Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm
Tóm tắt
Bằng lý thuyết phương ngữ học, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa, từ các yếu tố địa lý, lịch sử, tính
cách con người xứ Nghệ và phương ngữ Nghệ - Tĩnh với tư cách là một tiểu vùng văn hóa (cultural subregion), bài viết đã tìm hiểu sự thể hiện bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ở một phương diện
sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của họ là dân ca Ví, Giặm. Từ một chiều ngược lại, bài viết sẽ thử nhìn nhận
vai trò của Ví, Giặm trong việc hình thành bản sắc mang tính giá trị và bản sắc được tạo lập từ cội
nguồn của con người xứ Nghệ và với sức mạnh lan tỏa của một loại hình nghệ thuật mang giá trị kết
tinh, Ví, Giặm đã hình thành bản sắc xuyên quốc gia - tại những nơi có người Nghệ định cư - trong thời
đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: bản sắc văn hóa, phương ngữ, dân ca Nghệ Tĩnh, Ví, Giặm
Abstract
Based on dialectology and the theories of cultural identity and culture change, considering geographical
and historical factors as well as Nghe people’s shared personality traits and Nghe - Tinh dialect as a
cultural sub-region, the article studies Nghe people’s expression of their cultural identity through one of
their creation of arts known as Vi, Giam folk songs. In the inverse direction, the article strived to study
the role of Vi, Giam in the establishment of Nghe people’s value-based identity and resources-based
identity; and with its spreading power as a quintessential artform, Vi, Giam’s role in establishing a
transnational identity in areas where Nghe people reside in the era of globalization and international
integration.
Keywords: cultural Identity, Dialect, Nghe Tinh folk songs, Vi, Giam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 Bản sắc người Nghệ - nhìn từ dân ca Ví, Giặm Nghe people identity – from a Vi, Giam folk songs insight PGS.TS. Trần Thị An Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam Assoc.Prof.,Ph.D. Tran Thi An Vietnam academy social sciences Tóm tắt Bằng lý thuyết phương ngữ học, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa, từ các yếu tố địa lý, lịch sử, tính cách con người xứ Nghệ và phương ngữ Nghệ - Tĩnh với tư cách là một tiểu vùng văn hóa (cultural sub- region), bài viết đã tìm hiểu sự thể hiện bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ở một phương diện sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của họ là dân ca Ví, Giặm. Từ một chiều ngược lại, bài viết sẽ thử nhìn nhận vai trò của Ví, Giặm trong việc hình thành bản sắc mang tính giá trị và bản sắc được tạo lập từ cội nguồn của con người xứ Nghệ và với sức mạnh lan tỏa của một loại hình nghệ thuật mang giá trị kết tinh, Ví, Giặm đã hình thành bản sắc xuyên quốc gia - tại những nơi có người Nghệ định cư - trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Từ khóa: bản sắc văn hóa, phương ngữ, dân ca Nghệ Tĩnh, Ví, Giặm Abstract Based on dialectology and the theories of cultural identity and culture change, considering geographical and historical factors as well as Nghe people’s shared personality traits and Nghe - Tinh dialect as a cultural sub-region, the article studies Nghe people’s expression of their cultural identity through one of their creation of arts known as Vi, Giam folk songs. In the inverse direction, the article strived to study the role of Vi, Giam in the establishment of Nghe people’s value-based identity and resources-based identity; and with its spreading power as a quintessential artform, Vi, Giam’s role in establishing a transnational identity in areas where Nghe people reside in the era of globalization and international integration. Keywords: cultural Identity, Dialect, Nghe Tinh folk songs, Vi, Giam I. LỜI MỞ Nghệ, Ví, Giặm luôn thu hút được sự quan Là nơi thể hiện một cách sâu sắc và tâm của giới nghiên cứu quan tâm đến sống động tâm hồn của con người sống mảnh đất này; Là một thế giới nghệ thuật trên mảnh đất xứ Nghệ, Ví, Giặm luôn là đặc sắc, Ví, Giặm bắc những nhịp cầu để nơi gửi gắm tâm tình, nơi trút bầu tâm sự, nối các vùng văn hóa Việt Nam, nối văn nơi thể hiện tiếng lòng, nơi thể hiện hồn hóa Việt Nam với các nền văn hóa trên thế quê, nơi để được nói ra, để được lắng nghe, giới. sẻ chia và đồng điệu của mỗi con người Vì thế, các công trình nghiên cứu về Nghệ; Là một biểu tượng của văn hóa xứ Ví, Giặm đã có nhiều nhưng nói bao nhiêu 3 vẫn là chưa đủ cho một hiện tượng văn hóa và sơ sử: sự xuất hiện sớm của con người gắn với mọi mặt đời sống xã hội, đời sống và các nền văn hóa thời kỳ đá cũ với di chỉ tình cảm, đời sống vật chất, và đặc biệt là Thẩm Òm (Quỳ Châu), các di chỉ thời văn thể hiện một cách sinh động bản sắc con hóa Hòa Bình (Quế Phong, Con Cuông, người xứ Nghệ. Chúng tôi, với một mong Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu), các muốn ấp ủ được viết về làn điệu dân ca của cồn sò, cồn điệp làm nên nền văn hóa quê hương, sẽ thử nhìn nhận nó từ việc thể Quỳnh Văn thời đá mới, di chỉ Làng Vạc hiện bản sắc người Nghệ để thấy sự gắn bó với các di vật đồ đồng của thời đại Đông bền chặt và sâu nặng của thể loại dân ca Sơn. Thư tịch Trung Quốc và truyền thuyết này với mọi người Nghệ ở muôn nơi. dân gian Việt Nam về thời Bắc thuộc đã tái Trong bài viết này, quan điểm nghiên hiện phần nào sự phát triển liên tục của lịch cứu của chúng tôi là tôn trọng tính đa dạng sử vùng đất Nghệ về các cuộc khởi nghĩa của văn hóa, khẳng định thuyết tương đối của các nữ tướng Hai Bà Trưng, về người văn hóa; các lý thuyết được vận dụng là anh hùng Mai Thúc Loan với cuộc khởi văn hóa vùng, bản sắc văn hóa, biến đổi nghĩa 10 năm (713-722) mà các dấu tích về văn hóa và phương ngữ học; các phương thành quách vẫn lưu giữ trên vùng đất Nam pháp được sử dụng là phân tích văn bản, sử Đàn và quy mô của cuộc khởi nghĩa có tầm dụng tài liệu điền dã thứ cấp và so sánh lan tỏa tới cả Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân. loại hình. Trong khuôn khổ bài viết, phạm Một nét đặc biệt của lịch sử vùng đất vi khảo sát của bài viết chỉ giới hạn trong này là, trong thời kỳ Đại Việt, xứ Nghệ những bài hát Ví, Giặm về tình yêu đôi lứa. một thời gian dài là vùng đất phên dậu mà 1. Xứ Nghệ - Một tiểu vùng văn hóa ranh giới cuối cùng của nó hiện còn lưu ở 1.1. Không gian địa lý và những tên gọi của núi Nam Giới (Thạch Hà, Hà điều kiện lịch sử hình thành vùng đất Tĩnh) được coi là nơi phân định lãnh thổ Nghệ Tĩnh của người Việt và người Chăm3. Điều này Trong các nghiên cứu về vùng văn hóa đã được chép trong một số thư tịch. Sách ở Việt Nam, xứ Nghệ (Nghệ An-Hà Tĩnh) Đại Nam nhất thống chí chép: “Hoành Sơn thường được coi là một tiểu vùng nằm phía nam huyện Kỳ Anh là chỗ phân địa trong vùng văn hóa Trung Bộ (Ngô Đức giới giữa hai tỉnh Hà Tỉnh và ... g, sự đứt đoạn diễn hoạt động truyền dạy của các nghệ nhân xướng không làm đứt đi mối dây ràng buộc trên sóng truyền hình và trong các trường tâm hồn người Nghệ với dân ca ví, giặm ở học, các phong trào thi đua học hát dân ca mọi thời điểm, ở mọi không gian. trong trường học và trong các địa phương Cũng như một số loại hình dân ca các trên địa bản tỉnhđã thực sự làm sống lại vùng miền khác (như quan họ, xoan), sau kho tàng dân ca Ví, Giặm trong cuộc sống năm 1945, các hoạt động diễn xướng dân mới. Đặc biệt, hình thức kịch hát dân ca gian dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh không với việc sân khấu hóa hình thức diễn được tiếp tục như trước. Dù vậy, trong các xướng dân gian truyền thống đã làm tốt xóm làng, các nghệ nhân vẫn hát, các bài việc nuôi sống diễn xướng dân gian trong dân ca vẫn được truyền lại cho con cháu. Ở một hình thức mới, bằng các phương tiện Thanh Chương quê tôi, vào những năm của nghe nhìn đã giới thiệu một cách rộng rãi thập kỷ 70 của thế kỷ trước, tôi vẫn được vốn cổ tới nhân dân34 để rồi kho tàng dân nghe một vài cuộc hò đối đáp của các anh ca Ví, Giặm được hồi sinh trong cuộc sống chị thanh niên trong làng. Đến thập kỷ 80 người dân với một sức sống mới. Hoạt thì diễn xướng đối đáp dân gian này mất động của hơn 50 câu lạc bộ dân ca trên địa hẳn. bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay là Tuy nhiên, trong lòng người Nghệ kết quả của những nỗ lực tổng hợp của các Tĩnh vẫn luôn có chỗ cho các bài dân ca. nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghệ nhân dân Theo “Báo cáo tổng quan về kiểm kê khoa gian xuất phát từ một chủ trương đúng đắn học dân ca Ví - Giặm Nghệ Tĩnh” do Viện của hai tỉnh về việc bảo tồn, khôi phục và Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam phát huy vốn cổ trong đời sống đương thực hiện trong 2 năm 2012-2013, thì: tại đại.35 tỉnh Nghệ An có 15 huyện/thị/thành phố, Bên cạnh đó, việc sáng tác các ca khúc bao gồm 60 xã/phường/thị trấn với 168 sử dụng chất liệu dân ca Ví, Giặm cũng là làng/thôn/xóm/khu dân cư và 60 câu lạc bộ một cách thức thể hiện việc khơi nguồn và đã và đang thực hành sinh hoạt dân ca Ví, tiếp nối sức sống của dân ca cổ truyền Giặm; con số này ở tỉnh Hà Tĩnh là 12 trong bối cảnh mới. Trong các ca khúc này, huyện/thị/thành phố bao gồm 38 xã/thị phương ngữ Nghệ được sử dụng một cách trấn/phường với 92 làng/thôn/xóm/khu dân tinh tế và uyển chuyển với trình độ nghệ cư và 15 câu lạc bộ. Và “cả 2 tỉnh hiện có thuật cao khiến cho chỉ cần lời ca được cất 2.696 cá nhân đại diện cho cộng đồng và lên là người nghe được đắm chìm vào câu lạc bộ (Nghệ An: 783 nam và 901 nữ; không gian văn hóa đặc sắc của xứ Nghệ. Hà Tĩnh: 545 nam và 503 nữ) ký tên vào Vẫn là việc sử dụng tiếng địa phương (mô, bản đại diện cho cộng đồng, cam kết đồng rứa, ngái), sự pha trộn của các thanh điệu thuận với chủ trương của Chính phủ Việt và việc thể hiện ngữ điệu đặc trưng giọng Nam về việc đề cử hồ sơ quốc gia, trình Nghệ, các bài hát về Nghệ Tĩnh tiếp nối UNESCO xét duyệt đưa “Dân ca Ví - Giặm mạch nguồn của dân ca Ví, Giặm đã Nghệ Tĩnh” vào danh sách di sản văn hóa chuyển tải hồn quê qua các ca khúc tới phi vật thể đại diện của nhân loại, năm người nghe mà sóng thanh âm có sức lay 2013”33. động mãnh liệt tới các tâm hồn người xứ Cùng với các hoạt động diễn xướng Nghệ. Có thể nói, không một người Nghệ dân gian, hoạt động sưu tầm và biểu diễn Tĩnh nào không thuộc ít nhất một ca khúc của các đoàn dân ca, việc cải biên lời cũ và về quê hương mình. Bên cạnh việc “ngôn 13 ngữ là một tập quán mà người ta mang theo phải thông qua những con người cụ thể; nó mình và không thay đổi dễ dàng được” phải vì đất nước nói chung, vì xứ Nghệ và (Hoàng Thị Châu, tr. 223), âm nhạc của con người Nghệ nói riêng. một vùng đất (dân ca, nhạc đương đại) có II. LỜI KẾT giá trị kết nối cao với một sức mạnh không Trong lời Tựa sách An Tĩnh cổ lục, thể ngờ tới, nó tạo nên một không gian văn Phó toàn quyền Đông Dương Yves Charles hóa xuyên thời gian và xuyên không gian, Châtel viết: “Nghệ Tĩnh là một trong đưa những người xa lại gần nhau trong một những miền đất của xứ Đông Dương có tinh thần tôn vinh bản sắc. Chính vì những những bản sắc và đặc điểm rõ rệt hơn đâu giá trị đó, ngày 27/11/2014, dân ca Ví, hết”. “Tính bản sắc” và “đặc điểm rõ rệt” Giặm Nghệ Tĩnh đã được UNESCO vinh này có thể cảm nhận một cách dễ dàng nhất danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện qua biểu tượng chưng cất của văn hóa xứ của nhân loại. Nghệ là dân ca Ví, Giặm với tư cách là một Các nghiên cứu về “bản sắc văn hóa” căn cước văn hóa của người Nghệ như ta trên thế giới với việc tranh luận rằng, nó là đã và đang thấy. Hơn nữa, là một kho tàng sản phẩm của lịch sử, của quá khứ hay là diễn xướng-dân ca có giá trị âm nhạc cao, câu chuyện đương đại, là sản phẩm thực là sản phẩm của những không gian diễn hay là sự tạo dựng có chủ ý theo những xướng đặc thù của một vùng quê có tính mục đích nào đó36 hoàn toàn có thể lấy kết nối và lan tỏa nội vùng mạnh mẽ khiến trường hợp dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh để cho nó có sức sống bền bỉ vượt thời gian, khảo sát. Như đã trình bày từ đầu bài viết dân ca Ví, Giặm đang từ xu hướng hướng đến đây, có thể thấy, việc chọn dân ca Ví, tâm một cách khả bảo thủ để lan tỏa ra các Giặm để thể hiện bản sắc văn hóa (ở trạng cộng đồng khác trong nền văn hóa Việt thái thăng hoa và chưng cất nhất) là lựa Nam cũng như các nền văn hóa khác trên chọn của người Nghệ trong quá trình lịch thế giới. Trải biết bao dâu bể, Ví, Giặm đã, sử, nó in dấu trong quá khứ và vẫn tiếp tục đang và sẽ sống một đời sống mạnh mẽ đến hôm nay, vừa là các giá trị ổn định vừa trong tâm hồn người Nghệ, trong không thay đổi theo những biến đổi của con người gian rộng lớn toàn cầu nơi những người và bối cảnh (lịch sử, xã hội) đương đại. Nghệ đang sống, và như vậy, nó mang sức Bối cảnh mới đang đặt ra vấn đề bảo sống Việt Nam tỏa rạng muôn nơi. tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong Cũng như người của biết bao miền quê những điều kiện kinh tế, xã hội mới. Từ khác, tôi yêu quê hương tôi bằng một một những mạch nguồn truyền thống và từ sự tình yêu sâu nặng. Trong tình yêu đó, với kết nối sâu xa của con người xứ Nghệ với mọi người Nghệ, tiếng Nghệ như là một không gian văn hóa của mình, từ tính bản biểu tượng của tất cả sự gian khổ, nhọc sắc đậm đà trong thế giới tinh thần của nhằn, của dịu ngọt và đằm thắm, của bình người Nghệ, từ việc trao truyền gen văn hóa yên và giông bão gắn kết người Nghệ của người Nghệ tới các thế hệ con cháu, thành một cộng đồng đầy thân thương; và việc bảo tồn gần nhất với nguyên trạng là Ví, Giặm như một thứ hồn cốt của quê yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Bảo tồn là để hương mà tôi tin, tất cả mọi người Nghệ giữ gìn bản sắc văn hóa cho đất nước nhưng đều từ đó để “lớn nổi thành người”. thực hiện sự bảo tồn và phát huy đó cần 14 Chú thích: 1 Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng 15 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, tr.64 Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1, Nxb. Sử học, H. 2 Về mặt phong thổ, xứ Nghệ "xưa nay vẫn để lại 16 Theo thống kê của Phan Mậu Cảnh, có 20% số bài trong tâm não của nhiều người ấn tượng một khu hát ví sử dụng tiếng Nghệ, và 100% bài hát dặm sử vực không hề được tạo vật cưu đương. Mấy mảnh dụng tiếng Nghệ. đồng bằng hẹp như bị thắt riết vào bao nhiêu thung 17 Nguồn: lũng, giữa những dãy núi chập chùng. Đất đai phần social-report-2010.pdf lớn chả có bao nhiêu màu mỡ. Nhiều nơi chỉ là đồng 18 Website: www.CESifo-group.org/wp chua nước mặn. Cảnh vật quanh năm, nếu không 19 Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb. nói là cằn cỗi, thì cũng không có gì là thi vị. Một Văn Sử Địa, H., tr.40 mùa xuân nghèo màu sắc, hiếm thanh âm. Hè đến là 20 Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ Nghệ Tĩnh nắng với gió. Những đợt "nam cào" làm cho nứt đất với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, Nguồn: Báo Hà nẻ đồng, cạn cả khe suối, khô róc cả giếng, ao, đầm Tĩnh online hồ. Bụi tỏa mù trời, đầu cả đường, lùa vào tận nhà 21 Bùi Dương Lịch, sdd, tr. 214 ở, phủ lên cả đồ đạc. Gió vồ vập làng mạc, gió rung 22 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), chuyển cả núi rừng. Nắng với gió là hai nguyên tố Hát giặm Nghệ Tĩnh, sdd ngự trị. Tiếp theo đó là mùa thu với mưa với lụt. 23 Stephen Samuel James (2011), Những người London Rồi đến mùa đông ủ dột, lạnh lẽo, tiêu điều" (Đặng gốc Việt: Các bản sắc xuyên quốc gia qua những liên Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb. kết cộng đồng (Vietnamese Londoners: Transnational Văn hóa, Hà Nội, (in lần thứ 2), tr. 34-35) Identities Through Community Networks) 3 Bùi Dương Lịch viết: “Núi Nam Giới trên bờ biển 24 Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất bác học trng xã Dương Luật, huyện Thạch Hà. Ngày trước, phía ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3. Nam nước ta giáp giới nước Chiêm Thành, nên đặt 25 Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn tên là núi Nam Giới”. (Nghệ An ký, Nguyễn Thị hóa & Viện Văn học, tr.27 Thảo dịch và chú, Nxb. KHXH, H., 1993, tr.155). 26 Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn 4 An Tĩnh cổ lục, Bản dịch của Nguyễn Đình Khang hóa & Viện Văn học, tr.49 và Nguyễn Văn Phú; phần hiệu đính của Chương 27 Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát Thâu và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và Trung giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Đại học, tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005, tr. 20 Sài Gòn, số 34 5 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), 28 Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát giặm, Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập I, Nxb. Sử học, H., tr.23 Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 1995 6 Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo 29 Lê Văn Hảo (1963), bdd dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. KHXH., H., 1993, 30 Nguyễn Chung Anh (1958), sdd, tr.42 tr.211 31 Hỏi (Sĩ Đường): Một là tương lạt muối, Hai là 7 Lời Tựa cuốn An Tĩnh cổ lục, Sdd., tr.10 tương xấu đỗ nành, Ba là Tương vắn (ngắn) múi 8 Dẫn theo Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Không chộ của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Tạp chí Tương lai vãng, Nỏ chộ nàng lai vãng. Đại học, Sài Gòn, số 34 Đáp (Di Tương): Tương không hề lạt muối, Tương 9 Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, không xấu đỗ nành, Tương cũng không vắn múi sđd, tr. 40 khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Tương đi 10 Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & phân vùng ngày ba bận, Tương đạp giữa mặt đường ba bận. văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, TpHCM, tr.189 32 Tôi vẫn nhớ như in cảm giác bị shock khi nghe cuộc 11 Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền hò đối đáp vào một đêm trăng mùa hè cách đây hơn đất nước (phương ngữ học), Nxb. KHXH., H. 35 năm quê tôi (Ngọc Sơn, Thanh Chương). Trong 12 Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương ngôn cuộc hò đối đáp đó, khi bị nhóm các chàng trai trêu trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ yếu Hội thảo chọc hơi ác ý, các cô gái lập tức đáp lại: “Hò chi hò Khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị hò, ví, dại hò thàm, Bẻ que truồng lợn chống hàm cha mi giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, 2011 lên” khiến cho cuộc hò đối đáp lặng đi. Xin chú ý, 13 Karl Marx đã nói rằng: “Thổ ngữ là sản phẩm của người Thanh Chương phát âm từ “chuồng lợn” công xã, cũng như nếu xét theo một quan điểm đó, thành chữ “truồng lợn”. nó là bản thân sự tồn tại của công xã: là công xã tự 33 Nguồn: biểu hiện” (dẫn theo Hoàng Thị Châu, tr. 230). 34 Việc ra đời thể loại kịch hát được chuyển thể từ 14 Hoàng Trọng Canh trong bài viết Phương ngữ Nghệ những làn điệu ví, giặm được bắt đầu với vở Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ (2014) đã “Không phải tôi”(1970) và nhiều vở diễn như: “Cô phân tích thang âm phức tạp dẫn đến tính “lơ lớ”, gái sông Lam”; “Lời Người, lời của nước non” đã “trọ trẹ” trong phát âm của người Nghệ đánh dấu thành công của Đoàn Dân ca Nghệ Tĩnh. 15 35 Nhiều năm xa quê, tôi cũng không ngờ xã Ngọc Sơn 9. Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, (huyện Thanh Chương, Nghệ An) hiện đã có một Nxb Văn hoá & Viện Văn học, Hà Nội. câu lạc bộ Ví, Giặm với hơn 40 thành viên mà từ chủ nhiệm, người viết lời và dàn dựng các điệu hát 10. Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt đến các thành viên đều là người họ hàng quen biết. của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, 36 Fred Dervin (2011), Bản sắc văn hóa, tính đại diện Tạp chí Đại học, Sài Gòn, số 34 và những vấn đề khác (Cultural identity, representation and Othering), Nguồn: 11. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. Jean-François Bayart (2005), Những ảo tưởng về KHXH., H., 1993, tr.211 bản sắc văn hóa (The Illusion of Cultural Identity), University Of Chicago Press. 12. Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, In lần thứ 2, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. 13. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & TÀI LIỆU THAM KHẢO phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp.HCM Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, tr.40 Tài liệu tiếng nước ngoài 2. Hippolyte le Breton (1936), An Tĩnh cổ lục, 1. The Ministry of Social Development (2010), Tập san “Đô thành hiếu cổ” xuất bản, Bản The Social Report, Source: dịch của Nguyễn Đình Khang và Nguyễn Văn Phú; phần hiệu đính của Chương Thâu ts/the-social-report-2010.pdf và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và 2. Oliver Falck, Alfred Lameli, Stephan Heblich, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Jens Suedekum (2010), Dialect, Cultural 2005 Identity and Economic Exchange, Website: 3. Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ www.CESifo-group.org/wp Nghệ Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ 3. Stephen Samuel James (2011), Vietnamese Nghệ, Nguồn: Báo Hà Tĩnh online Londoners: Transnational Identities Through 4. Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương Community Networks, Goldsmiths College, ngôn trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ University of London yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy 4. Fred Dervin (2011), Cultural identity, các giá trị hò, ví, giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, representation and Othering, Source: 2011 5. Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất ct.pdf bác học trng ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn 5. Jean-François Bayart (2005), The Illusion of hóa dân gian, Hà Nội, số 3. Cultural Identity), University Of Chicago 6. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các Press. miền đất nước (phương ngữ học), Nxb. Akhil Gupta and James Ferguson (1992), KHXH., Hà Nội. “Beyond "Culture": Spsace, Identity, and the 7. Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Politics of Difference”, Source: Cultural Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1&2, Nxb. Sử Anthropology, Vol. 7, No. 1, Space, Identity, học, Hà Nội. and the Politics of Difference, (Feb., 1992), 8. Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát pp. 6-23 giặm, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. Ngày nhận bài: 19/5/2015 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015 16
File đính kèm:
- ban_sac_nguoi_nghe_nhin_tu_dan_ca_vi_giam.pdf