Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm

Để xây dựng cơ sở ban đầu cho giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện, giáo dục mầm non cần phải được tiến hành một cách tổng hợp và đồng bộ các mặt sau đây:

• Giáo dục thể chất

• Giáo dục trí tuệ

• Giáo dục đạo đức

• Giáo dục thẩm mĩ

• Giáo dục lao động.

Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, lao động và thể chất. Những cảm xúc thẩm mỹ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người và làm cho tình cảm con người thêm cao thượng. Những mặt giáo dục trên đây gắn bó, bổ sung cho nhau trong quá trình hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên, do đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ ở mỗi thời kì khác nhau là khác nhau, nên cần phải xác định được các nhiệm vụ nội dung, phương pháp, biện pháp chăm sóc và giáo dục phù hợp với đặc điểm tăng trưởng và phát triển của từng thời kì.

 

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 1

Trang 1

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 2

Trang 2

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 3

Trang 3

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 4

Trang 4

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 5

Trang 5

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 6

Trang 6

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 7

Trang 7

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 8

Trang 8

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 9

Trang 9

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 20 trang baonam 04/01/2022 31150
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module giáo viên mầm non 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm
Bài thu hoạch BDTX module GVMN 16: Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.
Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ, nhằm giúp trẻ biết nhận ra cái đẹp, có hứng thú, yêu thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động cá nhân.
Giáo dục thẩm mỹ mà trung tâm là giáo dục cái đẹp và đưa cái đẹp vào trong đời sống một cách sáng tạo, là một nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục nhân cách phát triển toàn diện.
Tuổi thơ luôn nhìn thế giới bằng cặp mắt trong sáng, tất cả đối với trẻ dường như rực rỡ hơn, mặt trời chói lọi hơn, chị "Hằng Nga" huyền bí hơn, bông hoa rực rỡ, dòng sông tung sóng, cơn giông ập đến v.v... chúng bộc lộ xúc cảm thẩm mỹ thật hồn nhiên và trong trẻo. Lứa tuổi này tiếp nhận và hình thành năng lực sáng tạo thẩm mỹ ban đầu rất cần thiết cho việc hình thành tài năng sáng tạo về sau.
Để xây dựng cơ sở ban đầu cho giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện, giáo dục mầm non cần phải được tiến hành một cách tổng hợp và đồng bộ các mặt sau đây:
Giáo dục thể chất
Giáo dục trí tuệ
Giáo dục đạo đức
Giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục lao động.
Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, lao động và thể chất. Những cảm xúc thẩm mỹ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người và làm cho tình cảm con người thêm cao thượng. Những mặt giáo dục trên đây gắn bó, bổ sung cho nhau trong quá trình hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên, do đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ ở mỗi thời kì khác nhau là khác nhau, nên cần phải xác định được các nhiệm vụ nội dung, phương pháp, biện pháp chăm sóc và giáo dục phù hợp với đặc điểm tăng trưởng và phát triển của từng thời kì.
1. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non
1.1.1. Khái niệm giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục thẩm mĩ, về bản chất là bồi dưỡng lòng khao khát đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hoà giữa xã hội – con người – tự nhiên, nâng cao năng lực cảm thụ và sáng tạo cái đẹp ở con người, làm cho con người được phát triển một cách hài hoà trong mọi hoạt động lao động cũng như nghỉ ngơi, trong quan hệ gia đình cũng như xã hội.
Cũng như mọi hoạt động giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ là một quá trình lâu dài, diễn ra một cách có hệ thống: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non là sự khởi đầu cho toàn bộ quá trình giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường.
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mầm non là một quá trình sư phạm, nhằm hình thành và phát triển ở trẻ em năng lực ban đầu về cảm thụ và nhận thức đúng đắn cái đẹp trong đời sống sinh hoạt, xã hội, trong tự nhiên và trong nghệ thuật, giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp, sống theo cái đẹp và biết tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.
Giáo dục thẩm mĩ là một khái niệm rộng, bao gồm việc giáo dục cho trẻ thái độ thẩm mĩ đối với thiên nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với nghệ thuật. Từ việc cho trẻ có được sự hiểu biết đúng đắn thế nào là đẹp, xấu đến sự hình thành thái độ tích cực ủng hộ cái đẹp, loại trừ cái xấu, đồng thời có hành vi thích hợp với bản thân để tạo ra cái đẹp cho bản thân và cái đẹp trong cuộc sống xung quanh là một quá trình tác động sư phạm lâu dài của người lớn (cô giáo, cha mẹ, ông bà).
1.1.2. Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non
Giáo dục thẩm mĩ là một trong những mặt quan trọng trong giáo dục để con người phát triển toàn diện, do vậy, trong công tác giáo dục mầm non không thể thiếu giáo dục thẩm mĩ.
Tuổi mầm non là giai đoạn phát triển nhanh nhất các chức năng tâm lí, là giai đoạn hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách. Trong đó phải kể đến những cơ sở để hình thành thị hiếu và năng khiếu thẩm mĩ sau này.
Đặc tính của cái đẹp và đặc tính của tuổi thơ rất gần nhau, nên trẻ nhỏ đến cái đẹp như đến với những gì thân thiết, quý mến. Trẻ tích cực, vui sướng khi được sống trong thế giới của cái đẹp: đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ nghĩnh, màu sắc, âm thanh của cảnh vật xung quanh hấp dẫn Vì vậy, nếu không giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là bỏ lỡ một cơ hội trong giáo dục con người. Có thể coi đó là một sự lãng phí đáng kể trong việc bồi bổ những năng khiếu, những phẩm chất tất đẹp cho tâm hồn trẻ thơ.
Mặt khác, tình yêu cái đẹp không phải là cái bẩm sinh mà nó được nảy sinh và phát triển trong quá trình giáo dục. Một em bé sẽ không thể có được tình yêu cái đẹp nếu chúng ta không tạo điều kiện để em bé đó tiếp xúc với nhiều cái đẹp xung quanh, không làm cho những thuộc tính sinh động và phong phú của cái đẹp tràn vào các giác quan của trẻ để ghi lại trong tâm trí nó những ấn tượng tươi mát, dễ chịu; nếu chúng ta không biết khêu gợi ở trẻ những xúc cảm tốt lành về con người và làm thức dậy trong trẻ những gì thân thiết, gần gũi khi tiếp xúc với cái đẹp.
Đừng nên nghĩ rằng, trẻ còn nhỏ không biết thế nào là đẹ ...  con người: con người – thiên nhiên; con người – xã hội.
Đối với thiên nhiên, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu hồn nhiên đối với con ong, con kiến, con cò, con vạc, cỏ cây hoa lá
Đối với con người, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà, cha mẹ, bà con xóm làng; đồng cảm với những người có cảnh ngộ éo le, sẵn lòng giúp đỡ người nghèo khổ; tàn tật. Có thể nói, đồng dao là những bài học đạo đức rất nhẹ nhàng và hấp dẫn đối với trẻ thơ.
Mặt khác, đồng dao với tính hài hước của nó đã mang lại cho trẻ những niềm vui sướng vô tư, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa, chính sự hài hoà, hóm hỉnh của đồng dao đã bồi dưỡng trí tuệ của trẻ thêm thông minh, sắc sảo.
– Giáo dục cái đẹp trong hoạt động tạo hình
Như đã trình bày trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ, tạo hình rất hấp dẫn trẻ thơ. Ngay từ nhỏ, trẻ đã thích nhìn ngắm những bức tranh màu sắc sặc sỡ, những hình khối đa dạng, nhưng chúng chưa tự nhận biết, chưa tự phát hiện ra cái đẹp của những tác phẩm ấy. Bởi vậy, người lớn cần phải hướng dẫn trẻ, tổ chức cho trẻ được tiếp xúc với nhiều tác phẩm tạo hình có giá trị như tranh, tượng và hướng dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.
Tranh, tượng đưa đến cho trẻ em phải đẹp, rõ ràng, màu sắc tươi sáng, đường nét hài hoà để sao cho trẻ có thể cảm nhận được vẻ đẹp của chúng một cách dễ dàng. Chúng ta có thể bắt đầu từ những bức tranh dân gian (gà, lợn, cá) với những đường nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng đến những bức tranh hiện đại (của hoạ sĩ và của tuổi thơ). Cho trẻ chơi với những con giống; những đồ chơi dân gian; đồ chơi thường; cho trẻ xem những bức tượng đặt ở công viên, đại lộ Trẻ rất thích ngắm nhìn những tác phẩm nghệ thuật này, và cũng thích thú hơn khi người lớn hướng dẫn trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.
Cùng với việc hướng dẫn trẻ cảm thụ vẻ đẹp của tác phẩm tạo hình khi được xem, sờ mó nó, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tập cầm bút, vẽ những đường cơ bản, cho trẻ chơi với đất nặn, tập nặn. Mặc dù trẻ vẽ nguệch ngoạc, nặn còn thô kệch chưa có hình thù rõ rệt, nhưng dần dần trẻ sẽ có kĩ năng vẽ những tranh đơn giản (vẽ quả cam, quả thị, quả táo, cái lá), nặn theo ý định – một số cái đơn giản (đôi đũa, cái thìa, quả cam, quả thị).
Các hoạt động tạo hình khác như xếp hình, xé dán cũng là những hoạt động được trẻ ưa thích và người lớn có thể giáo dục thẩm mĩ cho trẻ qua việc tổ chức cho trẻ tham gia những hoạt động này.
Tóm lại, tuổi thơ là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, là thời kì con người tiếp nhận cái đẹp một cách dễ dàng, bởi vì trẻ nhỏ đến với cái đẹp một cách tự nhiên như đến với những gì thân thiết, yêu quý. Vì vậy nếu bỏ qua tuổi thơ trong việc giáo dục cái đẹp là bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi trong giáo dục con người. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ phải phong phú, bao gồm nhiều thể loại, đặc biệt là giáo dục cho trẻ cái đẹp gần gũi trong cuộc sống hằng ngày, để hình thành năng lực thẩm mĩ cho trẻ. Giáo dục thẩm mĩ không thể áp đặt, gò bó, mà phải để trẻ tự nhiên, thoải mái, giữ được tính hồn nhiên của trẻ thơ.
1.3. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo
1.3.1. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo
– Phát triển tri giác, tình cảm và hình thành biểu tượng về cái đẹp cho trẻ mẫu giáo.
Giáo dục thẩm mĩ bắt đầu từ sự phát triển năng lực tri giác cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, hiểu cái đẹp theo cách người ta thường nói về nghệ thuật.
Theo quan điểm của mĩ học Mác– Lê nin, sự tri giác cái đẹp được hiểu là quá trình cảm thụ cái đẹp mà kết quả của nó là những rung cảm thẩm mĩ, những tình cảm thẩm mĩ.
Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là sự nhận thức cảm tính, cụ thể về mặt thẩm mĩ. Ngay từ những năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ đã bị lôi cuốn một cách vô ý thức vào tất cả những gì mới lạ, hấp dẫn như đồ vật có màu sắc sặc sỡ, những âm thanh và nhịp điệu rộn rã, tươi vui của thế giới xung quanh. Từ “đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ. Trẻ say sưa lắng nghe bài hát, nghe truyện cổ tích, xem tranh ảnh. Song đó chưa phải là tình cảm thẩm mĩ mà chỉ là sự biểu hiện của hứng thú nhận thức. Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ là giúp trẻ chuyển từ tri giác tự phát sang sự tri giác có ý thức về cái đẹp. Cô giáo cần làm cho trẻ chú ý đến những sự vật và hiện tượng của tự nhiên, đến những hành vi của con người, dạy cho các em biết nhìn ra và phát triển được cái đẹp trong đời sống, trong thiên nhiên, trong lao động, trong hành vi và hành động của con người, dạy cho các em biết nhìn nhận về phương diện thẩm mĩ đối với thế giới xung quanh.
Sự tri giác thẩm mĩ bao giờ cũng liên quan chặt chẽ với cảm xúc và tình cảm thẩm mĩ. Với trẻ em, đặc điểm của tình cảm thẩm mĩ là niềm vui vô tư, là cảm xúc trong sáng xuất hiện khi thấy cái đẹp. Tình cảm thẩm mĩ giữ vai trò rất to lớn trong việc đánh giá các sự vật và hiện tượng khác nhau, trong việc rèn luyện thị hiếu thẩm mĩ sau này cho trẻ.
Giáo viên còn có nhiệm vụ dẫn dắt trẻ đi từ sự tri giác cái đẹp, cảm xúc đối với nó, đến chỗ hiểu và hình thành biểu tượng về cái đẹp, biết nhận xét và đánh giá thế nào là đẹp, thế nào là xấu.
– Phát triển hứng thú và năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ
Năng lực sáng tạo nghệ thuật không phải là cái bẩm sinh, nó được hình thành trong quá trình giáo dục của người lớn. Mọi trẻ em bình thường đều có khả năng sáng tạo nghệ thuật nếu được hướng dẫn đúng đắn về mặt sư phạm. Do vậy, việc phát triển hứng thú và năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng những hình tượng sinh động, cụ thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Song ở lứa tuổi mẫu giáo, hầu hết trẻ em đều yêu thích các loại hình nghệ thuật và có khả năng tiếp thu các loại hình nghệ thuật như, múa hát, kể chuyện, đọc thơ, vẽ, nặn, xé dán, Vì vậy, nhiệm vụ của cô giáo mầm non là phải khêu gợi hứng thú và tạo điều kiện cho trẻ tham gia tích cực, tự giác vào các loại hình nghệ thuật đó để phát triển năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ.
– Hình thành những cơ sở của thị hiếu thẩm mĩ
Sự thụ cảm cái đẹp có liên hệ mật thiết đến năng lực đánh giá cái đẹp một cách đúng đắn. Thị hiếu thẩm mĩ của con người biểu hiện ở khả năng phán đoán, đánh giá về cái đẹp, cái xấu trong hiện thực xung quanh. Trường mẫu giáo có nhiệm vụ hình thành cho trẻ những cơ sở của thị hiếu thẩm mĩ, thị hiếu nghệ thuật. Cần dạy cho các em phân biệt cái đẹp với cái không đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giáo dục cho các em năng lực trình bày rõ lí do tại sao mình thích bài hát, truyện cổ tích hay bức tranh này. Dĩ nhiên, trường mẫu giáo hình thành cho trẻ cơ sở ban đầu về đánh giá, nhưng chính điều này có ý nghĩa to lớn, vì nó giáo dục trẻ một thái độ tự giác hơn với đối tượng thẩm mĩ.
Cần dạy trẻ biết nhận ra và cảm thụ cái đẹp ở cuộc sống xung quanh và biết bảo vệ nó. Một bông hoa đẹp trong khóm hoa, một lớp học trang hoàng, đẹp đẽ, ấm cúng và sạch sẽ, các đồ dùng được xếp, đặt gọn gàng, ngăn nắp v.v đều là những cái đẹp trong cuộc sống, phải biết bảo vệ, chăm sóc và giữ gìn. Đồng thời, cũng cần giúp trẻ hiểu được thế nào là cái xấu xí, thô kệch cần tránh trong cuộc sống hằng ngày, như quần áo lôi thôi, bẩn thỉu; đầu tóc rối bù; đồ dùng, đồ chơi vứt ngổn ngang bừa bãi
Nghiên cứu các nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo cho thấy, chúng có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách của trẻ, đồng thời cũng thấy được quá trình giáo dục thẩm mĩ rất phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ và đòi hỏi ở nhà giáo dục một vốn tri thức và kĩ năng văn hoá thẩm mĩ nhất định.
1.3.2. Phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo
Khái niệm và thuật ngữ “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” và “các phương pháp dạy nghệ thuật” có những điểm giống nhau và khác nhau. Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ không chỉ nhằm hình thành thái độ thẩm mĩ đối với thế giới tự nhiên, xã hội, đối tượng thẩm mĩ mà còn đối với cả quá trình dạy nghệ thuật. Khái niệm “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” rộng hơn và bao hàm trong nó cả phương pháp dạy nghệ thuật.
Có thể coi các phương pháp giáo dục thẩm mĩ và dạy nghệ thuật là những cách thức hành động chung của giáo viên và trẻ em nhằm giúp cho trẻ nắm được kinh nghiệm hoạt động thẩm mĩ, nhằm hình thành những phương thức hành động và phát triển năng lực nghệ thuật ở chúng.
Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với các nhiệm vụ và bản chất của giáo dục thẩm mĩ. Những phương pháp giáo dục thẩm mĩ nhằm kích thích trẻ tích cực suy nghĩ, cảm xúc, tưởng tượng và hoạt động.
Hệ thống phương pháp phổ biến được phân loại trên cơ sở nguồn cung cấp tri thức, bao gồm:
– Nhóm các phương pháp dùng lời: giải thích, trò chuyện, chỉ dẫn, đọc kể
- Nhóm các phương pháp trực quan: quan sát, sử dụng các đồ dùng trực quan.
- Nhóm các phương pháp thực hành (hay thực tiễn) luyện tập.
– Nhóm các phương pháp dùng trò chơi.
Các phương pháp này được sử dụng trong sự phối hợp thống nhất với nhau. Trước hết, cô cần tổ chức cho trẻ quan sát vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên, như quan sát một vườn hoa, cảnh hoàng hôn đầy màu sắc, khung cảnh một ngày lễ, hay những tác phẩm nghệ thuật (bức tranh vẽ, bức tượng gỗ) kết hợp với ngôn ngữ nghệ thuật trong kể chuyện, chỉ dẫn, giải thích làm tăng khả năng cảm thụ thẩm mĩ và làm cho trẻ nhận ra cái đẹp và yêu thích cái đẹp trong cuộc sống, trong thiên nhiên và trong các tác phẩm nghệ thuật.
Những cảm xúc thẩm mĩ trở nên sâu sắc và giữ được lâu hơn nếu như trẻ hiểu rõ nội dung đối tượng (một bài hát, một câu chuyện cổ tích, một bức tranh, một bông hoa đẹp, một áng mây trôi,). Do đó, cô giáo cần giải thích nội dung tác phẩm đang được tiếp thu, làm chính xác các biểu tượng của các em. Việc trình bày một cách nghệ thuật những tác phẩm âm nhạc, những ca khúc; việc đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật tác động trực tiếp đến trẻ, khêu gợi tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ, giúp các em hiểu sâu sắc hơn nội dung và hình thức tác phẩm.
Khi sử dụng phương pháp trò chuyện, bằng những câu hỏi của mình, cô giáo làm cho trẻ lưu ý, suy nghĩ về những điểm chủ yếu (ví như các tuyến hành động và các nhân vật), tìm hiểu và tổ chức kinh nghiệm của trẻ, làm sâu sắc những cảm xúc thẩm mĩ của trẻ. Trong khi trò chuyện, tập cho trẻ nói lên những ấn tượng của mình, bày tỏ thái độ của mình đối với tác phẩm và các hiện tượng trong cuộc sống. Khi trò chuyện phải dùng từ kích thích cảm xúc thẩm mĩ của trẻ đối với tác phẩm nghệ thuật.
Khi trẻ dạy vẽ, nặn, hát, múa, cô không chỉ hướng dẫn trẻ cách làm mà cần tổ chức cho trẻ thực hành nhằm hình thành những kỹ năng nhất định. Bởi vậy, giáo viên cần vận dụng phương pháp luyện tập. Để trẻ hiểu biết các thao tác, cách biểu hiện, cách sử dụng các đồ dùng học tập (bút chì, bút lông, màu vẽ v.v) cô cần dùng các biện pháp chỉ dẫn, làm mẫu
Trong giáo dục thẩm mĩ cũng cần dùng phương pháp tập luyện hành động có thể gọi đó là những hành động thẩm mĩ. Ở trẻ có những hành động với ý thức muốn làm cho hoàn cảnh sống xung quanh đẹp hơn, tức là trẻ muốn biến đổi nó theo sức mình và bằng cách đó làm cho bạn bè và người lớn vui thích. Cần giúp trẻ tập luyện hành động thông qua các bài tập khác nhau. Tập luyện đòi hỏi phải có sự lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng khác với việc tập luyện những thói quen trong sinh hoạt, việc tập luyện những hành động thẩm mĩ không theo một trình tự chặt chẽ, ví như, trẻ có thể dùng sỏi đá, những tấm bìa nhỏ, những mảnh nhựa màu để xếp thành một hình gì đó (một con thuyền, một ngôi nhà chẳng hạn). Vì vậy, rất cần giáo dục và phát triển năng lực hành động trong những hoàn cảnh có vấn đề, năng lực vận dụng những kĩ năng đã nắm được.
Trong giáo dục thẩm mĩ, hoạt động chủ yếu của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Điều quan trọng là cho trẻ tiếp xúc với những phương thức hoạt động nghệ thuật khái quát nhất, điển hình nhất, tức là những phương thức cần thiết cho mọi biến thể của các loại hình nghệ thuật. Những phương thức chung đó là: những phương thức định hướng về âm thanh, màu sắc, hình dạng, vận động, những phương thức định hướng trong toàn bộ những phương tiện thể hiện của mỗi loại hình nghệ thuật (cảm giác), các phương thức tiếp xúc với nội dung tư tưởng, tình cảm của các tác phẩm và cùng xúc cảm với các nhân vật (hình tượng nghệ thuật), sự kết hợp những phương thức tổng thể và phân tích.
Về phương diện cảm thụ thẩm mĩ, sự khác biệt cá nhân rất lớn và bộc lộ ngay từ lứa tuổi mẫu giáo. I. P. Páplốp có nói đến hai kiểu người cơ bản, căn cứ vào kiểu hoạt động thần kinh của họ, đó là kiểu nghệ sĩ cảm thụ thế giới bên ngoài một cách mãnh liệt, trực tiếp và chủ yếu dựa vào hệ thống tín hiệu thứ nhất; kiểu người trí tuệ nặng về hoạt động phân tích dựa vào hệ thống tín hiệu thứ hai, dựa vào từ, vào sự phân tích và khái quát các hiện tượng. Bởi vậy, phương pháp giáo dục thẩm mĩ phải được xác định tuỳ theo đặc điểm lứa tuổi và cá nhân của trẻ.
Mặt khác, quan điểm tổng hợp đòi hỏi phải thiết lập mối quan hệ qua lại giữa các phương pháp và biện pháp giáo dục thẩm mĩ, có tính đến những điều kiện sư phạm, các nhân tố của quá trình sư phạm nhằm đem lại một kết quả tối ưu.
1.4. Phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mầm non
Có nhiều phương tiện để giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non. Dưới đây là một số phương tiện cơ bản:
1.4.1. Vẻ đẹp của môi trường xung quanh trẻ
Những đồ đạc, vật dụng trong gia đình như: nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi từ hình dáng, kích thước, màu sắc đến bài trí nó trong gia đình đảm bảo sự trang nhã, gọn gàng, sạch sẽ, trật tự trở thành đối tượng thẩm mĩ của trẻ. Bởi vì, chính những cái đó đã gây ấn tượng sâu sắc ở trẻ và để lại trong trí nhớ và ý nghĩ của trẻ thơ.
Vẻ đẹp trong sinh hoạt của trường mầm non như các tiện nghi sinh hoạt, đồ chơi, cách sắp xếp, bài trí, màu sắc của các vật dụng đảm bảo sự trang nhã, hài hoà đã tạo ra vẻ đẹp của môi trường “học tập” cho trẻ. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Người lớn, cô giáo mầm non cần tạo điều kiện cho cuộc sống sinh hoạt xung quanh trẻ từ nhà ở đến trường, lớp mầm non có vẻ đẹp trang nhã, tươi vui hợp lí, hấp dẫn và mang tính giáo dục thẩm mĩ cao.
Tóm lại: Giáo dục thẩm mỹ trong những nội dung quan trọng của giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ, và là việc cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mẫu giáo. Có thể coi trẻ mẫu giáo là thời kỳ “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc động đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí tưởng tượng của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, năng khiếu nghệ thuật và cũng thường được nảy sinh từ lứa tuổi này.
Khi nó đến giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo, ta thường coi đó là nhiệm vụ của trường mầm non với các “tiết học” tạo hình, múa hát, đóng kịch mà hầu như ít người chú ý đến một trong những nhà giáo dục chủ yếu nhất và tuyệt vời nhất – đó chính là gia đình. Sự cảm nhận đầu tiên , rực rỡ nhất, ấn tượng nhất về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mỹ của cha mẹ từ mối quan hệ giao tiếp - ứng xử tốt đẹp trong gia đình, đây là điều kiện quan trọng nhất để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.

File đính kèm:

  • docxbai_thu_hoach_boi_duong_thuong_xuyen_module_giao_vien_mam_no.docx