm đầu tư vào cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục. Ngành công nghệ cũng thu hút nhân tài từ khắp nơi trên thế giới, dẫn Bản tin Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Số 7/2019 16 đến thiếu hụt nguồn nhân lực ở một số quốc gia. Tất cả các nền kinh tế hiện nay đều đang cần những người lao động có tay nghề cao làm việc trong các lĩnh vực như AI và robot, nhưng những cá nhân tài năng dù phân bố toàn cầu lại có xu hướng thích sống ở các thành phố an toàn và phát triển vốn mang đến cho họ những cơ hội nghề nghiệp tốt nhất. Nguồn: Oxford Economics CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia; Văn Phòng Bộ; Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Truyền thông Khoa học và Công nghệ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN Trần Đắc Hiến, Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Trần Quang Tuấn. BAN BIÊN TẬP Trưởng Ban: Trần Thị Thu Hà Phó Trưởng Ban: Phùng Anh Tiến, Nguyễn Hoàng Giang Thành viên: Nguyễn Mạnh Quân, Nguyễn Lê Hằng, Phạm Thu Thảo, Nguyễn Hạnh.
File đính kèm:
- ban_tin_khoa_hoc_cong_nghe_doi_moi_sang_tao_thang_7_nam_2019.pdf